CMT - Tiêu chuẩn vàng của trader trong PTKT
  • Thông báo


    Bình chọn: Phương pháp đầu tư của bạn

    + Trả lời Chủ đề
    Kết quả 1 đến 20 của 169

    Hybrid View

    1. #1
      Ngày tham gia
      Jan 2006
      Bài viết
      1,872
      Được cám ơn 1,087 lần trong 476 bài gởi

      Mặc định

      Trích dẫn Gửi bởi kiemkhach Xem bài viết
      Nhằm giới thiệu thêm với các bác về nghề trader, em sẽ sưu tầm thêm cho các bác về các bài viết về trader.

      Những nhà đầu cơ vĩ đại trong lịch sử
      Hoạt động từ năm 1972, Sở Giao dịch Chứng khoán New York chứng kiến nhiều đổ vỡ, thất bại, nhưng cũng có không ít nhà đầu tư kiếm lợi nhuận kếch xù nhờ tài năng và cả mánh khóe của mình.
      Tuy nhiên, dù có suy nghĩ thế nào về công việc của 10 người dưới đây, bạn cũng không thể phủ nhận họ là những nhà đầu cơ lớn nhất mọi thời đại.
      10. George Soros, chủ của tập đoàn Soros Quantum Fund

      George Sorsos nổi tiếng về nhiều thứ, nhưng người ta nhớ đến ông nhiều nhất là vào năm 1992, khi ông dự đoán đồng bảng Anh sẽ xuống giá. Ngay lập tức, ông bán khống 10 tỷ bảng Anh và thu khoản lời lớn từ vụ đầu cơ này. Từ đó đến nay, ông được biết đến như “người phá hủy ngân hàng Anh”.
      George Soros còn nổi tiếng với phi vụ đầu cơ thực hiện vào năm 1988. Ngày ấy, Soros vận hành liên hoàn giữa mua và bán cổ phiếu Societe Generale, một ngân hàng lớn của Pháp, và kiếm được 2,2 triệu USD. Mãi đến năm 2006, một tòa án ở Pháp mới kết tội Soros sử dụng thông tin của người trong cuộc ở vụ đầu cơ này và đòi Soros phải hoàn trả tất cả lợi nhuận. Soros kháng án lên tận Tòa án Nhân quyền của Châu Âu. Một phán xử như vậy vào năm 1988 đủ để hủy hoại toàn bộ sự nghiệp đầu cơ của Soros, nhưng lại chẳng làm được gì nhà đầu cơ này vào thời điểm năm 2006.
      George Soros nổi tiếng trong giới đầu cơ là người kiếm được nhiều tiền nhất và nhanh nhất.
      9. David Einhorn, Giám đốc Quỹ phòng vệ rủi ro Greenlight Capital, Mỹ

      David Einhorn nổi tiếng với nghiệp vụ bán khống, điển hình là 2 vụ bán khống ngân hàng Allied Capital và Lehman Brothers.
      Là người nổi tiếng trong giới đầu tư với những phản biện táo bạo. Einhorn còn đặc biệt được biết đến rộng rãi từ đầu năm 2008, khi ông chạm đến nỗi sợ của giới đầu tư bằng việc chỉ trích và vạch ra tình trạng nguy cấp của tập đoàn tài chính hàng đầu Lehman Brothers chỉ vài tháng trước khi tập đoàn này đệ đơn xin phá sản.
      Điều thú vị nữa là ông Einhorn từng bắt đầu công việc kinh doanh tại quỹ đầu cơ Greenlight Capital do ông sáng lập với số tiền khoảng 900.000 USD vay mượn từ gia đình.
      8. Paul Tudor Jones, người sáng lập và Chủ tịch của Tudor Investment Corp.

      Là một trong những tên tuổi nổi tiếng nhất trong ngành tài chính thế giới, Paul Tudor Jones được biết đến rộng rãi khi đưa ra dự báo về sự sụp đổ trên thị trường chứng khoán Mỹ năm 1987. Ông đang điều hành quỹ Tudor Investment Corp của riêng mình, tuy nhiên cũng tham gia rất nhiều vào các hoạt động từ thiện.
      Ông này được biết đến như một con kền kền, chuyên kiếm ăn từ xác chết của các doanh nghiệp hay thậm chí là các nền kinh tế.
      7. David Tepper, người sáng lập quỹ Appaloosa Management

      Là người sáng lập ra Appaloosa Management, David Tepper nổi tiếng với các hoạt động đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu đang mất giá. Sau khủng hoảng tài chính, cũng giống như John Paulson, Tepper mua cổ phiếu ngân hàng ở mức thấp và sau đó bán ra ở mức cao, và thu về hàng tỷ USD lợi nhuận cho riêng mình.
      Tuy nhiên, ông này cũng được biết đến là một nhà hảo tâm “tham lam”. Lý do là bởi sau khi quyên góp 55 triệu đôla cho ngôi trường Carnegie Melon, nơi ông đã từng theo học, David Tepper đã yêu cầu đổi tên ngôi trường này thành trường đại học mang tên ông, trường kinh doanh David A. Tepper.
      6. Marty Schwartz

      Marty Schwartz bắt đầu khởi nghiệp tại sàn giao dịch American Stock Exchange và sau đó chuyển sang thực hiện các giao dịch tương lai.
      Một trong những vụ đầu tư nổi tiếng nhất của ông được đưa vào 2 cuốn sách: Pitbull do ông tự viết và Market Wizards do Jack Schwager viết. Tại 2 cuốn sách này, ông cũng thẳng thắn đưa ra những kinh nghiệm đầu tư của chính mình.
      5. John Arnold, chủ quỹ đầu tư Centaurus Energy

      John Arnold làm nên tên tuổi của mình bởi khả năng kinh doanh tài năng tại tập đoàn năng lượng Enron. Năm 2001, ở tuổi 27, chàng trai trẻ đã mang về cho Enron 750 triệu USD lợi nhuận và nhận được khoản tiền thưởng 8 triệu USD – là mức cao nhất trong số những người lĩnh thưởng của Enron trong năm này. Năm 2002, Enron bị phá sản, bằng chính khoản tiền thưởng 8 triệu đôla, anh lập quỹ đầu tư riêng mang tên Centaurus Energy.
      Hiện nay, người ta nhớ đến anh với việc mua danh mục đầu tư khí đốt của quỹ đầu tư Amaranth Advisors sau khi nhà đầu tư Brian Hunter khiến tổ chức này thua lỗ tới 6 triệu USD.
      John Arnold được coi là một trong những trùm kinh doanh năng lượng trên phạm vi toàn cầu.
      4. Jesse Livermore

      Ông được cho là một trong số những nhà đầu cơ vĩ đại nhất trên thế giới. Không một nhà đầu cơ nào được nhiều và cũng mất nhiều như ông.
      29 tuổi, giữa lúc giá cổ phiếu tăng cao, Jesses Livermore đồ rằng giá sẽ giảm, theo suy tính bản năng nhiều hơn là phân tích khoa học. Ngày 18/4/1906 xảy ra vụ động đất ở San Francisco - tai họa thiên nhiên lớn nhất ở nước Mỹ cho tới cơn bão Katrina năm 2005. Ba ngày sau, thị trường tài chính ở khu vực bờ biển phía Đông nước Mỹ đổ sụp, nhưng Livermore có thêm được 250.000 USD. Tương tự như vậy, phi vụ ngày 24/7/1907, khi thị trường chứng khoán New York bị khủng hoảng, chỉ trong một ngày Jesses Livermore kiếm được 1 triệu USD, giúp cho ông mới ở độ tuổi 30 đã có tài sản lên tới 3 triệu USD.
      Phi vụ lớn nhất của Jesses Livermore là đầu cơ vào “Ngày thứ Năm đen tối” năm 1929 ở Mỹ. Ngay từ trước đó nửa năm, ông đã đầu cơ cổ phiếu theo nguyên tắc giá giảm. Khi kinh tế Mỹ bước vào cuộc Đại suy thoái thì cũng là lúc ông có được hơn 100 triệu USD.
      Ông coi thị trường chứng khoán như một cỗ máy, hoạt động theo những khuôn mẫu nhất định. Nhiều người tin quan điểm đầu tư này của ông vẫn còn giữ nguyên giá trị trong bối cảnh thị trường hiện nay.
      3. John Paulson

      Ông được biết đến là một trong những người hiếm hoi nhận ra cuộc khủng hoảng nhà đất đang đến gần vào năm 2006, Paulson đã kiếm lời đủ trước khi rời khỏi thị trường. Đặt cược cho các tài sản mạo hiểm và các định chế tài chính, Paulson đã kiếm được khoảng 15 tỷ USD cho các nhà đầu tư.
      Phi vụ đầu cơ tỷ đôla này của ông bắt đầu vào năm 2006, khi ngân hàng Ameriquest phải trả cho 49 bang ở Mỹ 325 triệu USD để tránh bị lôi ra toà về tội gian dối trong cấp phát tín dụng. Paulson coi đó là sự khẳng định dự báo của mình. Với tất cả tài sản có được và số 150 triệu USD vốn huy động được thêm từ các nhà đầu tư, Paulson lập Paulson Credit Opportunities Fund để đầu cơ vào sự sụp đổ của thị trường bất động sản ở Mỹ. Cho tới giữa tháng 6/2006, Paulson vẫn còn bị mất tiền. Nhưng những gì xảy ra sau đó thì đúng hệt như suy tính của Paulson. Bear Stearns sụp đổ. Khủng hoảng tài chính bung ra và Paulson thu về 3,7 tỷ USD trong năm 2007, vượt xa kỷ lục do George Soros lập với 2,9 tỷ USD thu nhập trong năm hay James Simons trước đó với 2,8 tỷ USD.
      Ông đang điều hành một quỹ riêng nhưng kinh doanh không mấy ấn tượng, thế nhưng những phi vụ đầu cơ của ông cũng đủ khiến ông là ngôi sao sáng trong giới đầu cơ.
      2. Jim Chanos

      Ông nổi tiếng với việc thích xem xét các hồ sơ doanh nghiệp gửi lên Ủy ban chứng khoán Mỹ để tìm ra lỗ hổng của các công ty này. Ông thường thích đẩy cổ phiếu của một số công ty, trong đó bao gồm , Boston Market và MCI Worldcom sụt giá nghiêm trọng.
      Ông nổi tiếng nhất với việc đã bán khống cổ phiếu Enron sau khi ông phát hiện ra vấn đề về các hoạt động kế toán tại công ty này. Sau phi vụ đầu cơ thành công, ông đã trở thành một trong số những người giàu có nhất thế giới.
      1. Kyle Bass, chủ quỹ đầu tư Hayman Capital

      Năm 2007 và năm 2008, ông Kyle Bass từ một chuyên gia quản lý quỹ vô danh đã trở thành một nhà đầu tư nổi tiếng khi ông cho rằng thị trường nhà đất Mỹ sẽ sụp đổ. Mọi chuyện sau đó đúng như vậy. Việc bán khống chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp đã mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho quỹ Hayman Capital của ông.
      Tạ Linh (tổng hợp)
      vnexpress

      Trong lúc hưng thịnh, phẩm chất đáng quý nhất là sự điều độ.
      Lúc gian nan, phẩm chất đáng quý nhất là sự kiên trì


    2. Có 2 thành viên đã cám ơn kiemkhach :
      T90i (14-04-2015), VirusBNG (29-07-2011)

    3. #2
      Ngày tham gia
      Jan 2006
      Bài viết
      1,872
      Được cám ơn 1,087 lần trong 476 bài gởi

      Mặc định

      Trích dẫn Gửi bởi kiemkhach Xem bài viết
      Những nhà đầu cơ vĩ đại trong lịch sử
      Hoạt động từ năm 1972, Sở Giao dịch Chứng khoán New York chứng kiến nhiều đổ vỡ, thất bại, nhưng cũng có không ít nhà đầu tư kiếm lợi nhuận kếch xù nhờ tài năng và cả mánh khóe của mình.
      Tuy nhiên, dù có suy nghĩ thế nào về công việc của 10 người dưới đây, bạn cũng không thể phủ nhận họ là những nhà đầu cơ lớn nhất mọi thời đại.
      10. George Soros, chủ của tập đoàn Soros Quantum Fund

      George Sorsos nổi tiếng về nhiều thứ, nhưng người ta nhớ đến ông nhiều nhất là vào năm 1992, khi ông dự đoán đồng bảng Anh sẽ xuống giá. Ngay lập tức, ông bán khống 10 tỷ bảng Anh và thu khoản lời lớn từ vụ đầu cơ này. Từ đó đến nay, ông được biết đến như “người phá hủy ngân hàng Anh”.
      George Soros còn nổi tiếng với phi vụ đầu cơ thực hiện vào năm 1988. Ngày ấy, Soros vận hành liên hoàn giữa mua và bán cổ phiếu Societe Generale, một ngân hàng lớn của Pháp, và kiếm được 2,2 triệu USD. Mãi đến năm 2006, một tòa án ở Pháp mới kết tội Soros sử dụng thông tin của người trong cuộc ở vụ đầu cơ này và đòi Soros phải hoàn trả tất cả lợi nhuận. Soros kháng án lên tận Tòa án Nhân quyền của Châu Âu. Một phán xử như vậy vào năm 1988 đủ để hủy hoại toàn bộ sự nghiệp đầu cơ của Soros, nhưng lại chẳng làm được gì nhà đầu cơ này vào thời điểm năm 2006.
      George Soros nổi tiếng trong giới đầu cơ là người kiếm được nhiều tiền nhất và nhanh nhất.
      9. David Einhorn, Giám đốc Quỹ phòng vệ rủi ro Greenlight Capital, Mỹ

      David Einhorn nổi tiếng với nghiệp vụ bán khống, điển hình là 2 vụ bán khống ngân hàng Allied Capital và Lehman Brothers.
      Là người nổi tiếng trong giới đầu tư với những phản biện táo bạo. Einhorn còn đặc biệt được biết đến rộng rãi từ đầu năm 2008, khi ông chạm đến nỗi sợ của giới đầu tư bằng việc chỉ trích và vạch ra tình trạng nguy cấp của tập đoàn tài chính hàng đầu Lehman Brothers chỉ vài tháng trước khi tập đoàn này đệ đơn xin phá sản.
      Điều thú vị nữa là ông Einhorn từng bắt đầu công việc kinh doanh tại quỹ đầu cơ Greenlight Capital do ông sáng lập với số tiền khoảng 900.000 USD vay mượn từ gia đình.
      8. Paul Tudor Jones, người sáng lập và Chủ tịch của Tudor Investment Corp.

      Là một trong những tên tuổi nổi tiếng nhất trong ngành tài chính thế giới, Paul Tudor Jones được biết đến rộng rãi khi đưa ra dự báo về sự sụp đổ trên thị trường chứng khoán Mỹ năm 1987. Ông đang điều hành quỹ Tudor Investment Corp của riêng mình, tuy nhiên cũng tham gia rất nhiều vào các hoạt động từ thiện.
      Ông này được biết đến như một con kền kền, chuyên kiếm ăn từ xác chết của các doanh nghiệp hay thậm chí là các nền kinh tế.
      7. David Tepper, người sáng lập quỹ Appaloosa Management

      Là người sáng lập ra Appaloosa Management, David Tepper nổi tiếng với các hoạt động đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu đang mất giá. Sau khủng hoảng tài chính, cũng giống như John Paulson, Tepper mua cổ phiếu ngân hàng ở mức thấp và sau đó bán ra ở mức cao, và thu về hàng tỷ USD lợi nhuận cho riêng mình.
      Tuy nhiên, ông này cũng được biết đến là một nhà hảo tâm “tham lam”. Lý do là bởi sau khi quyên góp 55 triệu đôla cho ngôi trường Carnegie Melon, nơi ông đã từng theo học, David Tepper đã yêu cầu đổi tên ngôi trường này thành trường đại học mang tên ông, trường kinh doanh David A. Tepper.
      6. Marty Schwartz

      Marty Schwartz bắt đầu khởi nghiệp tại sàn giao dịch American Stock Exchange và sau đó chuyển sang thực hiện các giao dịch tương lai.
      Một trong những vụ đầu tư nổi tiếng nhất của ông được đưa vào 2 cuốn sách: Pitbull do ông tự viết và Market Wizards do Jack Schwager viết. Tại 2 cuốn sách này, ông cũng thẳng thắn đưa ra những kinh nghiệm đầu tư của chính mình.
      5. John Arnold, chủ quỹ đầu tư Centaurus Energy

      John Arnold làm nên tên tuổi của mình bởi khả năng kinh doanh tài năng tại tập đoàn năng lượng Enron. Năm 2001, ở tuổi 27, chàng trai trẻ đã mang về cho Enron 750 triệu USD lợi nhuận và nhận được khoản tiền thưởng 8 triệu USD – là mức cao nhất trong số những người lĩnh thưởng của Enron trong năm này. Năm 2002, Enron bị phá sản, bằng chính khoản tiền thưởng 8 triệu đôla, anh lập quỹ đầu tư riêng mang tên Centaurus Energy.
      Hiện nay, người ta nhớ đến anh với việc mua danh mục đầu tư khí đốt của quỹ đầu tư Amaranth Advisors sau khi nhà đầu tư Brian Hunter khiến tổ chức này thua lỗ tới 6 triệu USD.
      John Arnold được coi là một trong những trùm kinh doanh năng lượng trên phạm vi toàn cầu.
      4. Jesse Livermore

      Ông được cho là một trong số những nhà đầu cơ vĩ đại nhất trên thế giới. Không một nhà đầu cơ nào được nhiều và cũng mất nhiều như ông.
      29 tuổi, giữa lúc giá cổ phiếu tăng cao, Jesses Livermore đồ rằng giá sẽ giảm, theo suy tính bản năng nhiều hơn là phân tích khoa học. Ngày 18/4/1906 xảy ra vụ động đất ở San Francisco - tai họa thiên nhiên lớn nhất ở nước Mỹ cho tới cơn bão Katrina năm 2005. Ba ngày sau, thị trường tài chính ở khu vực bờ biển phía Đông nước Mỹ đổ sụp, nhưng Livermore có thêm được 250.000 USD. Tương tự như vậy, phi vụ ngày 24/7/1907, khi thị trường chứng khoán New York bị khủng hoảng, chỉ trong một ngày Jesses Livermore kiếm được 1 triệu USD, giúp cho ông mới ở độ tuổi 30 đã có tài sản lên tới 3 triệu USD.
      Phi vụ lớn nhất của Jesses Livermore là đầu cơ vào “Ngày thứ Năm đen tối” năm 1929 ở Mỹ. Ngay từ trước đó nửa năm, ông đã đầu cơ cổ phiếu theo nguyên tắc giá giảm. Khi kinh tế Mỹ bước vào cuộc Đại suy thoái thì cũng là lúc ông có được hơn 100 triệu USD.
      Ông coi thị trường chứng khoán như một cỗ máy, hoạt động theo những khuôn mẫu nhất định. Nhiều người tin quan điểm đầu tư này của ông vẫn còn giữ nguyên giá trị trong bối cảnh thị trường hiện nay.
      3. John Paulson

      Ông được biết đến là một trong những người hiếm hoi nhận ra cuộc khủng hoảng nhà đất đang đến gần vào năm 2006, Paulson đã kiếm lời đủ trước khi rời khỏi thị trường. Đặt cược cho các tài sản mạo hiểm và các định chế tài chính, Paulson đã kiếm được khoảng 15 tỷ USD cho các nhà đầu tư.
      Phi vụ đầu cơ tỷ đôla này của ông bắt đầu vào năm 2006, khi ngân hàng Ameriquest phải trả cho 49 bang ở Mỹ 325 triệu USD để tránh bị lôi ra toà về tội gian dối trong cấp phát tín dụng. Paulson coi đó là sự khẳng định dự báo của mình. Với tất cả tài sản có được và số 150 triệu USD vốn huy động được thêm từ các nhà đầu tư, Paulson lập Paulson Credit Opportunities Fund để đầu cơ vào sự sụp đổ của thị trường bất động sản ở Mỹ. Cho tới giữa tháng 6/2006, Paulson vẫn còn bị mất tiền. Nhưng những gì xảy ra sau đó thì đúng hệt như suy tính của Paulson. Bear Stearns sụp đổ. Khủng hoảng tài chính bung ra và Paulson thu về 3,7 tỷ USD trong năm 2007, vượt xa kỷ lục do George Soros lập với 2,9 tỷ USD thu nhập trong năm hay James Simons trước đó với 2,8 tỷ USD.
      Ông đang điều hành một quỹ riêng nhưng kinh doanh không mấy ấn tượng, thế nhưng những phi vụ đầu cơ của ông cũng đủ khiến ông là ngôi sao sáng trong giới đầu cơ.
      2. Jim Chanos

      Ông nổi tiếng với việc thích xem xét các hồ sơ doanh nghiệp gửi lên Ủy ban chứng khoán Mỹ để tìm ra lỗ hổng của các công ty này. Ông thường thích đẩy cổ phiếu của một số công ty, trong đó bao gồm , Boston Market và MCI Worldcom sụt giá nghiêm trọng.
      Ông nổi tiếng nhất với việc đã bán khống cổ phiếu Enron sau khi ông phát hiện ra vấn đề về các hoạt động kế toán tại công ty này. Sau phi vụ đầu cơ thành công, ông đã trở thành một trong số những người giàu có nhất thế giới.
      1. Kyle Bass, chủ quỹ đầu tư Hayman Capital

      Năm 2007 và năm 2008, ông Kyle Bass từ một chuyên gia quản lý quỹ vô danh đã trở thành một nhà đầu tư nổi tiếng khi ông cho rằng thị trường nhà đất Mỹ sẽ sụp đổ. Mọi chuyện sau đó đúng như vậy. Việc bán khống chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp đã mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho quỹ Hayman Capital của ông.
      Tạ Linh (tổng hợp)
      vnexpress

      Toàn mắt xanh, mũi đỏ. Chưa thấy ông Châu Á hay ông Việt Nam nào ngồi trên bảng này nhỉ.
      Trong lúc hưng thịnh, phẩm chất đáng quý nhất là sự điều độ.
      Lúc gian nan, phẩm chất đáng quý nhất là sự kiên trì


    4. #3
      Ngày tham gia
      Apr 2010
      Bài viết
      4
      Được cám ơn 1 lần trong 1 bài gởi

      Mặc định

      Trích dẫn Gửi bởi kiemkhach Xem bài viết
      Toàn mắt xanh, mũi đỏ. Chưa thấy ông Châu Á hay ông Việt Nam nào ngồi trên bảng này nhỉ.
      Mấy ông ở ẩn hết đó mà
      Chứ dân Trung Của India và Nga trade fx vô đối lắm
      PTKT của họ phải nói là em phục sát đất

    5. #4
      Ngày tham gia
      Jan 2006
      Bài viết
      1,872
      Được cám ơn 1,087 lần trong 476 bài gởi

      Mặc định

      Đặc điểm bản thân và kiểu trade

      Nhận biết đặc điểm bản thân của bạn

      Thành phần trader trong Forex rất đa dạng: nam, nữ, mập, ốm, đẹp, xấu, nhanh nhẹn, chậm chạp, chuyên nghiệp, nghiệp dư …và nhiều hơn nữa.

      Mỗi trader đều có đặc điểm bản thân riêng, kế hoạch làm việc, sở thích mạo hiểm, nổ lực và khả năng tài chính của riêng mình.
      Một số trader có thể có vài điểm chung nào đó, nhưng phần lớn đều khác nhau. Điều quan trọng là mỗi chúng ta là một cá thể độc nhất vô nhị. Và tùy thuộc vào cá tính, sở thích cá nhân, và hoàn cảnh của bạn, cách bạn trade sẽ là một yếu tố dẫn dắt bạn tới thành công.

      Để nhận ra bạn nên trade như thế nào, bạn phải tự khám phá đặc điểm bản thân của bạn trong giao dịch. Đặc điểm bản thân của bạn trong giao dịch sẽ quyết định kiểu trade và phương pháp trade phù hợp cho bạn.


      Việc trade không giống như một cái áo, nó không có một kích cỡ phù hợp với nhiều người cũng như không có một kế hoạch phù hợp cho mọi trader.

      Bạn hãy tự thực hiện việc đánh giá cá tính, cách hành xử, sự tự tin và cảm xúc của bạn. Bạn có tính kỷ luật không? Bạn là người không thích mạo hiểm hay là người thích mạo hiểm cao? Bạn là người do dự hay phóng khoáng? Bạn là người kiên nhẫn hay bốc đồng? Bạn thích chơi nhảy bungee hay đi tham quan viện bảo tàng?…
      Một cách tuyệt vời để giúp bạn tự đánh giá bản thân là lập nhật ký giao dịch. Nó sẽ giúp bạn phân tích quá trình suy nghĩ của bạn sau khi giao dịch và xác định ưu điểm và khuyết điểm của bạn trong giao dịch. Hiểu được đặc điểm bản thân của mình là một chuyện, nhưng hiểu được đặc điểm bản thân của bạn trong giao dịch lại là một chuyện hoàn toàn khác. Nhật ký giao dịch cho phép bạn xem lại các giao dịch thắng và thua của bạn để từ đó rút ra được nguyên nhân tại sao bạn thắng hoặc thua.

      Bây giờ, trước khi chúng ta đi sâu vào phân tích các kiểu giao dịch, hãy xem qua sơ lược một số trader, xem kiểu giao dịch của họ và ảnh hưởng cuộc sống của họ.

      Các kiểu giao dịch

      Pete : “Position Trader”
      Peter là một người đàn ông bận rộn với vợ, 8 con, 4 con , 3 con mèo, 02 con chuột và một con rồng komodo. Thực khó để nuôi sống một gia đình lớn như vậy, nhưng cũng may mắn vì Pete là một bác sỹ thành đạt.
      Pete không thích ngồi trước máy tính cả ngày. Ông ấy thích đọc về kinh tế thế giới và có một danh sách các quốc gia mà ông ấy theo dõi các thông tin kinh tế. Pete thích “position trade”. Ông ấy chỉ trade vài giao dịch trong một năm. Thường là vào cuối năm ông ấy có thể đếm các giao dịch của mình trên một bàn tay.

      Để thực hiện giao dịch, ông ấy sử dụng phân tích cơ bản. Nghĩa là ông ấy bỏ ra một hoặc 2 giờ mỗi tuần để xem các báo cáo kinh tế (như GDP, việc làm, CPI…). Sau đó ông ấy đưa ra quyết định cách giao dịch, nhưng không thực hiện tự động với các tín hiệu. Các giao dịch của Pete là long-term vì vậy lợi nhuận là rất lớn – nhưng cũng vì vậy mà stop loss cũng lớn. Mức stop loss của ông ấy thường trong khoảng từ 100-500pips trong khi đó lợi nhuận trong khoảng từ 500 – 1,000pips hoặc hơn nữa. Giao dịch của ông ấy có tỷ lệ reward/risk lớn, điều này cho phép ông ta giảm tối thiểu khi thua, nhưng trúng số khi ông ấy quyết định đúng.
      Pete thực sự thích làm một “position trader” bởi vì nó cho phép ông ấy có một cuộc sống với công việc hiện tại và trách nhiệm với gia đình, Pete hầu như không có thời gian để làm “day trader”. Kiểu giao dịch của ông ấy không cần thiết phải đưa ra quyết định nhanh chóng và cho phép ông ấy chờ đợi một xu hướng dài hạn. Như một position trader, ông ấy vẫn có thể chu đáo với công việc và gia đình.

      Sam : Swing Trader
      Sam là một chàng trai độc thân có một quán cà phê nhỏ tại một góc phố, đó là nơi anh ta làm việc. Anh ta cũng là một trader và có thể theo dõi thị trường 1 hoặc 2 giờ mỗi ngày.
      Sam thích thực hiện giao dịch trong khung thời gian ngắn hơn Pete – một position trader. Anh ta cố gắng tiên đoán giao động ngắn hạn của một cặp tiền và sẵn sàng giữ giao dịch trong vài ngày tùy thuộc vào biến động của giá. Một vài giao dịch của Sam có thể từ vài ngày đến cả tuần.
      Sam dành ra một giờ mỗi ngày hoặc buổi tối để theo dõi thị trường. Nửa giờ đầu dùng cho việc đọc các thông tin kinh tế trong ngày và xem 24 giờ tới sẽ có các tin tức gì. Dựa trên thông tin tổng thể, anh ta quyết định cặp tiền sẽ xem xét biến động. Bởi vì anh ta chỉ theo dõi hai hoặc ba cặp tiền cho nên anh ta không mất nhiều thời gin để đọc các tin tức trong ngày.
      Sau khi Sam đọc xong các báo cáo và tin tức kinh tế, anh ấy xác định thị trường sẽ biến động hay đứng yên trong vài ngày tới hoặc thậm chí vài tuần tới. Anh ấy mở đồ thị lên và sử dụng phân tích kỹ thuật để tìm các điểm mở và đóng giao dịch tốt nhất. Các công cụ Sam sử dụng để tìm các mức kháng cự và hỗ trợ bao gồm : các mức thoái lui Fibonacci, các kênh (chanels), các đường xu hướng, đường trung bình … Sau đó Sam đặt các order kèm với stop loss và profit target, vì vậy việc mở và đóng giao dịch sẽ hoàn toàn tự động.
      Sam đã khá thành công. Anh ấy có mức thua lỗ từ 50 – 100 pips, trong khi mức thu lời trong khoảng từ 100 – 500 pips.
      Sam thường kiểm tra các giao dịch của mình một hoặc hai lần mỗi ngày chỉ để đảm bảo không có sự kiện bất thường nào ảnh hưởng đến các giao dịch của anh ấy, thời gian còn lại trong ngày Sam dùng cho những công việc khác như quản lý quán cà phê, hoặc lướt internet để đọc các sách về kinh tế ...

      Diona: “Day Trader”
      Diona là một người rất nóng vội và cô ấy luôn luôn cảm thấy “cần phải làm việc gì đó”. Kiểu giao dịch của Diona là những giao dịch mở và đóng trong ngày. Vài ngày, cô ấy có thể chỉ giao dịch một lần. Nhưng đa số các ngày khác, cô ấy thường giao dịch vài lần trước khi thị trường đóng cửa. Diona đóng tất cả các giao dịch khi thị trường đóng cửa (5 pm. EST) hoặc khi một phiên giao dịch nào đó đóng cửa chẳng hạn như phiên giao dịch của Châu Âu hoặc Châu Á. Như một “day trader”, Diona cảm thấy cần phải có mặt suốt thời gian thị trường mở cửa bởi vì cô ấy sợ bỏ mất một cơ hội giao dịch tốt. Cô ấy không muốn mạo hiểm và sợ mất nhiều tiền trong mỗi giao dịch vì thế cô ấy sử dụng mức stop loss ít.

      Diona đã mất vài năm để phát triển một chiến thuật riêng để kiếm tiền từ thị trường Forex. Tài khoản của Diona đủ lớn để cô ấy có thể nghỉ việc và theo dõi thị trường cả ngày như hiện nay. Mặc dù Diona nắm rõ mọi tin tức trong ngày, nhưng cô ấy chủ yếu dựa vào phân tích kỹ thuật khi giao dịch. Cô ấy thường sử dụng các công cụ kỹ thuật dạng “oscillator” như MACD, RSI, Stochastic và đường trung bình, các công cụ này cho tín hiệu mở và đóng giao dịch và Diona chỉ trade theo tín hiệu.

      Hầu như mỗi ngày Diona kiếm được từ 10 – 50 pips hoặc hơn nữa trong khi mức thua lỗ tối đa chỉ khoảng từ 10 – 20 pips, nhưng thỉnh thoảng cô ấy cũng “scalp” theo thị trường. “Scalping” là một phương pháp giao dịch với lượng lớn và chỉ thu lợi vài pips (thường 5 – 10 pips). Phần lớn các giao dịch scalp của Diona chỉ kéo dài vài phút hoặc thậm chí vài giây!

      Phương pháp “day trading” và “scalping” cho phép Diona thực hiện từ một đến vài giao dịch một ngày và đáp ứng nhu cầu “cần phải làm việc gì đó”. Sự tin tưởng vào hệ thống của mình (system) cho phép Diona kiên định với kế hoạch và các nguyên tắc giao dịch của mình.Cô ấy không phải quyết định nên hay không nên mở giao dịch vì đồ thị đã làm việc này cho cô ấy! Tuy nhiên, Diona biết rằng hệ thống giao dịch của mình không hoàn hảo. Diona thua hơn một nửa số giao dịch nhưng mức thu lợi trung bình gần gấp đôi mức thua lỗ. Vì thế xét về lâu dài Diona vẫn thu lợi từ thị trường Forex. Bây giờ cô ấy có thể làm việc tại nhà, tự mình làm chỉ và có thể đi du lịch bất kỳ lúc nào.

      Bạn thuộc kiểu trader nào?

      Vậy thì bạn thuộc kiểu trader nào?


      Câu hỏi đầu tiên là “Bạn phải bỏ bao nhiêu thời gian để giao dịch và một giao dịch của bạn có thể kéo dài bao lâu?
      Chúng ta có thể xác định các kiểu giao dịch khác nhau bằng khung thời gian. Hãy xem qua các kiểu giao dịch dưới đây và xem cái nào phù hợp với bạn :
      • Scalping – Scalper là một trader ngắn hạn, thường mở và đóng giao dịch chỉ trong vài giây. Phần lớn các forex broker ngăn cản kiểu giao dịch này. Kiểu giao dịch này cũng rất mạo hiểm do sử dụng lượng giao dịch lớn để kiểm lợi nhuận từ vài pips. Không dành cho những người yếu tim hoặc ít tiền.
      • Day traders – là những trader mở và đóng giao dịch trong cùng một phiên giao dịch (trading session).
      • Swing traders – là những trader có thể giữ giao dịch trong vài ngày.
      • Position trading – là những trader dài hạn, họ có thể giữ một giao dịch từ vài tuần đến vài tháng.
      Câu hỏi kế tiếp “Bạn phân tích thị trường và quyết định giao dịch dựa vào cái gì?
      • Technical (phân tích kỹ thuật) – sử dụng đồ thị và các công cụ kỹ thuật để phân tích biến động giá trước đó của cặp tiền để tiên đoán biến động giá trong tương lai
      • Fundamental (phân tích cơ bản)– theo dõi và phân tích các báo cáo kinh tế và các chỉ số kinh tế như GDP, CPI, việc làm hoặc các thông tin chính trị có thể ảnh hưởng đến kinh tế và đồng tiền của một quốc gia.
      Và câu hỏi cuối cùng “Bạn là một “system trader”, hay “discretionary trader”?”
      • System Trader – một system trader thực hiện mở và đóng giao dịch khi có tín hiệu từ hệ thống giao dịch của mình bao gồm các công cụ kỹ thuật. VD: nếu công cụ Stochastic cho thấy cặp tiền đang oversold thì system trader sẽ tự động mở giao dịch “buy”.
      • Discretionary trader – kiểu giao dịch này thường là các trader sử dụng cả phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản. Phân tích kỹ thuật có thể cho một tín hiệu mở giao dịch tốt, nhưng phân tích cơ bản lại cho thấy một tương lai khác cho cặp tiền đó.

      Tóm tắt


      Thành công trong giao dịch forex là một việc khó khăn, mất thời gian và đôi khi cả máu, mồ hôi và nước mắt. Những người mới học làm trader cần phải xác định đúng đắn ngay từ khi bắt đầu. Người mới bắt đầu nên khởi đầu với số tiền nhỏ và luôn đánh giá các giao dịch thắng lợi cũng như thua lỗ của mình.

      Như tôi đã nói từ đầu, việc giao dịch không giống như mua một cái áo. Không có một kích cỡ vừa cho mọi người. Trước khi bạn có thể thành công trong giao dịch, bạn phải mất nhiều thời gian thực tập, học được các ưu điểm cũng như khuyết điểm của bạn, và lập kế hoạch làm việc cho mình cũng như tích lũy vốn, kinh nghiệm.

      Hãy dành thời gian trả lời các câu hỏi và xem lại nhật ký giao dịch của bạn để xem bạn phù hợp với những tình huống nào. Sau đó bạn có thể quyết định kiểu giao dịch phù hợp cho bạn.

      Biên dịch: Pinkrose
      Forvntraders.com
      Trong lúc hưng thịnh, phẩm chất đáng quý nhất là sự điều độ.
      Lúc gian nan, phẩm chất đáng quý nhất là sự kiên trì


    6. Có 2 thành viên đã cám ơn kiemkhach :
      Dream7 (22-06-2012), minhduy1512 (27-08-2012)

    Thông tin của chủ đề

    Users Browsing this Thread

    Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)

       

    Similar Threads

    1. Trả lời: 2
      Bài viết cuối: 12-11-2010, 03:53 PM

    Bookmarks

    Quyền viết bài

    • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
    • Bạn Không thể Gửi trả lời
    • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
    • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình