Em thử trả lời xem:
"Nếu một công ty hoạt động với khả năng doanh lợi ổn định và là một công ty đơn giản dễ hiểu(thuộc phạm vi năng lực), thì WB tin rằng ông có thể xác định lợi nhuận trong tương lai của công ty với mức độ chắc chắn cao. Nếu không đủ tự tin dự đoán luồng tiền trong tương lai của dn đó, ông sẽ không cố gắng định giá nó, đơn giản là ông sẽ bỏ qua."--trích "phong cách đầu tư của WB" trang 234.
Thêm nữa:
Trong phương pháp định giá mô hình chiết khấu 2 giai đoạn. WB đã tính doanh lợi cổ đông(Ower earnings) = lãi ròng sau thuế + khấu hao - chi tiêu tư bản(Capital Expenditures) - khoản vốn luân chuyển. Ông ấy còn tiến xa hơn một bước là tránh những doanh nghiệp có chi tiêu tư bản(xác định được trong cash flow) lớn cho dù những dn ấy vẫn thuộc phạm vi năng lực(là các công ty buộc phải có các khoản TSCĐ lớn mới hoạt động được sẽ dễ bị tổn thương do lạm phát). Các công ty ít cần đến TSCĐ tuy cũng bị tổn thất bởi lạm phát nhưng cũng ít gánh chịu thiệt hại hơn đôi chút. Và các công ty bị tổn thất ít nhất chính là các công ty sở đắc lợi thế kinh tế lớn lao.
Vậy ==> những dn WB tiếp cận thường là những doanh nghiệp thuộc "phạm vi năng lực" và sở đắc "lợi thế kinh tế lớn lao".
câu trả lời này còn nhiều thiếu sót mong bác góp ý!
ps: em tính theo cách của WB(tính hồi đầu năm 2008) về giá trị thực của
VNM được là 31 nghìn tỷ VNĐ, của
LAF là 1 nghìn 300 tỷ...vv hehe.. chắc chỉ đúng tương đối thôi!
Bookmarks