Growth




2006
2007
2008
Net Sales
30.6%
36.5%
6.4%
<!--[if !supportMisalignedColumns]-->




<!--[endif]-->
Nguồn báo cáo tài chính và VCSC tính toán








Phân tích giá vốn hàng bán
  • Các nguyên liệu chính phục vụ quá trình sản xuất của công ty là thuỷ tinh, cát thạch anh SiO2, gas, dầu FO, nhựa, thép, hoá chất, dây tóc bóng đèn Volfram. Khoảng 30 - 35% nguyên liệu này nhập khẩu ở nước ngoài (Volfram, bột huỳnh quang…) cho nên sự biến động về tỷ giá có thể làm cho giá thành sản phầm bị đội lên. Để kiểm soát tốt các chi phí nguyên vật liệu (chiếm khoảng 60 - 65% giá thành sản phẩm) công ty đã đầu tư và đưa vào hoạt động các thiết bị mới tại nhà máy Bắc Ninh như lò thuỷ tinh không chì, dây chuyền kéo vỏ bóng và dây chuyền phích nước (các thiết bị này giúp năng cao hiệu suất hoạt động giảm tỷ lệ phế phẩm). Với việc sử dụng công nghệ mới của Nhật tại lò bóng thuỷ tinh tại Bắc Ninh, chi phí gas đã giảm đáng kể, từ mức 355 đ/vỏ bóng hiện còn 180 đ/ vỏ bóng.
  • Các chi phí khấu hao sẽ tăng không có nhiều biến động trong năm nay do công ty không đầu tư thiết bị máy móc mới nào.
  • Do các quyết định tăng lương tối thiểu của Bộ Tài Chính giúp thu nhập bình quân của người lao động/ tháng nâng lên mức 3,166 triệu đồng làm cho chi phí nhân công của công ty tăng thêm 6% trong năm nay.
  • Từ ngày 1/4/2009 giá điện tăng bình quân 8,92%, và điện cho hoạt động sản xuất của công ty sẽ tăng lên 8%.
Tổng hợp các yếu tố trên cùng với việc trong thời gian đầu năm công ty có một lượng hàng tồn kho lớn nhập về ở các mức giá cao chúng tôi ước rằng giá vốn hàng bán của công ty sẽ tăng lên khoảng 6 – 7% trong năm nay. Mặc dù vậy mức tăng này vẫn thấp hơn so với mức tăng trưởng doanh thu của công ty.


Phân tích các khoản phải thu và hàng tồn kho









Có thể nói vấn đề lớn nhất của công ty nằm ở khoản phải thu và hàng tồn kho trong năm 2007 và 2008 nhưng hiện tại chúng tôi thấy có những tín hiệu tích cực trong hai khoản mục này và nó sẽ cải thiện đáng kể lượng vốn lưu động của công ty trong thời gian tới qua đó giảm bớt sức ép vay nợ ngắn hạn đối với công ty.
  • Hàng tồn kho: Lượng hàng tồn kho bắt đầu gia tăng mạnh mẽ vào Q3 – 2008 và Q4 – 2008. Có nghĩa là công ty đã tồn đọng một lượng hàng rất lớn khi giá thành sản xuất ở mức cao. Hơn nữa, do nhận thấy những dấu hiệu khó khăn về trả nợ của CuBa, công ty đã chủ động ngừng ngay việc sản xuất giao hàng mặc dù sản phẩm đã sản xuất hoàn chỉnh và cả vật tư đặt hàng sản xuất cho các lô tiếp theo (khoảng 1,2 triệu bóng đèn thành phẩm 115V – 18W) và lượng hàng này nằm trong hàng tồn kho cho tới tận Q1-09 do không thể tiêu thụ tại thị trường nội địa. Vì thế, hàng tồn kho tăng lên 218,2 tỷ trong năm 2008 làm cho công ty không thể giảm được nợ vay ngắn hạn xuống mức thấp hơn. Nhưng chúng tôi đã thấy những tín hiêu tích cực trong khi biết được rằng công ty đã tiêu thụ gần hết 1,2 triệu bóng đèn tồn kho ở thị trường nội địa trong Q2-09 sau khi chuyển đổi từ 115 sang 220V với chi phí tăng lên không đáng kể. Điều này hàm ý rằng hàng tồn kho của công ty sẽ giảm trong các quý tiếp theo.
  • Khoản phải thu: Năm 2007 phải thu khách hàng là một vấn đề lớn của RAL[IMG]http://************/ESImages/info.gif[/IMG] khi tổng trị giá hàng hoá giao cho CuBa lên tới 156,4 tỷ. Nhưng sang năm 2008 công ty đã thu hồi được 84 tỷ từ khách hàng CuBa qua đó giảm khoản phải thu xuống 24,9%. Trong 129 tỷ khoản phải thu tính tới Q2-09 hiện còn 73 tỷ từ phía khách hàng CuBa. Qua trao đổi với công ty chúng tôi biết rằng khả năng cuối năm nay và sang đầu năm sau phía CuBa sẽ thanh toán nốt số tiền này gồm gốc và lãi với lãi suất 6%/ năm.
Phân tích lợi nhuận



Margin





CN-2005
CN-2006
CN-2007
CN-2008
Gross Margin
22.2%
20.7%
19.6%
27.3%
Net Margin
9.1%
8.0%
6.8%
5.8%

Nguồn báo cáo tài chính và VCSC tính toán


Margin




Q1-2009


Q2-2009

Gross Margin

22.1%


22.4%

Net Margin

3.1%


3.1%

Nguồn báo cáo tài chính và VCSC tính toán


Có thể thấy tỷ suất lợi nhuận gộp ở mức cao nhưng tỷ lệ lợi nhuận ròng lại rất thấp. Kết quả là lợi nhuận ròng thấp hơn trong năm 2008. Rõ ràng việc tăng doanh số bán hàng và giảm giá vốn hàng bán đã không chuyển hoá được vào lợi nhuận. Nguyên nhân là do các chi phí trung gian như chi phí tài chính, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng tăng lên. Đặc biệt là các khoản chi phí lãi vay tăng 16.3 tỷ (lãi suất cho vay năm 2008 tăng mạnh), chênh lệch do biến động tỷ giá tăng 13,5 tỷ do công ty đã vay 9,94 triệu đô của các ngân hàng lớn như HSBC, BIDV, VietCombank để tài trợ cho hoạt động nhập khẩu nguyên liệu và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng tăng lên gấp đôi so với năm 2007do các chi phí liên quan tới việc xây dựng nhà máy mới tại Bắc Ninh . Nhưng điều đáng mừng là tỷ lệ các chi phí này/ doanh thu thuần đã giảm đi một cách tương đối trong hai quý đầu năm nay do các khoản vay của công ty đều được hỗ trợ lãi suất từ tháng 2/2009, và hơn nữa công tác mua sắm thiết bị phục vụ đầu tư lò thuỷ tinh không chì, dây chuyền 3U hầu nhà đã hoàn thành nên chi phí tỷ giá cũng sẽ giảm đi.

Dòng tiền và chất lượng lợi nhuận

Lúc đầu chúng tôi tỏ ra khá lo lắng khi dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã liên tục âm trong 3 năm gần đây trong khi lợi nhuận ròng vẫn là một con số dương.

Đơn vị VNĐ

[IMG]file:///C:/DOCUME~1/DOMINH~1/LOCALS~1/Temp/moz-screenshot.png[/IMG]


v\:* ** BEHAVIOR: url(#default#VML)}o\:* ** BEHAVIOR: url(#default#VML)}w\:* ** BEHAVIOR: url(#default#VML)}.shape ** BEHAVIOR: url(#default#VML)}
[IMG]http://************/Sites/QuoteVN/SiteRoot/images/PTKT/RAL1.jpg[/IMG]
Nhưng khi nghiên cứu kỹ chỉ số chất lượng lợi nhuận chúng tôi thấy rằng nó đang được cải thiện qua các năm chúng tôi thấy rằng tỷ lệ này đang giảm dần qua các năm từ 58,8% năm 2006 xuống còn 33,4% năm 2008.


Earnings Quality CN-2005CN-2006CN-2007CN-2008OA270.7957406.0648632.4757845.4478OL00068.6580 2NOA270.7957406.0648632.4757776.7898Ave. NOAn/a338.4303519.2703704.6327BS Based
Accrual Ration/a0.3996960.4360170.204808NI - CFO - CFI-24.4948199.2472236.4462234.27CF Based
Accrual Ratio n/a0.5887390.4553430.332471
Nguồn báo cáo tài chính và VCSC tính toán



Đi sâu hơn nữa trong 2 quý gần đây nhất chúng ta có thể thấy dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh đã là một con số dương và cao hơn so với lợi nhuận kế toán của công ty. Hơn nữa lưu chuyển tiền tệ thuần trong Q2 – 09 dương 1,8 tỷ.

Cả hai phân tích trên hàm ý rằng chất lượng lợi nhuận của công ty đã bắt đầu di chuyển theo chiều hướng đi lên kể từ lúc chạm đáy.