Cây cà phê
Loại cây này đầu tiên chỉ được trồng ở
châu Phi và
Ả Rập, nhưng sau đó người ta đã nghĩ tới việc gieo trồng nó ở các vùng đất thích hợp khác.
Những
người Hà Lan đã cho trồng cây cà phê trên các vùng đất thuộc địa của họ. Thống đốc vùng
bắc Ấn, van Hoorn, đã cho trồng cà phê trên đảo
Tích Lan (
Sri Lanka ngày nay) vào năm
1690 (có tài liệu ghi là năm 1658), sau đó đến đảo
Java (
Indonesia) năm
1696 (hoặc 1699). Năm
1710 người ta đã đem cây cà phê về châu Âu và trồng thử trong các khu vườn sinh vật.
Amsterdam là nơi đầu tiên cây cà phê nảy mầm trên đất châu Âu.
Năm
1718 người Hà Lan mang cây cà phê tới
Surinam, năm
1725 người Pháp mang tới
Cayenne,
1720/
1723 tới
Martinique v.v. Cuối
thế kỉ 18 cây cà phê đã được trồng ở khắp các xứ sở nhiệt đới, chủ yếu do sự bành trướng thuộc địa của các đế quốc Âu châu.
[sửa] Sản xuất
Hai mươi quốc gia sản xuất cà phê lớn nhất thế giới năm 2007 Thứ hạng Quốc gia
Tấns[1] Bao (nghìn)
[2] 1
Brasil 2,249,010 36,070 2
Việt Nam 961,200 16,467 3
Colombia 697,377 12,504 4
Indonesia 676,475 7,751 5
Ethiopia[note 1] 325,800 4,906 6
Ấn Độ 288,000 4,148 7
Mexico 268,565 4,150 8
Guatemala[note 1] 252,000 4,100 9
Peru 225,992 2,953 10
Honduras 217,951 3,842 11
Côte d'Ivoire 170,849 2,150 12
Uganda 168,000 3,250 13
Costa Rica 124,055 1,791 14
Philippines 97,877 431 15
El Salvador 95,456 1,626 16
Nicaragua 90,909 1,700 17
Papua New Guinea[note 1] 75,400 968 18
Venezuela 70,311 897 19
Madagascar[note 2] 62,000 604 20
Thái Lan 55,660 653
Thế giới
[note 3] 7,742,675 117,319
Năm 2009,
Brasil là nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, tiếp đó là
Việt Nam,
Indonesia và
Colombia. Hạt cà phê Arabica được trồng ở
châu Mỹ La tinh,
Đông Phi,
bán đảo Ả Rập hay châu Á. Hạt cà phê Robusta được trồng nhiều ở Tây và
Trung Phi, phần lớn
Đông Nam Á và ở một mức độ nào đó là Brasil.
Hạt cà phê từ các quốc gia và khu vực khác nhau có thể phân biệt được bằng sự khác biệt trong hương vị, mùi thơm, tính axit. Sự khác biệt về vị không chỉ phụ thuộc vào khu vực trồng cà phê mà còn phụ thuộc vào các giống cà phê và cách chế biến. Có vài loại cà phê nổi tiếng với khu vực gieo trồng như
cà phê Colombia,
cà phê Java và
cà phê Kona.
[sửa] Phân loại

Hạt cà phê
Cà phê chia ra nhiều loại tùy theo cách rang. Rang cà phê là để cho bớt độ ẩm trong hạt, dầu thơm tỏa ra. Chừng một thế kỷ trước, cà phê phải rang tại nhà bằng lò than. Hiện nay người ta rang bằng
gas hay bằng điện nhưng có nơi vẫn rang bằng than, cho rằng rang bằng than ngon hơn.
Trong kỹ nghệ, cà phê được rang với số lượng lớn dùng nhiệt độ cao trong một thời gian nhanh (khoảng 204 đến 2600 C trong vòng 5 phút) rồi làm nguội bằng quạt hơi hay rảy nước cho khỏi cháy khét. Gần đây nhất, cà phê được kiểm soát bằng máy tính qua mọi tiến trình. Cà phê nay được bán trong các tiệm bách hóa thường rang và xay ngay tại chỗ cho thêm phần quyến rũ và bảo đảm với khách hàng là sản phẩm còn tươi nguyên mới ra lò.
Người ta có thể rang sơ sài còn được gọi dưới cái tên Cinnamon roast (thời gian khoảng 7 phút), rang vừa (medium roast) còn gọi là full city hay brown (thời gian từ 9 đến 11 phút) hay rang kỹ (full roast) tức là rang kiểu Pháp thời gian từ 12 đến 13 phút. Những cách rang kỹ nhất đến cháy xém khiến cho hạt cà phê bóng nhẫy là kiểu rang của người Ý Ðại Lợi (espresso) thì phải từ 14 phút trở lên cho đến khi bắt đầu cháy thành than.
Cà phê cũng phân biệt theo cách xay, xay mịn hay to hạt tùy theo cách pha. Trong khoảng một trăm năm trở lại đây, người ta đã chế biến ra loại cà phê bột, chỉ cần bỏ vào nước sôi là uống được. Cà phê bột được điều chế theo
hai cách: làm khô bằng cách đông lạnh (freeze drying) hay làm khô bằng cách phun (spray drying). Cả
hai đều phải được lọc trước để rút hết tinh chất rồi phun ra thành những hạt li ti để làm khô. Nhiều kỹ thuật mới đã được thí nghiệm để cà phê bột không bị biến dạng và mất mùi. Tuy nhiên những người khó tính vẫn cho rằng cà phê bột không thể nào bằng cà phê pha được.
[sửa] Thưởng thức
Ban đầu cà phê rất đắt, vì thế chỉ có tầng lớp quý tộc hoặc những người giàu có mới được thưởng thức thứ đồ uống thơm ngon này.
Honoré de Balzac thường uống loại cà phê rất đặc để có thể thức làm việc. Ông thường làm việc tới 12 tiếng một ngày.
Ludwig van Beethoven có thói quen lựa chọn đủ 60 hạt cà phê để pha một tách Mokka.
Johann Wolfgang von Goethe thì có ý tưởng chưng cất cà phê. Về sau nhà hoá học
Friedlieb Ferdinand Runge đã chuyển hoá ý tưởng này thành hiện thực, nhờ vậy mà ông tìm ra
caffein.
Vào những thời kỳ khủng hoảng, người nghèo không có đủ tiền mua cà phê, họ phải uống các loại đồ uống giả cà phê để thay thế.
Ngày nay, ở một số nước người ta coi việc uống cà phê như một thức uống phổ thông (cà phê thường có hàm lượng Cafein thấp) và ăn kèm bánh trái hoặc hoa quả.
Ở Việt Nam cà phê là một thức uống được ưa chuộng, đặc biệt vào buổi sáng (nhưng hàm lượng cafein rất cao chỉ thích hợp với những người quen dùng hoặc nghiện cà phê). Các quán giải khát (trừ các "bar") thường gọi là "quán cà phê", mặc dù cũng phục vụ những thức uống khác.
Bookmarks