Chủ đề: Kinh tế sẽ đi về đâu?
-
19-05-2009 11:06 PM #21
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
Bài viết của TS. Vũ Minh Khương thật tuệt vời. Đề cập đến những vấn đề hệ trọng của thế chế Việt Nam
-
20-05-2009 02:22 PM #22
- Ngày tham gia
- Feb 2009
- Bài viết
- 45
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
[quote user="blackhole"]
Bài viết của TS. Vũ Minh Khương thật tuệt vời. Đề cập đến những vấn đề hệ trọng của thế chế Việt Nam
[/quote]
Con đường phía trước của VN còn dài. Anh sáng cuối đường hầm còn chưa xuất hiện
-
21-05-2009 03:54 PM #23
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=116143&ChannelID=38Công nghiệp hóa: Chất lượng hơn số lượng
Nước ta đã trải qua một chặng đường khá dài công
nghiệp hóa. Vậy, ta đang đứng ở đâu so với thế giới?. Vì sao nhiều
ngành công nghiệp vẫn trong tình trạng lắp ráp, thô sơ?. Mô hình phát
triển nào thích hợp?. Những vấn đề này sẽ được GS.TS. Phạm Duy Hiển mổ
xẻ trong cuộc trò chuyện với TBKTSG.
Chạy theo tăng trưởng
Thưa Giáo sư, mục tiêu của chúng ta là đến năm
2020, tức chỉ còn hơn 10 năm nữa, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nên hiểu khái niệm và mục tiêu này như
thế nào?
Khái niệm công nghiệp hóa theo hướng hiện đại có lẽ
nên được xem xét trong bức tranh toàn cầu để thấy khoảng cách rất lớn
giữa những nước được xem là công nghiệp tiên tiến với những nước khác,
và ta đang đứng ở đâu.
Nếu so các nước tiên tiến với các nước kém phát triển
thì sự khác biệt dễ thấy nhất là mức sống, hay bình quân GDP, có thể
khác nhau đến hàng trăm lần. Nhưng đây chỉ là biểu hiện bề ngoài. Điều
làm nên sự khác biệt cơ bản là nền kinh tế ở các nước công nghiệp hiện
đại có năng suất và chất lượng rất cao nhờ dựa trên khoa học - công
nghệ hiện đại, môi trường trong sạch và ít chênh lệch giàu nghèo.
Vậy, theo Giáo sư, công nghiệp hóa của Việt Nam hiện đang đứng ở đâu và liệu rằng chúng ta có đạt được mục tiêu?
-
Theo tôi quan sát, ở ta có xu hướng xem GDP là một tiêu chí thống soái
có tính pháp chế, từ đó có người cho rằng có thể đẩy nhanh tăng trưởng
GDP lên 9-10%, thậm chí cao hơn, để nhanh chóng đạt được trình độ công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Như đã phát biểu nhiều lần, chẳng những
không đồng tình, tôi còn lo ngại về hậu quả phát triển theo kiểu này.
Hiện nay, nền kinh tế của ta được xếp vào loại tăng
trưởng cao trên thế giới. Nhưng vì có xuất phát điểm quá thấp, chúng ta
có thể tăng trưởng nhanh trong giai đoạn đầu chủ yếu dựa trên thâm dụng
lao động giản đơn, vốn, năng lượng và tài nguyên. Năm 2008, đầu tư 7 đô
la Mỹ chúng ta chỉ tạo ra được 1 đô la GDP, nghĩa là hiệu quả đầu tư
rất thấp so với các nước khác.
Về điện năng, sử dụng 1 kWh điện chúng ta chỉ tạo ra
chưa đầy 1 đô la GDP, thấp hơn hai lần so với Philippines và Indonesia
và thấp hơn bốn lần so với các nước tiên tiến như Bắc Âu, Nhật Bản.
Chính sự thâm dụng nói trên còn dẫn đến tàn phá môi trường, tệ nạn xã
hội và phân hóa giàu nghèo ngày càng rộng.
Chúng ta quá quan tâm đến tăng trưởng mà không để ý
rằng tăng trưởng đạt được là do phí phạm đến mức vô lý các nguồn lực
của mình. Nếu không sớm thoát ra khỏi tình trạng này thì nguồn lực sẽ
cạn kiệt, ta càng lún sâu vào lạc hậu, nói chi đến công nghiệp theo
hướng hiện đại. Có thể trong một giai đoạn nhất định ta “buộc” phải
chạy theo số lượng để giải quyết công ăn việc làm, thu ngân sách...
nhưng đã đến lúc phải xoay chuyển, xem chất lượng tăng trưởng là tiêu
chí hàng đầu.
Phải làm chủ công nghệ
Công nghiệp hóa tức là gia tăng tỷ lệ công nghiệp
và dịch vụ trong GDP và có vẻ như Việt Nam đi đúng hướng khi tỷ lệ này
đang có xu hướng tăng. Tuy nhiên, cho dù tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ
tăng mà công nghệ vẫn lạc hậu, tức là công nghiệp hóa không gắn với
hiện đại thì điều gì sẽ xảy ra?
- Rất đúng! Không thể nói công nghiệp theo hướng hiện
đại khi mà hầu hết các ngành công nghiệp trong nước chỉ đơn giản là lắp
ráp, gia công và khai thác sản phẩm thô. Giá trị gia tăng do tri thức
công nghệ chưa có bao nhiêu. Hầu hết các dự án đầu tư trong nước đều
phải dựa vào đấu thầu nước ngoài để họ mang công nghệ vào.
Quay trở lại câu chuyện khai thác bauxite ở Tây
Nguyên, các chuyên gia trong ngành cho rằng chúng ta chỉ làm được một
khâu đơn giản đầu tiên là tuyển rửa, trong khi công nghệ Bayer này
không có gì là cao siêu và đã từng tồn tại từ hơn 120 năm nay trên thế
giới. Một, hai nhà máy đầu tiên bằng công nghệ nước ngoài là thời gian
quá đủ để làm chủ công nghệ. Các nhà máy tiếp theo phải dùng công nghệ
Việt Nam.
Đến nay, việc thực thi chủ trương nội địa hóa công
nghệ ngoại nhập và tiến lên tìm cách cạnh tranh và sáng tạo ra công
nghệ mới vẫn chưa có. Như vậy, chúng ta không thể cạnh tranh được về
chất lượng, giá cả, cũng như tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu với
thương hiệu Việt Nam. Sứ mạng này trước hết phải giao cho các tập đoàn
nhà nước để tạo nên những cú đấm lớn trong cuộc hội nhập và cạnh tranh
toàn cầu.
Ngược lại, chúng ta sẽ mãi phụ thuộc vào công nghệ
nước ngoài như một hình thức nô dịch mới. Tệ hơn, chúng ta có thể tăng
trưởng với tốc độ cao bằng cách thu hút các công nghệ lỗi thời, tiêu
tốn năng lượng, phá hoại môi trường. Bài học mía đường, xi măng lò đứng
và các nhà máy điện chạy than là những minh chứng.
Thực ra thì Chính phủ cũng đang tìm cách tạo nên
những cú đấm như vậy mà trường hợp đầu tư vào ngành đóng tàu, cụ thể là
tập đoàn Vinashin, là một ví dụ điển hình. Ông đánh giá thế nào về mô
hình này?
- Chúng ta đang cần rất nhiều công nghệ nhưng không đủ
sức đầu tư vào tất cả và không thể dò dẫm lặp lại những bước đi từ
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho đến sản xuất đại trà. Vấn đề quan
trọng là chọn công nghệ gì và cần có lộ trình để nhanh chóng tiến lên
“mặt tiền” công nghệ trong điều kiện ta đang lạc hậu hàng trăm năm so
với thế giới. Xu thế toàn cầu hiện nay là nền kinh tế xanh và công nghệ
cao để có nhiều giá trị gia tăng.
Dĩ nhiên rất nhiều công nghệ cao hiện chưa khả thi đối
với ta và còn khó thu hút đầu tư nước ngoài. Song, không nên để lỡ thời
cơ khi mất quá nhiều sức lực, thời gian và tiền của lao vào những công
nghệ tiêu tốn năng lượng, tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường như
luyện thép, đóng tàu, khai thác khoáng sản...
Vạch ra một lộ trình nội địa hóa công nghệ trong ba
bốn thập kỷ tới với những ưu tiên cho từng thời kỳ đòi hỏi tầm nhìn của
nhà lãnh đạo cộng với những trí tuệ lớn về kinh tế và khoa học - công
nghệ (KH-CN). Phải có người hiểu cấu trúc KH-CN thế giới hiện nay, dự
báo phát triển trong tương lai để vạch ra những lộ trình ngắn nhất.
Vậy, theo Giáo sư, một mô hình phát triển thích hợp cho Việt Nam có thể sẽ như thế nào?
- Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan... mỗi nền
kinh tế có cách đi riêng của mình, nhưng tựu trung lại họ đều bắt đầu
bằng du nhập KH-CN để bắt chước, sau đó nội địa hóa từng phần, toàn
phần, rồi tiến lên cạnh tranh và sản sinh ra công nghệ mới của mình.
Không thể có công nghệ của mình, dù là những công nghệ cổ điển qua
ngoại nhập, nếu không chịu xây dựng một nền khoa học và đại học nghiêm
túc, chất lượng cao với đội ngũ nghiên cứu khoa học mạnh bám theo tiêu
chí quốc tế.
Chúng ta đang mở ra nhiều trường đại học, đang có
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều đề tài, và số lượng các công trình khoa học
in ấn trong nước nhiều vô kể, song trên thực tế chúng ta chưa có vị trí
nào trên bản đồ thế giới về đại học và KH-CN. Chúng ta chưa tạo ra được
điều kiện và môi trường từ đó xuất hiện những trung tâm KH-CN với đầu
đàn đủ cao để từ bên ngoài còn nhìn thấy họ. Phải sớm nhận ra rằng nguy
cơ tụt hậu chính là đây.
GS. Phạm Duy Hiển là người đã chỉ huy khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt.
Ông từng giữ các trọng trách như Phó viện trưởng
Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Năng lượng nguyên
tử Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Chánh cố vấn
kỹ thuật dự án hợp tác vùng châu Á - Thái Bình Dương UNDP/IAEA về kỹ
thuật hạt nhân trong công nghiệp.
Ông đang làm tư vấn cho Chương trình Không khí sạch Thụy Sỹ - Việt Nam và Dự án ADB/WB về xây dựng đại học chất lượng quốc tế.
Công nghiệp hóa: những cột mốc quan trọng
• 1960: Nhiệm vụ công nghiệp hóa lần đầu tiên được
đặt ra tại Đại hội **** lần thứ III với nội dung “mấu chốt là ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng” nhằm “biến nước ta từ một nước nông nghiệp
lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”.
• 1986: Đại hội **** lần VI xác định ưu tiên phát
triển một số ngành công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng để làm tiền đề
cho công nghiệp hóa gồm: năng lượng, một số cơ sở cơ khí, nguyên, vật
liệu, giao thông vận tải và thông tin bưu điện.
• 1991: Công nghiệp hóa được Đại hội **** lần thứ
VII xác định “theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện”.
• 1996: Đại hội **** lần thứ VIII yêu cầu công
nghiệp hóa tập trung vào “một số ngành có lợi thế” và “mũi nhọn” như:
chế biến lương thực - thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công
nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, sản xuất vật
liệu.
• 2001: Đại hội **** lần thứ IX xác định mục tiêu
“tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”
• 2006: Lần đầu tiên, tại Đại hội **** lần thứ X
xác định gắn công nghiệp hóa với phát triển kinh tế tri thức, đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020.
Nguyên Tấn
TBKTSG
-
19-06-2009 02:37 PM #24
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
Kinh tế Việt Nam có thể hạn chế sự phụ thuộc vào dầu thô?
Chiều nay (19/6), tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 5, Quốc
hội sẽ thông qua nghị quyết về điều chỉnh mục tiêu tổng quát, một số
chỉ tiêu kinh tế, ngân sách Nhà nước, trong đó có mức bội chi ngân
sách.
Đầu kỳ họp này, Chính phủ trình Quốc hội cho phép nâng
mức bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 tối đa khoảng 8%GDP. Song đa số
ý kiến trong Uỷ ban Tài chính - Ngân sách và nhiều vị đại biểu đề nghị
Quốc hội quyết định mức bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 không vượt
quá 7% GDP.
Mới đây, trả lời chất vấn trước Quốc hội, Phó thủ
tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết, để bù đắp thiếu hụt ngân sách do sụt
giảm sản xuất, giảm giá dầu thô, do chính sách giảm thuế và để tăng chi
đầu tư công, bảo đảm an sinh xã hội thì cần thiết phải tăng bội chi
ngân sách.
Theo Phó thủ tướng, xem xét diễn biến giá dầu thô
trong những ngày gần đây có xu hướng tăng lên và yêu cầu thực hiện các
biện pháp tăng cường quản lý thu, xử lý nợ đọng thuế và đề phòng lạm
phát cao trở lại thì mức bội chi khoảng 7% GDP có thể phấn đấu được.
Còn theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh, mức bội
chi ngân sách Nhà nước năm 2009 dự kiến khoảng 6,4% đến 8,3% GDP (tính
theo kế hoạch đầu năm) tùy theo các phương án giá dầu thô thế giới từ
40 USD – 70 USD/thùng.
Một số vị đại biểu băn khoăn, về thực chất giá dầu có
ảnh hưởng tới bội chi ngân sách không. Trong khi Việt Nam hàng năm nhập
khẩu sản phẩm xăng dầu tương đương hoặc cao hơn xuất khẩu dầu thô, giá
dầu thô và sản phẩm xăng dầu thay đổi cùng nhau.
Đại biểu Huỳnh Thành Đạt gửi chất vấn đến Bộ trưởng
Ninh: “Qua báo cáo của Chính phủ có thể thấy nền kinh tế Việt Nam phụ
thuộc rất nhiều vào giá dầu thô. Trước mắt cũng như về lâu dài Chính
phủ có những giải pháp hữu hiệu nào để hạn chế sự phụ thuộc này?”.
Bộ trưởng Ninh khẳng định, phần lớn các nước đều coi
dầu thô là mặt hàng chiến lược, có tầm ảnh hưởng đến an ninh kinh tế và
chính trị của Quốc gia. Vì khi giá mặt hàng này biến động sẽ tác động
lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống xã hội và cân đối ngân
sách Nhà nước.
Nước ta là quốc gia vừa xuất khẩu dầu thô, vừa phải
nhập khẩu xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu khác cho nền kinh tế. Vì
vậy, biến động giá dầu thô thế giới có tác động lớn đến nền kinh tế.
Mặc dù tỷ trọng các khoản thu từ hoạt động kinh tế ngoài dầu thô những
năm qua đã tăng lên đáng kể. Nhưng đến nay nguồn thu từ dầu thô vẫn
chiếm khoảng 20% tổng thu ngân sách Nhà nước, Bộ trưởng cho biết.
Cũng theo Bộ trưởng, Chính phủ đã và đang có nhiều
biện pháp để hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào dầu thô.
Đó là chủ động khai thác hợp lý nguồn tài nguyên của đất nước, có chính
sách hợp lý đầu tư cho ngành dầu khí, tạo điều kiện cho ngành thăm dò,
tìm kiếm, ký kết các hợp đồng khai thác dầu khí ở nước ngoài nhằm tạo
thêm sự chủ động cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, để khắc phục việc nhập khẩu 100% các sản
phẩm xăng dầu và chế phẩm hóa dầu, Nhà nước đã và sẽ đầu tư xây dựng
các nhà máy lọc Dầu Dung Quất, Nghi Sơn, Long Sơn…
Điều tiết giá bán xăng dầu trong nước một cách hợp lý,
theo Bộ Tài chính, cũng là một giải pháp. Đồng thời, Chính phủ cũng đã
chỉ đạo tăng thêm lượng dự trữ xăng dầu. Thời gian tới, sẽ tiếp tục
dành nguồn lực để nâng mức dự trữ các mặt hàng xăng dầu lên cao hơn,
nhằm chủ động đối phó với các biến động từ bên ngoài, Bộ trưởng Ninh
trả lời.
Với ngân sách Nhà nước, theo vị bộ trưởng này, Chính
phủ cũng đang triển khai đồng bộ các giải pháp quan trọng để hạn chế
dần sự phụ thuộc vào yếu tố giá dầu thô, tăng dần tỷ trọng thu từ nội
bộ nền kinh tế.
Đó là khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, đẩy nhanh sự phát triển hiệu quả, bền vững của các doanh nghiệp
làm cơ sở cho việc tăng thu từ nội lực nền kinh tế.
Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách thuế cho phù
hợp, thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các thành
phần kinh tế, giữa trong nước và nước ngoài; phát huy chức năng phân
phối lại trong điều tiết thu nhập xã hội và dân cư.
Giải pháp cuối cùng được Bộ trưởng nhấn mạnh là tăng
cường công tác thanh tra kiểm tra chống gian lận thuế, qua đó tăng thu
cho ngân sách Nhà nước.
MINH THÚY
TBKTVN
-
20-06-2009 08:12 AM #25
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
Xuất khẩu dệt may 6 tháng đạt 4 tỉ đô la Mỹ
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của cả nước6 tháng đầu năm 2009 đạt khoảng 4 tỉ đô
la Mỹ, giảm 4,7% so với cùng kỳ.
Ông Nguyễn Sơn, Phó tổng thư ký Vitas nói rằng nhiều
doanh nghiệp cho hay số lượng đơn hàng, đặc biệt là hàng jacket phục vụ
nhu cầu tiêu thụ cho mùa thuđông sắp tớitại thị trường Mỹ và châu Âu,
đang có xu hướng tăng caoso vớiquí 1-2009.
"Đây là dấu hiệu đáng mừng cho ngành dệt may để duy
trì công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, giá hàng dệt may
xuất khẩu hiện đãgiảm khoảng 15% so với quí 1-2009", ông Sơn nói.
Theo ông Bùi Văn Tiến, Tổng giám đốc Công ty cổ phần
May Việt Tiến, giai đoạn từ đây đến cuối tháng 8-2009 là thời điểm
đểViệt Tiến huy động tối đa nhân công để đáp ứng cho số lượng đơn hàng
xuất khẩu tăng 20% so với quí 1-2009.
Hiện Công ty cổ phần May Việt Tiến có 13 nhà máy sản
xuất hàng dệt may đặt tại các tỉnh thành phía Nam, thu hút khoảng 23
ngàn lao động.
Các chuyên gia ngành dệt may nhận định, nếu số lượng
đơn hàng xuất khẩu ổn định và rải đều ở tất cả các thị trường như hiện
nay, khả năng mục tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 9,5 tỉ đô la Mỹ
của Việt Nam năm 2009 là có thể đạt được. Tuy nhiên, do giá trịhàng
dệt may xuất khẩu đã giảm mạnh từ 10-15% nênlợi nhuậntừ hàng xuất
khẩu cũng không cao.
Văn Nam
TBKTSG Online
-
20-06-2009 09:00 AM #26
- Ngày tham gia
- Feb 2009
- Bài viết
- 45
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Thời cơ đang trôi qua
19/06/2009 10:45 (GMT+7)
“Tôi nghĩ đây là thời cơ vô cùng thuận lợi để Việt Nam thu hút một làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật trong ngành công nghiệp phụ trợ, không chỉ riêng từ Nhật, mà cả từ Trung Quốc”.Dành gần một thập kỷ rưỡi thúc đẩy ý tưởng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, kể từ năm ngoái, GS. Kenichi Ohno đã cảm thấy nhẹ bớt gánh nặng đi nhiều, khi Đại sứ Nhật Sakaba “xắn tay vào cuộc”.Ông dành nhiều thời gian hơn cho công việc đào tạo ở Nhật Bản, và phát triển ý tưởng này ở Ethiopia, nơi theo ông nhận định đi sau Việt Nam hai thập kỷ về GDP trên đầu người, nhưng đi trước một thập kỷ về tư duy hoạch định chiến lược và kế hoạch phát triển công nghiệp.Sang Việt Nam lần này, ông thấy có những bước tiến mới gì về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam?Đã có một khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ được triển khai xây dựng ở Bắc Ninh. Nhưng tôi ngờ rằng đây là nỗ lực của một doanh nghiệp tư nhân có mối quan hệ mật thiết với các nhà lắp ráp Nhật Bản (Tập đoàn Kinh Bắc - NV) nhiều hơn là vai trò của Chính phủ. Bởi cho đến nay, Chính phủ Việt Nam vẫn chưa có một kế hoạch hành động về phát triển công nghiệp hỗ trợ nói chung, mặc dù quá trình làm việc giữa hai phía Nhật Bản và Việt Nam về việc này đã được bắt đầu từ tháng 3 năm ngoái.Ông có hiểu lý do vì sao không?Trong khi phía Nhật rất tích cực, thì phía Việt Nam có vẻ lần lữa. Chúng tôi lập năm nhóm đặc trách để xây dựng kế hoạch hành động, nhưng họ không tìm thấy sự hợp tác từ phía các cơ quan Việt Nam.Cuối cùng, thay vì chờ đợi phía Việt Nam tham gia, chúng tôi phải tự soạn thảo dưới dạng những đề nghị để cho phía Việt Nam tham gia góp ý, chuyển cho phía Việt Nam hôm 16/6.Qua quá trình soạn thảo sáng kiến chung Nhật - Việt, chúng tôi nhận ra rằng các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có vẻ mạnh về bình luận hơn là đề xuất ý tưởng trên cơ sở phân tích những điều tra thực tế. Dường như họ vẫn nghĩ rằng đây không phải là việc của họ, xuất phát từ lợi ích của nền kinh tế Việt Nam.Cũng có ý kiến cho rằng sở dĩ Bộ Công Thương vẫn chưa cảm thấy sự cấp bách trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ vì họ thấy những công ty toàn cầu như Canon, hay Panasonic, hay Toyota, phải thu hẹp sản xuất, sa thải công nhân do suy thoái kinh tế, và họ chờ khi nào kinh tế phục hồi lại rồi mới tính tiếp. Nếu quả thực họ nghĩ như vậy thì quá thiển cận, bởi kinh tế thế giới rồi sẽ phục hồi, và lúc đó Việt Nam, nếu không chuẩn bị đón thời cơ mới, thì lại phải xuất phát từ đầu.Nếu càng nhanh chóng sản xuất được phụ tùng, phụ kiện, Việt Nam sẽ giảm được nhập siêu, thay vì trông chờ vào việc xuất tài nguyên, như đề án khai thác bauxite ở Tây Nguyên.Liệu bao giờ kế hoạch hành động này có thể được thông qua?Chúng tôi hy vọng là vào tháng 9 này. Tuy nhiên, trong quan niệm về công nghiệp hỗ trợ, giữa Nhật Bản và Việt Nam có khác biệt lớn.Trong mục lục ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ của từng lĩnh vực, Việt Nam đã quá tham khi liệt kê tất cả các hạng mục sản phẩm phụ trợ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sản xuất ôtô, họ đưa ra cả sản xuất động cơ vào công nghiệp phụ trợ, một điều khó khả thi, do sự phân công sản xuất trên toàn cầu.Sau khi đọc dự thảo nghị định trên, tôi đã phải nhờ đại diện JETRO ở Việt Nam hỏi các đồng nghiệp của ông tại Thái Lan, Indonesia và Malaysia, những nước mà Nhật Bản đã giúp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ từ rất lâu rồi, xem họ quan niệm về ngành công nghiệp này thế nào. Tuy nhiên, theo tôi được biết, họ không liệt kê chi tiết từng hạng mục như Việt Nam, mà phân chia theo cách thức sản xuất chẳng hạn đúc, rèn, dập, nhựa, tráng, mạ…Để có thể nhanh chóng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam cần phải làm ngay những gì?Về phía Bộ Công Thương, cơ quan chủ trì việc này, họ cần phải chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ, và nhanh chóng xây dựng bộ tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, kỹ năng, và chuyển giao công nghệ… Bởi trong chương trình hợp tác với Việt Nam phát triển công nghiệp hỗ trợ, người Nhật chúng tôi hoàn toàn không muốn công nghệ thấp lẫn vào.Theo tôi, điều này rất phù hợp với chiến lược thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao ở Việt Nam. Bởi muốn thu hút những nhà lắp ráp các sản phẩm công nghệ cao, nhất thiết cần phải có những doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất chi tiết, linh kiện ở trình độ công nghệ cao.Phía VCCI, một trong những cách thực hiện công nghiệp hỗ trợ một cách hữu hiệu với quá trình thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản là thành lập các hiệp hội ngành nghề đối với từng loại công nghiệp hỗ trợ, tương ứng với các hiệp hội ở Nhật Bản, và đặt quan hệ hợp tác trực tiếp.Huỳnh Phan (SGTT)
-
22-06-2009 07:54 AM #27
-
23-06-2009 10:22 AM #28
Senior Member- Ngày tham gia
- Jun 2009
- Bài viết
- 611
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
[quote user="MU"]
KT chưa cò gì rõ ràng cả mả đã có dấu hiệ lạm phát
[/quote] Lạm phát từ trình độ dân trí & lãnh đạo kém thôi ( .v.v.) .
Nếu nói kinh tế chưa có dấu hiệu rõ ràng là sai , nhất là với các công ty trên TTCK .
LNST của các công ty vẫn tốt trên TTCKVN, không tính các DN ngoài sàn , chưa OTC hay Upcom.
Hoạt động kinh doanh cải thiện .v.v.
-
27-06-2009 08:00 AM #29
Re: Kinh tế sẽ đi về đâu?
Tái hiện nỗi lo lạm phát
Mặc dù kinh tế 6 tháng đầu năm đã có những dấu hiệu
đáng mừng nhưng nhiều chuyên gia kinh tế vẫn cho rằng, cần thận trọng
khi đánh giá để tránh chủ quan, nhất là khi lạm phát đang có dấu hiệu
xuất hiện trở lại.
Le lói tia sáng sản xuất công nghiệp
Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan - khi nhận
định về khó khăn của kinh tế 6 tháng qua và triển vọng tới cuối năm -
đã cho rằng, cần chú ý tới hai lĩnh vực xuất khẩu và công nghiệp.
Theo số liệu công bố của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, kim
ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm khoảng 29,7 tỉ USD (riêng tháng 6
khoảng 5,9 tỉ USD, tăng 4,1% so với tháng 5). Trong khi đó, kim ngạch
xuất khẩu 6 tháng chỉ khoảng 27,6 tỉ USD. Như vậy, tháng 6 là tháng thứ
ba liên tiếp VN nhập siêu với tỉ lệ ngày càng tăng. Tính chung 6 tháng
đầu năm nay, mức nhập siêu đạt con số 2,1 tỉ USD (tháng 6 là gần 1 tỉ
USD), chiếm 7,6% kim ngạch xuất khẩu.
Đối với sản xuất công nghiệp, chuyên gia Fiachra Mac Cana - CTCK HSC,
có mức dự báo tương đối lạc quan khi cho rằng, tới cuối năm, giá trị
sản xuất công nghiệp có thể đạt mức tăng trưởng 10% (trong khi dự báo
của Tổng cục Thống kê là 6,5%). Ông cho rằng, sản xuất công nghiệp
tháng 6 tiếp tục "phục hồi thận trọng".
Thống kê của ông Mac Cana cho thấy, giá trị sản xuất
công nghiệp mặc dù "âm" trong quý I nhưng đã có sự phục hồi trong quý
II với tốc độ tăng trưởng là 11,2%.
"Một tín hiệu rõ ràng cho thấy thời kỳ xấu nhất đã qua
đi", ông Mac Cana nhận định. Tính chung 6 tháng đầu năm, giá trị sản
xuất công nghiệp đạt 324,2 tỉ đồng, tăng 2,8%. Trong đó, tháng 6 đạt
58,3 tỉ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước. Nếu xét theo khu vực, giá
trị sản xuất của khu vực kinh tế nhà nước đạt 14,7 tỉ đồng trong tháng
6. Tuy nhiên, con số này tại khu vực kinh tế tư nhân lại có biểu hiện
yếu đi khi suy giảm tới 2,5% (đạt 20 tỉ đồng).
6 tháng cuối năm: Khó dự đoán
Mặc dù đã có những con số cụ thể cho thấy có những
diễn biến của kinh tế theo chiều hướng tích cực, nhưng ông Võ Trí Thành
- Viện phó Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, trong một hội
thảo tại VCCI về triển vọng kinh tế 6 tháng cuối năm và 2010 vẫn cho
rằng, kinh tế những tháng cuối năm rất khó dự báo.
TS Thành cho hay, ngay cả báo cáo của hai định chế tài
chính lớn là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và NH Thế giới (WB) cũng đưa ra
những dự báo không thống nhất về sự phục hồi của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, nguy cơ tái lạm phát, sự lành mạnh của hệ
thống tài chính NH, áp lực trên thị trường ngoại hối... vẫn còn khá cao
trong khi VN lại phải đảm bảo sản xuất kinh doanh và duy trì mục tiêu
tăng trưởng.
"Nếu thực hiện gói kích cầu quá mạnh, nới lỏng quá mức
thì lạm phát sẽ quay trở lại, nợ xấu NH và áp lực tỉ giá sẽ rất lớn,
song nếu chúng ta thắt chặt vội vàng, kinh tế chưa kịp đi lên lại rơi
sâu hơn vào khó khăn" - TS Võ Trí Thành nói.
Theo TS Nguyễn Đại Lai (NHNN), mặc dù "thời kỳ lạnh
lẽo" đã qua đi, nhưng các hiệu ứng lan tỏa cả tích cực và tiêu cực cơ
bản vẫn còn nguyên phía trước, vì hiệu quả đích thực của các gói giải
cứu kinh tế chưa tới "mùa thu hoạch".
Theo TS Lai, đến trung tuần tháng 6, lãi suất huy động
VND một số NHTM CP đã gần như đồng loạt điều chỉnh tăng dần đều đối với
các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên với các mức tăng từ 0,2-0,7%/năm. Điều
này cho thấy, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế đã bắt đầu xuất hiện. Tuy
nhiên, vì sao vốn trung và dài hạn lại thiếu?
Ông Lai cho rằng, điều này là do cầu về nguồn vốn
trung, dài hạn lớn hơn cung do nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi một cách dài
hạn không nhiều vì nguồn tiền đang tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn.
Ngoài ra, sức ép về lãi suất đang là kỳ vọng của các tổ chức tín dụng
do các dấu hiệu của lạm phát đã và đang xuất hiện.
Theo dự báo của TS Lai, mức tăng trưởng cả năm 2009
nếu duy trì ở mức không thể vượt quá, và/hoặc không thể thấp quá so
với mức 5,5% thì mới kìm được lạm phát, đồng thời mới có thể giữ được
tỉ giá và lãi suất ở mức chủ động kiểm soát và mang tính ổn định.
"Bốn chỉ số: Lãi suất, cung tiền, tỉ giá và lạm phát
phải được thường xuyên kiểm soát tốt thì các DN mới có môi trường tốt
để phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả" - TS Lai khẳng định.
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch -
Đầu tư), trong 6 tháng đầu năm, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã giải ngân được 4 tỉ USD (bằng 81,6% so với cùng kỳ 2008
và bằng 50% mục tiêu giải ngân 8 tỉ USD trong năm 2009). Trong đó, vốn
từ nước ngoài dự kiến 3,3 tỉ USD. Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước
ngoài 6 tháng dự kiến đạt 13,6 tỉ USD (3,3 tỉ USD là từ dầu thô). Nhập
khẩu của khu vực này dự kiến đạt 10,5 tỉ USD, chiếm 35% tổng nhập khẩu
cả nước.
Lưu Thủy
Lao động
Thông tin của chủ đề
Users Browsing this Thread
Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)
Similar Threads
-
Kinh Đô đầy hứa hẹn
By in forum Thị trường OTCTrả lời: 0Bài viết cuối: 01-01-1970, 07:00 AM -
Kinh Đô lên sàn SIN?
By in forum Thị trường OTCTrả lời: 0Bài viết cuối: 01-01-1970, 07:00 AM
Bookmarks