Dòng tiền nào giúp cho TTCK tăng điểm?
  • Thông báo


    + Trả lời Chủ đề
    Trang 8 của 8 Đầu tiênĐầu tiên ... 6 7 8
    Kết quả 141 đến 152 của 152
    1. #141
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định Re: Dòng tiền sẽ chảy mạnh vào nơi có lợi nhuận cao nhất-đó là chứng khoán



      Bài viết khá thu vị

      Tôi cũng cho rằng lạm phát không phải là vấn đề đáng ngại trong năm nay
      Quyền lực + Không có kiểm soát = Tha hóa

      Cho nên các đồng chí phải nghiêm túc kiểm điểm, xác định nguyên nhân và đề ra kế hoạch cụ thể để xử lý, chấn chỉnh các hoạt động ....



    2. #142
      Ngày tham gia
      Feb 2009
      Bài viết
      62
      Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi

      Mặc định Re: Dòng tiền sẽ chảy mạnh vào nơi có lợi nhuận cao nhất-đó là chứng khoán



      [quote user="stockwizard"]

      Bài viết khá thu vị

      Tôi cũng cho rằng lạm phát không phải là vấn đề đáng ngại trong năm nay


      [/quote]

      Hiện nay NHNN đang có động thái mua USD, điều đó cũng có nghĩa rằng một lượng tiền sẽ được hút vào nền kinh tế, TTCK sẽ phục hồi?

      Tôi e rằng động thái này tương tự như thắt chặt tín dụng làm giảm cung tiền TTCK sẽ đi xuống. Tuy nhiên thị trường ngoại tệ ổn định giúp nền kinh tế vận hành tốt hơn

    3. #143
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định

      Các bác lưu ý

      NHNN vừa thực hiện chính sách nới lỏng tiền tê. Nhiều lãnh đạo và tổ chức đang cổ súy cho TT tăng điệm TTCK Việt Nam đang đón chào một đợt sóng mới

    4. #144
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định E ngại hỗ trợ lãi suất

      E ngại hỗ trợ lãi suất
      NGUYỄN HOÀI

      Chỉ còn 4 tháng, “bầu sữa” hỗ trợ 4% lãi suất vốn lưu động kết thúc - Ảnh: Quang Liên.

      Chỉ còn 4 tháng, “bầu sữa” hỗ trợ 4% lãi suất vốn lưu động kết thúc. Trong khi nhiều doanh nghiệp hồi hộp chờ đợi thêm một gói tương tự thì từ phía ngân hàng và thậm chí cả doanh nghiệp, đã có những tiếng nói nên dừng lại. Vì sao vậy?

      Liên tục trong các hội thảo khoa học liên quan đến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ - tài khóa vấn đề cần có thêm một gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn làm bước đệm để tránh hẫng hụt cho doanh nghiệp sau thời điểm 31/12/2009, trở thành chủ đề rất được quan tâm.

      PGS.TS Đinh Trọng Thịnh (Học viện Tài chính) cho rằng hiện tại, các doanh nghiệp được hưởng lợi chính sách hỗ trợ lãi suất vừa qua rất lo lắng vì thời hạn giải ngân sắp hết nhưng chưa tìm thấy một nguồn vốn khác.

      Theo ông Thịnh, do chưa có những đánh giá chính xác về đà suy giảm kinh tế nên vẫn cần có một gói hỗ trợ lãi suất nhưng với liều lượng nhỏ hơn, lãi suất hỗ trợ thấp hơn, ở mức 2%/năm thay vì 4%/năm như trước.

      Bởi vậy, nếu Nhà nước tiếp tục “tặng” cho doanh nghiệp thêm một cơ hội thì cần phải rà soát kỹ từng đối tượng, doanh nghiệp nào thực sự cần vốn, đủ điều kiện thì mới được thụ hưởng.

      Đồng tình, ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nêu quan điểm: các doanh nghiệp đang được hưởng lãi suất rất tốt, nếu đột ngột thay đổi thì ngân hàng và doanh nghiệp vay vốn sẽ gặp khó khăn. Bởi thế, cần có một gói kích cầu với cường độ giảm dần để doanh nghiệp thích nghi tốt hơn. Cùng đó, phải kiểm tra, kiểm soát để tránh thất thoát và nợ xấu nảy sinh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, khá nhiều ý kiến khác cho rằng, Nhà nước không nên tiếp tục hỗ trợ theo kiểu này.

      Ông Trần Công Hoàng Quốc Trang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Việt nhấn mạnh: “Nhà nước nên sớm bỏ gói kích cầu do chính sách này đã tạo ra sự chênh lệch lãi suất cạnh tranh không lành mạnh, nuôi dưỡng thói ỷ lại trong khi Việt Nam đã hội nhập quốc tế”.

      Còn ông Thái Tuấn Chí, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Tập đoàn Thái Tuấn phân tích: “Trẻ sau khi dứt sữa bao giờ cũng có một giai đoạn ăn cháo, sau đó mới đến ăn cơm và doanh nghiệp cũng phải hành xử theo kiểu như vậy trong hoàn cảnh này. Điều quan trọng là người mẹ phải dạy cho đứa con của họ biết lúc nào thì bú sữa, lúc nào thì ăn cháo và ăn cơm”.

      Vậy còn quan điểm của phía ngân hàng thì sao? Từ góc độ nghiên cứu khoa học, một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước thừa nhận: “Bên cạnh tác động tích cực, cơ chế hỗ trợ lãi suất đang có những tác động không thuận lợi đối với kiểm soát tín dụng, thị trường tiền tệ và tỷ giá”.

      Cụ thể, trong khi lãi suất cho vay VND sau khi được hỗ trợ chỉ còn 6%/năm, tương đương (ngang bằng) lãi suất cho vay ngoại tệ và từ ngày 1/6/2009, khi các ngân hàng thương mại đồng loạt giảm lãi suất cho vay ngoại tệ xuống còn 3 - 5%/năm; do lo ngại rủi ro về biến động tỷ giá, các doanh nghiệp nhập khẩu ít vay ngoại tệ, chuyển sang vay VND rồi mua ngoại tệ.

      Thực tế này đã gây sức ép tăng tỷ giá, căng thẳng về thanh khoản ngoại tệ và dẫn đến tâm lý găm giữ ngoại tệ từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu. Cùng đó, do mức chênh lệch lãi suất VND cho vay sau hỗ trợ so với lãi suất huy động khoảng 3 - 4%/năm (kỳ hạn 12 tháng trở lên) thì hoạt động kiểm soát tình trạng doanh nghiệp sử dụng vốn hỗ trợ gửi ngược vào ngân hàng kiếm lời hoặc dùng vốn hỗ trợ kinh doanh nhưng lấy vốn tự có gửi vào ngân hàng, làm tăng dư nợ ngân hàng trong khi ngân hàng thiếu vốn để cho vay doanh nghiệp cần vốn, đã trở nên vô cùng phức tạp.

      Chưa kể, sau khi có vốn hỗ trợ lãi suất, doanh nghiệp thường lập phương án sản xuất kinh doanh kéo dài thêm để được hưởng thời hạn trả nợ và lãi suất nhiều hơn, dẫn đến vòng quay vốn và tín dụng chậm lại, gây nguy hiểm cho hệ thống ngân hàng trong trường hợp diễn biến kinh tế thế giới vẫn còn phức tạp.

      Chung quan điểm, ông Nguyễn Hòa Bình, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vietcombank chia sẻ: “Ngân hàng Nhà nước nên xem xét đề xuất với Chính phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt khác có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác động không tốt cho nền kinh tế và hệ lụy xấu cho các ngân hàng thương mại. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp giảm áp lực bội chi ngân sách, giảm áp lực lạm phát”.

      Như vậy, phương án tiếp tục một gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn tương tự như “gói 1”; kéo dài thời gian gói hỗ trợ lãi suất đang thực hiện thêm một thời gian nhưng giảm dần lãi suất từ 4% xuống 2% hoặc bỏ hỗ trợ hoàn toàn đang là vấn đề khá nóng hổi. Có lẽ, một tuyên bố rõ ràng từ phía cơ quan quản lý tại thời điểm này là cần thiết.
      http://vneconomy.vn/2009090309582648...o-lai-suat.htm

    5. #145
      Ngày tham gia
      Sep 2009
      Bài viết
      15
      Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi

      Mặc định

      Nghe bảo chính phủ sẽ sử dụng gói kích cầu thứ 2. Đây sẽ là động lực cho TT đi lên

    6. #146
      Ngày tham gia
      Sep 2009
      Bài viết
      15
      Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi

      Mặc định

      Theo đuổi kích cầu và rủi ro chính sách
      ANH QUÂN
      08/09/2009 09:54 (GMT+7)

      Nhiều ý kiến cho rằng nên cân nhắc thận trọng trước khi quyết định tiếp tục theo đuổi chính sách kích cầu - Ảnh: Anh Quân.

      Để xem được Video bạn cần phải cài Flash Player
      Video:

      Tiếp tục theo đuổi chính sách kích cầu có thể còn nhận những quan điểm không đồng thuận với lý do tạo bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, gây méo mó thị trường tài chính… Nhưng những rủi ro chính sách từ lựa chọn này khá dễ dàng nhận được sự đồng thuận.

      Trong số nhiều chuyên gia kinh tế có mặt tại buổi Hội thảo có chủ đề “Các giải pháp kích thích kinh tế và những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam” do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức ngày 7/9, nhiều ý kiến cho rằng nên cân nhắc thận trọng trước khi quyết định tiếp tục theo đuổi chính sách kích cầu.

      Khó kiểm soát được dòng tiền

      Hỗ trợ lãi suất, hay giãn, giảm, miễn thuế… lâu nay vẫn được “gán” cho cái mác “kích cung cũng là gián tiếp kích cầu”, và mọi báo cáo từ phía các cơ quan tiếp vốn cho nền kinh tế đều cho rằng, các khoản hỗ trợ lãi suất là đúng đối tượng, đúng chính sách.

      Nhưng những diễn biến trên thực tế con số đang đưa đến nhận định khó bác bỏ, có thể khu vực trung gian đang được hưởng nhiều lợi ích từ gói cầu hơn là khu vực sản xuất trực tiếp. Theo Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, đây cũng ý kiến đã được Quốc hội tiếp nhận nhiều trong thời gian qua.

      Dẫn nguồn từ Ngân hàng Nhà nước, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên phân tích, trong khoảng 400 nghìn tỷ đồng giải ngân vốn tín dụng hỗ trợ lãi suất 4%, tính đến cuối tháng 8/2009, có tới 264 nghìn tỷ đồng đổ vào các doanh nghiệp tư nhân, khoảng trên dưới 70 nghìn tỷ cho vay hộ gia đình.

      Nhưng ở một diễn biến con số khác, Tổng cục Thống kê cho biết, lượng vốn đầu tư mới của khu vực dân doanh chỉ đạt khoảng 100 nghìn tỷ trong cùng thời kỳ. “Như vậy, khoản 230 nghìn tỷ đồng đi đâu? Dòng tiền tác động đến thị trường như thế nào?”, ông Thiên đặt vấn đề.

      Vốn đang “li khai” sản xuất

      Mặc dù chưa có những đánh giá cụ thể về lượng vốn kích cầu đi chệch hướng khỏi nền sản xuất, hay những lý giải hợp lý liên quan đến khoản tín dụng chiếm hơn một nửa tổng giải ngân nguồn vốn hỗ trợ lãi suất kể trên. Nhưng những khởi sắc từ đầu tư chứng khoán và bất động sản đang tạo những nghi ngại về chuyện vốn kích cầu chảy vào các thị trường “mới nổi” này.

      Việc chỉ số VN-Index tăng 71%, thị trường bất động sản tăng nóng và có dấu hiệu bong bóng chủ yếu từ cuối tháng 4/2009, cùng lúc với giai đoạn tăng mạnh giải ngân các nguồn vốn kích cầu khiến nhiều chuyên gia kinh tế đặt câu hỏi “Tiền từ đâu?”.

      Cũng ngược với dòng chảy của những nỗ lực kích cung, có những con số khác cho thấy dòng tiền đang rời khỏi khu vực sản xuất.

      Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam Benedict Bingham cho biết, dòng tiền đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân đã sụt giảm từ cuối năm 2008. Sang đến quý 1/2009, nguồn vốn này tiếp tục giảm trên 1 tỷ USD, và con số này của quý 2/2009 là 818 triệu USD.

      Mức tăng chỉ đạt 670 triệu USD của khu vực nhà nước trong nửa đầu năm nay là một so sánh quá khác biệt với con số 1,824 tỷ USD đã rút khỏi khu vực sản xuất ngoài quốc doanh này.

      Rủi ro lớn từ cán cân thanh toán

      Lo ngại về mất cân bằng cán cân thanh toán, cho đến thời điểm này, đang lấn át những rủi ro khác còn chưa rõ ràng như lạm phát cao, phá sản doanh nghiệp hàng loạt, và kinh tế giảm tăng trưởng lớn…

      “Có dấu hiệu rõ ràng cho thấy, Việt Nam đã thoát khỏi ảnh hưởng của suy thoái toàn cầu”, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam nhận định. Nhưng đại diện IMF cũng bày tỏ quan điểm: “Gần đây, chúng tôi lo ngại nền kinh tế có vẻ mất cân đối”.

      Diễn biến dễ dàng nhận thấy là sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá ngoại tệ chính thức do Ngân hàng Nhà nước quy định và tỷ giá trao đổi ở thị trường chợ đen trong thời gian gần đây. Điều này được ông Benedict Bingham lý giải rằng do mất cân bằng về cán cân thanh toán.

      Mất cân đối cán cân thanh toán thể hiện ở cả cán cân vãng lai và tài khoản vốn. Nếu tính cả tái xuất vàng, trong nửa đầu năm 2009, cán cân vãng lai của Việt Nam đang âm 2,4 tỷ USD. Về phía cán cân vốn, dù được “hỗ trợ” của 3 tỷ USD giải ngân vốn FDI, nhưng cân đối vĩ mô này vẫn còn âm 1,15 tỷ USD.

      Tính đến hết 6 tháng đầu năm nay, cán cân thanh toán của Việt Nam đang đứng trước sức ép rất lớn từ khoản thâm hụt lên tới gần 3,6 tỷ USD này. Và tình hình dường như đang xấu hơn vì những dẫn chứng mà đại diện IMF tại Việt Nam đưa ra chưa tính đến khoản xấp xỉ 3 tỷ USD nhập siêu trong hai tháng gần đây (tháng 7 và tháng 8).

      “Ngân hàng Nhà nước không nên để diễn biến cán cân thanh toán sẽ vẫn như vậy. Vì nếu xu hướng này không thay đổi trong những tháng cuối năm 2009 thì sức ép sẽ đè nặng lên năm 2010”, ông Benedict khuyến nghị.

      Đại diện cho Ngân hàng Nhà nước tham dự Hội thảo, Phó thống đốc Nguyễn Đồng Tiến cũng đồng tình với nhận định trên.

      “Tôi tán thành quan điểm của đại diện IMF đã nêu là cán cân thanh toán thâm hụt và chính sách sắp tới phải làm sao để giảm thâm hụt ngân sách”, ông Tiến nói.

    7. #147
      tyhon
      Guest

      Mặc định

      Thứ 3, 08/09/2009, 10:09
      BMI nâng dự báo tăng trưởng GDP năm 2009 và năm 2010 của Việt Nam


      BMI điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP năm 2009 từ 2,9% lên 4,5% nhờ kế hoạch kích cầu của chính phủ và xuất khẩu cải thiện.




      st1\:*{behavior:url(#ieooui) } Thông tin trong bài viết được lấy từ báo cáo The Vietnam Business Forecast Report Quarter 4/2009 của Business Monitor International.

      Nửa đầu năm 2009, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 3,9% so với 1 năm trước, tốc độ tăng trưởng này thấp chưa từng thấy.

      Tuy nhiên số liệu và thông tin kinh tế vĩ mô trong quý 2/2009 và quý 3/2009 cho thấy kế hoạch kích cầu của chính phủ và các biện pháp của Ngân hàng Nhà nước đang phát huy tác dụng tốt.

      BMI điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP năm 2009 từ 2,9% lên 4,5%, tuy nhiên BMI cảnh báo kinh tế Việt Nam cần đến sự phục hồi của nhu cầu toàn cầu mới có thể tăng trưởng bền vững.

      BMI điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP năm 2009 từ 2,9% lên 4,5% nhờ kế hoạch kích cầu của chính phủ và xuất khẩu cải thiện. Tuy nhiên việc kinh tế đi lên nhờ kích cầu trong năm 2009 sẽ khiến Việt Nam gặp khó khăn trong năm 2010 khi chính phủ và Ngân hàng Nhà nước phải ứng phó với khả năng lạm phát tăng cao.


      BMI đồng thời điều chỉnh nâng dự báo tăng trưởng GDP năm 2010 lên 5,5% từ mức 5%. Trong dài hạn, tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ trở lại mức 8% vào năm 2013 khi ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009 dịu bớt.

      BMI cho rằng quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật cũng như liên minh châu Âu sẽ có nhiều bước tiến tốt.

      Theo BMI, những năm gần đây, kinh tế Việt Nam liên tục là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á, tăng trưởng GDP đạt trung bình 7,6%/năm trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2007. Việt Nam cũng hết sức thành công trong giảm đói nghèo.

      Cơ hội cho kinh tế Việt Nam: Việc gia nhập WTO đã giúp Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường và vốn từ nước ngoài, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện cọ xát và phát triển hơn thông qua cạnh tranh.

      Chính phủ, bất chấp những khó khăn hiện tại về kinh tế vĩ mô, sẽ tiếp tục cải cách thị trường, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và tự do hóa lĩnh vực ngân hàng.

      Yếu tố đô thị hóa đóng vai trò quan trọng trong đẩy mạnh tăng trưởng dài hạn. Liên hợp quốc dự báo số người sống ở thành thị từ mức 29% tổng dân số ở thời điểm hiện nay sẽ lên mức hơn 50% vào thập niên 2040.

      Thách thức: Lo ngại về lạm phát và thâm hụt ngân sách, một số nhà đầu tư vì thế điều chỉnh giảm dự báo của họ về kinh tế Việt Nam. Nếu chính phủ quá tập trung vào kích thích tăng trưởng và không giải quyết được tận gốc áp lực lạm phát, bất ổn có thể sẽ đến.

      Kinh tế Việt Nam đi xuống, hai lĩnh vực sản xuất và xây dựng chịu ảnh hưởng mạnh. Nửa đầu năm 2009, sản xuất và xây dựng tăng trưởng với tốc độ thấp nhất lần lượt tính từ năm 1998 và năm 1999.

      Lĩnh vực dịch vụ chịu ít ảnh hưởng hơn, tốc độ tăng trưởng nửa đầu năm 2009 chỉ đạt 5,7%, thấp hơn nhiều so với mức 7,2% và 8,7% trong năm 2008 và năm 2007.

      Lĩnh vực sản xuất và xây dựng sẽ cần đến yếu tố hỗ trợ từ bên ngoài mới có thể tăng trưởng vượt qua ngưỡng 1 con số trong năm 2009. Lĩnh vực sản xuất năm 2009 tính cả năm 2009 có thể tăng trưởng 2% sau khi tăng trưởng 1% trong nửa đầu 2009.

      Vời đà phục hồi chậm chạp của kinh tế toàn cầu, phải đến năm 2011, lĩnh vực sản xuất mới tăng trưởng với tốc độ 2 con số. Triển vọng trung hạn và dài hạn của lĩnh vực sản xuất Việt Nam cải thiện bởi BMI cho rằng Việt Nam sẽ tiếp tục xuất được nhiều hàng dệt may và giầy dép sang Mỹ.

      Dù có cải thiện trong nửa đầu năm 2009, lĩnh vực xây dựng sẽ vẫn gặp nhiều khó khăn. Nửa đầu năm 2009, xây dựng tăng trưởng8,7% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân khiến lĩnh vực này tăng trưởng là lãi suất cho vay ở mức thấp. BMI đặt dấu hỏi lớn về khả năng nhu cầu bất động sản đủ để duy trì tăng trưởng cho lĩnh vực trong nửa sau năm 2009 và năm 2010.

      Tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ nửa đầu năm 2009 chỉ đạt 5,5% sau khi tăng trưởng 7,2% trong năm 2010. BMI dự báo tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ năm 2009 chỉ đạt 7,6%. Lĩnh vực dịch vụ năm 2010 có thể tăng trưởng 6,8%.

      Hoạt động công nghiệp hóa phát triển đi kèm với sự đi lên cũng lĩnh vực dịch vụ sẽ có thể giúp kinh tế Việt Năm năm 2011 và 2012 tăng trưởng lần lượt 6,8% và 7,7%; sau đó kinh tế sẽ đạt mức tăng trưởng 8% vào năm 2013.

      Chính sách tiền tệ

      BMI cho rằng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong suốt khoảng thời gian còn lại của năm 2009 để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên khi thanh khoản quá dồi dào và kỳ vọng lạm phát ngày một cao, Ngân hàng Nhà nước nhiều khả năng sẽ bắt đầu nâng lãi suất trong nửa đầu năm 2010, mức lãi suất cơ bản ở thời điểm cuối 2010 sẽ ở mức 8,5%.

      Triển vọng tăng trưởng kinh tế trong 10 năm tới

      BMI lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong 10 năm tới, những thách thức về kinh tế vĩ mô năm 2008 và 2009 sẽ mang lại nhiều kinh nghiệm quý cho Việt Nam trong ứng phó với khủng hoảng.

      Chính sách đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo phát triển tốt cơ sở hạ tầng mà không khiến nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Nếu có chính sách phù hợp, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong 10 năm tới có thể đạt 8%/năm.

      Theo BMI
      Ngọc Diệp




    8. #148
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định

      FDI vào bất động sản: Khi dự án "ngấm suy thoái"
      BẢO ANH

      8 tháng đầu năm, vốn FDI vào lĩnh vực bất động sản giảm mạnh.

      Việc dòng vốn FDI vào lĩnh vực bất động sản giảm mạnh so với năm 2008 đã khiến những lo ngại bất ổn cho thị trường nhà đất lại tái diễn.

      Chỉ có điều “nỗi lo” hiện tại đã trái ngược hoàn toàn so với một năm về trước, khi mà nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào bất động sản đã chiếm tới gần 24 tỷ USD trong tổng số 71 tỷ USD vốn đăng ký FDI.

      Dự án “ngấm suy thoái”

      Một trong những lo ngại đầu tiên, đó là sự thiếu hụt về nguồn cung trong thời gian tới, khi mà lượng vốn FDI đăng ký vào các dự án bất động sản trong 8 tháng đầu năm đã bất ngờ giảm mạnh, chỉ đạt 1,8 tỉ USD trên tổng số hơn 10,4 tỷ USD vốn đăng ký, với 28 dự án cấp mới (chiếm 1,689 tỷ USD) và 2 dự án xin tăng vốn 171 triệu USD.

      Lo ngại trên càng có cơ sở khi chủ đầu tư một số dự án bất động sản có vốn FDI lớn đã xin rút lui khỏi các dự án được đánh giá là lớn hàng đầu Việt Nam.

      Đầu tháng 8 vừa qua, Tập đoàn Riveria (Nhật Bản), chủ đầu tư dự án khách sạn trị giá 500 triệu USD, đã xin rút lui sau gần 2 năm được cấp phép, do khó khăn tài chính. Đây là một trong những dự án lớn nhất Hà Nội vào thời điểm cấp phép năm 2007 và dự kiến sẽ khởi công vào năm 2010. Nếu dự án được triển khai theo đúng kế hoạch, chắc chắn sẽ là một nguồn cung quan trọng về khách sản tiêu chuẩn 5 sao cho nhu cầu ngày càng tăng của Thủ đô.

      Trước đó, vào đầu tháng 6, chủ đầu tư dự án Hanoi City Complex 65 tầng tại đường Liễu Giai (quận Ba Đình, Hà Nội) cũng vừa quyết định tạm dừng thi công công trình. Đây là dự án được cấp giấy phép xây dựng với 100% vốn nước ngoài (chủ đầu tư là Công ty Coralissa - Luxembourg) và là dự án nhận được sự quan tâm rất nhiều của người dân Hà Nội vì quy mô cũng như chất lượng của một dự án căn hộ hiện đại.

      Tuy nhiên, đến thời điểm này, toàn bộ công trường dự án đã đóng cửa và hiện vẫn chưa rõ thời điểm dự án sẽ tiếp tục được thực hiện trở lại….

      Theo Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam, việc rút lui của một số chủ đầu tư cũng là điều hoàn toàn bình thường vì thực chất là họ gặp khó khăn về tài chính trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Nguồn vốn huy động cho các dự án sẽ không được “dồi dào” như những năm trước nên dù vẫn biết thị trường Việt Nam vẫn có tiềm năng nhưng sự thật đã khiến các chủ đầu tư “lực bất tòng tâm”.

      Còn theo những “người trong cuộc”, thực chất đa phần các dự án kinh doanh bất động sản lớn kể cả trong nước lẫn nước ngoài, đều phải dựa vào vốn vay là chủ yếu, trong đó có nhiều dự án vay đến 70% vốn đầu tư. Do đó, khi mà việc cho vay đầu tư bất động sản của các ngân hàng thắt chặt lại, cộng với những khó khăn của bản thân chủ đầu tư thì rất có thể con số chủ đầu tư dự án xin rút lui hoặc tạm dừng sẽ còn tăng lên.

      "Không đáng lo"

      Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), ông Phan Hữu Thắng đã chỉ ra rằng, những lo ngại về việc FDI nói chung và FDI vào bất động sản nói riêng là không đáng có, bởi “chúng ta đã lường trước” và mọi việc vẫn đang nằm trong mục tiêu đã đề ra.

      Theo Cục trưởng, nếu cho rằng FDI vào bất động sản sụt giảm trong thời gian qua là không chính xác, bởi con số trong năm 2008 là kết quả của một quá trình.

      Do đó, FDI của 8 tháng đầu năm nay thấp hơn năm 2008 là một điều hoàn toàn bình thường trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo ông, trong tháng 8 đầu năm nay, dòng vốn này vẫn đang đi đúng với định hướng của chúng ta khi nhận định về tình hình kinh tế thế giới từ đầu năm.

      Lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho biết, chính vì chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nên chúng ta đã chuyển từ mục tiêu thu hút đầu tư sang tăng cường thúc đẩy giải ngân ở trong nước. Với định hướng đó nên dù khả năng huy động vốn của các nhà đầu tư trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế rất khó khăn nhưng mục tiêu giải ngân chúng ta vẫn đạt được.

      Bên cạnh đó, theo ông Thắng, việc FDI vào bất động sản thấp hơn năm ngoái chắc chắn sẽ khiến nguồn cung trong tương lai bị co hẹp lại. Song, chúng ta không nên quá lo cho điều này, bởi với việc đạt gần 2 tỷ USD vốn FDI vào bất động sản của 8 tháng đầu năm cũng chưa hẳn là đã giảm mạnh mà thực tế là vẫn lớn và tăng dần so với mục tiêu đề ra.

      Tuy nhiên, Cục trưởng Thắng cũng thừa nhận, chuyện co hẹp nguồn cung từ FDI có ảnh hưởng đến giá cả bất động sản hay không thì đến thời điểm này chưa có đánh giá cụ thể nên cũng rất khó để kết luận ảnh hưởng hay không. Hơn nữa, theo ông Thắng, giá cả của bất động sản còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác như cung thật cung giả, giá thị trường.

    9. #149
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định

      Khủng hoảng tài chính: Một năm qua những con số
      MAI PHƯƠNG

      Một nữ nhân viên của Lehman Brothers để lại lưu bút trên bức chân dung CEO của Lehman, Dick Fuld, ngày 15/92008

      Các nền kinh tế lớn nhất thế giới đã chi 10.000 USD tính trên mỗi người dân để chống khủng hoảng tài chính trong 1 năm qua.

      Đây là một trong số những ước tính mà hãng tin BBC của Anh đưa ra nhân dịp 1 năm ngày ngân hàng đầu tư Lehman Brothers của Mỹ sụp đổ, châm ngòi cho sự lan rộng và leo thang của khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, dẫn tới cuộc suy thoái tồi tệ nhất của kinh tế thế giới trong vòng hơn 6 thập kỷ qua.

      10,8 nghìn tỷ USD chống khủng hoảng

      Các tính toán của BBC được dựa trên số liệu mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cung cấp cho bộ trưởng bộ tài chính các nước G-20, cho thấy, các nền kinh tế lớn nhất thế giới đã chi tổng số 10,8 nghìn tỷ USD cho việc chống khủng hoảng.

      Trong số này, khoản chi 9,2 nghìn tỷ USD thuộc về các nước giàu và 1,6 nghìn tỷ USD thuộc về Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi lớn khác.

      Trong đó, Anh và Mỹ là hai quốc gia chi nhiều nhất cho công tác này. Tại Anh, số tiền chi ra để chống khủng hoảng là 2,4 nghìn tỷ USD, chiếm 94% GDP của nước này, bình quân 30.000 USD trên mỗi đầu người. Tại Mỹ, số tiền chống khủng hoảng là 3,6 nghìn tỷ USD chiếm 25% GDP, bình quân 10.000 USD/đầu người.

      Còn lại, các nước giàu khác chi 3,2 nghìn tỷ USD để chống khủng hoảng.

      Đương nhiên, phần lớn những khoản tiền cứu trợ trên được cung cấp dưới dạng bảo lãnh cho hệ thống ngân hàng, và khi hệ thống này thoát khỏi khủng hoảng, các chính phủ có thể thu hồi phần lớn số tiền đã tung ra.

      Những con số trên đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính mà thế giới đang trải qua.

      Tuy nhiên, thống kê về số tiền mà chính phủ các nước phải chi ra để chặn khủng hoảng mới chỉ là một phần của câu chuyện. Còn rất nhiều những thống kê khác cho thấy sự khốc liệt của cuộc khủng hoảng này trên các phương diện khác, đặc biệt tại các quốc gia giàu có như Anh và Mỹ, nơi có hệ thống tài chính phát triển mạnh.

      Khối tài chính tư nhân lỗ 4 nghìn tỷ USD

      Ước tính của BBC cho thấy, lĩnh vực tài chính tài chính tư nhân của thế giới đã chịu khoản thâm hụt tài sản lên tới 4 nghìn tỷ USD trong năm qua. Trong số này, khoảng 2/3 số thua lỗ thuộc về các ngân hàng quốc tế lớn như Citigroup của Mỹ hay RBS của Anh.

      Các loại chứng khoán đảm bảo bằng nợ dưới chuẩn chiếm 1,8 nghìn tỷ USD, tức lần gần một nửa tổng số thua lỗ này. Tuy nhiên, khủng hoảng đã gây thiệt hại trên diện rộng cho nhiều loại tài sản khác của ngành ngân hàng, như các khoản vay địa ốc thương mại hay các khoản vay doanh nghiệp.

      Mức lỗ 4 nghìn tỷ USD này đã xóa sạch lợi nhuận 10 năm của ngành ngân hàng thế giới, đồng thời khiến các ngân hàng gặp vô số khó khăn trong việc tăng vốn trở lại để đảm bảo an toàn cho hoạt động và nối lại việc cho vay.

      Nhiều chuyên gia cho rằng, sẽ phải mất hàng năm trời, thậm chí là hàng thập kỷ, để hoạt động cho vay của ngành ngân hàng thế giới nói chung trở lại mức trước khi khủng hoảng xảy ra. Cùng với sự sa sút nghiêm trọng niềm tin trên thị trường tài chính, việc các dòng vốn tín dụng suy giảm chính là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới sụt giảm.

      Kinh tế thế giới co rút

      GDP của thế giới được dự báo sẽ sụt giảm 2,3% trong năm nay, tương đương mức giảm gần 1 nghìn tỷ USD. Cùng với sự sụt giảm sản lượng kinh tế này là sự gia tăng của số lượng người thất nghiệp.

      Nếu tính tới việc kinh tế toàn cầu thường tăng trưởng 2% mỗi năm, thì mức hao hụt sản lượng do suy thoái lần này phải lên tới gần 2 nghìn tỷ USD.

      Tất nhiên, trong những năm tới, phần sản lượng mất mát này sẽ được bù đắp lại khi kinh tế thế giới tăng trưởng trở lại. Tuy vậy, để đưa nền kinh tế trở lại với tăng trưởng, chính phủ các nước đã phải vay mượn những số tiền khổng lồ để chi cho các biện pháp kích thích kinh tế.

      Trong vòng 5 năm tới, nợ chính phủ của Anh được dự báo sẽ tăng từ mức 600 tỷ Bảng hiện nay lên mức 1,4 nghìn tỷ Bảng. Cùng thời gian, nợ chính phủ Mỹ có thể tăng gấp đôi lên mức 10 nghìn tỷ USD.

      Những khoản nợ này sẽ phải được thanh toán bằng tiền thuế của dân trong tương lai, đồng thời những khoản ngân sách mà chính phủ các nước dành cho các dịch vụ công như chăm sóc y tế và giáo dục vì thế cũng giảm xuống. Ước tính, tiền lãi của các khoản nợ chính phủ Anh vào năm 2014 có thể nhiều hơn tổng ngân sách giáo dục của nước này.

      Người dân thế giới nghèo đi

      Với sự sụt giảm giá trị tài sản do khủng hoảng và suy thoái, người dân khắp nơi trên thấy mình nghèo đi. Không chỉ giá trị ngôi nhà của họ giảm xuống, mà giá trị của các tài sản tài chính như cổ phiếu cũng suy giảm trong 12 tháng qua.

      BBC ước tính, giá trị tài sản ròng của các cá nhân ở nước này đã giảm 815 tỷ Bảng trong năm 2008. Trong đó, giá trị tài sản bất động sản giảm 15%, còn giá trị các tài sản tài chính giảm 9%.

      Tại Mỹ, báo cáo do Văn phòng Quản lý và Ngân sách Mỹ công bố ngày 10/9 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở nước này trong năm 2008 đã tăng lên mức 13,2%, cao nhất kể từ năm 1997. Theo báo cáo, trong năm ngoái, có 39,8 triệu người Mỹ sống dưới chuẩn nghèo của nước này là 22.025 USD/năm đối với một hộ gia đình 4 người. Số người nghèo này đã tăng 3,9% so với năm 2007.

      Khủng hoảng làm những người giàu có thiệt hại nhiều hơn về mặt tài sản, nhưng cũng làm cho những người nghèo mất đi cơ hội tìm việc làm. Nhận thấy mình nghèo đi, người dân các nước chi tiêu ít hơn, khiến tăng trưởng kinh tế chịu thêm tác động bất lợi.

      Số liệu do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) công bố ngày 8/9 cho thấy, tổng mức dư nợ tín dụng tiêu dùng tại nước này trong tháng 7 đã sụt giảm một khoản kỷ lục 21,6 tỷ USD so với tháng 6.

      Đây được xem là dấu hiệu mới nhất cho thấy, chi tiêu dùng tại Mỹ sẽ khó đủ sức để vực dậy nền kinh tế lớn nhất thế giới này khỏi suy thoái.

      (Theo BBC, CNN)

    10. #150
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định

      Các ngân hàng đồng thuận giữ ổn định thị trường tiền tệ
      THÙY DUYÊN

      Văn bản 266/HHNH của VNBA cho rằng: “Từ trung tuần tháng 8/2009 đến nay, một loạt các ngân hàng thương mại đã tiến hành điều chỉnh tăng lãi suất huy động vốn, ít nhiều dẫn đến sự xáo trộn vốn giữa các ngân hàng thương mại, không có lợi cho hoạt động kinh doanh”.


      Ngày 11/9, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) thông báo các ngân hàng hội viên đã đạt được đồng thuận giữ ổn định thị trường tiền tệ những tháng cuối năm.

      Cụ thể, Tổng thư ký VNBA, bà Dương Thu Hương đã ký văn bản số 266/HHNH, gửi các giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố thông báo nội dung trên.

      Văn bản 266/HHNH cho biết: “Từ trung tuần tháng 8/2009 đến nay, một loạt các ngân hàng thương mại đã tiến hành điều chỉnh tăng lãi suất huy động vốn, ít nhiều dẫn đến sự xáo trộn vốn giữa các ngân hàng thương mại, không có lợi cho hoạt động kinh doanh”.

      Và để chủ động nắm bắt diễn biến thị trường, VNBA đã có các cuộc gặp mặt với lãnh đạo của 48/52 các tổ chức hội viên để thảo luận về các diễn biến trên thị trường tiền tệ trong thời gian gần đây.

      “Sau khi phân tích nguyên nhân và tác động của sự cạnh tranh tăng lãi suất của các ngân hàng thương mại thời gian gần đây, 100% các tổ chức hội viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam dự cuộc họp đều thống nhất hành động để giữ ổn định thị trường tiền tệ trong những tháng cuối năm 2009”, văn bản của VNBA nêu rõ.

      Như vậy, với sự đồng thuận của đa số, nhiều khả năng lãi suất trên thị trường những tháng cuối năm sẽ ổn định hơn. Trên thực tế, trong tháng 8 vừa qua, nhiều ngân hàng đã kéo căng lãi suất huy động VND đến gần giới hạn, còn lãi suất huy động USD vẫn đang có những điều chỉnh trên diện rộng.

    11. #151
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định

      Giải ngân vốn hỗ trợ lãi suất vượt 400.000 tỷ đồng
      THU THỦY

      Tính đến ngày 10/9, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần đạt 99.218,95 tỷ đồng.



      Ngân hàng Nhà nước vừa cho biết dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất bằng đồng Việt Nam đến ngày 10/9 đã đạt 401.032,42 tỷ đồng.

      Như vậy, so với ngày 3/9/2009, dư nợ cho vay đã tăng thêm 1.293,10 tỷ đồng, tương đương 0,32%, từ mức tăng 1.991,24 tỷ đồng (0,5%) trong tuần trước đó.

      Trong đó, dư nợ của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và quỹ tín dụng nhân dân Trung ương đạt 276.293,46 tỷ đồng - tăng 1.976,86 tỷ đồng, tương đương 0,72%; nhóm ngân hàng thương mại cổ phần đạt 99.218,95 tỷ đồng - giảm 575,95 tỷ đồng, tương đương mức giảm 0,57%; nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài đạt 20.447,44 tỷ đồng - giảm 226,01 tỷ đồng, tương đương -1,09%; công ty tài chính đạt 5.072,57 tỷ đồng - tăng 118,21 tỷ đồng, tương đương 2,38%.

      Đối với số dư nợ phân theo đối tượng khách hàng vay vốn, tính đến ngày 10/9, doanh nghiệp nhà nước đã vay 61.685,93 tỷ đồng.

      Doanh nghiệp ngoài nhà nước gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… đã vay 270.983,42 tỷ đồng. Hộ sản xuất vay 68.363,07 tỷ đồng.

    12. #152
      Ngày tham gia
      Nov 2008
      Bài viết
      607
      Được cám ơn 24 lần trong 22 bài gởi

      Mặc định

      Vay cầm cố chứng khoán đang tăng

      Theo đà tăng trưởng của thị trường chứng khoán trong các tháng gần đây, nhu cầu cầm cố cổ phiếu vay vốn để tiếp tục đưa thêm tiền vào thị trường của nhà đầu tư cũng tăng khá mạnh, theo ghi nhận của các công ty chứng khoán và ngân hàng.

      Nhu cầu vay tăng cao

      Đa số các công ty chứng khoán đều nhận định rằng, do diễn biến của thị trường lạc quan, chỉ số VN-Index tăng 40% trong hơn hai tháng qua và nếu tính từ tháng 2 đến nay thì xu hướng chung của thị trường là tăng trưởng, cho nên nhà đầu tư mạnh dạn hơn trong việc vay cầm cố chứng khoán để có vốn đầu tư tiếp vào thị trường.

      Điều này đã khiến giá trị giao dịch của thị trường trong tháng 9 tăng mạnh, trung bình khoảng 5.000 tỉ đồng/phiên, và có phiên đạt đến hơn 6.500 tỉ đồng trên cả hai sàn; hơn hai lần giá trị giao dịch trung bình trong tháng 6 vừa rồi. Đơn cử, phiên ngày 2-10, mặc dù chỉ số VN-Index giảm đến hơn 3%, giá trị giao dịch của cả hai thị trường vẫn đạt mức 5.400 tỉ đồng.

      Ông Nguyễn Hoàng Long, Quyền tổng giám đốc Công ty chứng khoán Âu Việt, cho biết, hoạt động cho vay cầm cố chứng khoán của nhà đầu tư nhìn chung trong 2 tháng 8 và 9 đã tăng đáng kể so với các tháng trước đó. Tổng hạn mức cho vay cầm cố của các ngân hàng thông qua Âu Việt hiện nay là 200 tỉ đồng.

      Tại Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC), ông Nguyễn Miên Tuấn, Tổng giám đốc công ty, cho biết dư nợ cho vay của công ty tháng vừa qua đạt 100 tỉ đồng, tăng đáng kể so với mức 30 - 40 tỉ đồng/tháng trong những tháng đầu năm.

      Còn tại Công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) - hiện đang dẫn đầu về thị phần môi giới, ông Bùi Thế Tân, giám đốc khối dịch vụ chứng khoán, cho biết dư nợ cho vay bình quân trong quí 3 của công ty tăng trên 60% so với bình quân các quí trước. Hạn mức cho vay cầm cố cổ phiếu của SSI hiện nay là 300 tỉ đồng, cao hơn nhiều công ty chứng khoán khác. Ông Tân nhận định do xu hướng thị trường có nhiều dấu hiệu tốt trong ba tháng qua khiến nhà đầu tư mạnh dạn vay, thế chấp cổ phiếu để lấy vốn tiếp tục đầu tư.

      Lo ngại rủi ro

      Theo tổng giám đốc một ngân hàng cho biết, vì cho vay đầu tư chứng khoán khá rủi ro, nên các ngân hàng cũng tham gia một cách thận trọng. Theo đó, các ngân hàng liên kết với công ty chứng khoán lập danh mục các mã được chấp nhận cầm cố và chỉ những cổ phiếu có thanh khoản cao như DPM, FPT, STB, SSI, HPG, KDC... và có hoạt động kinh doanh tốt mới được chấp nhận.

      Vị tổng giám đốc này nói thêm, mức cho vay đối với tài sản cầm cố là chứng khoán không cao, chỉ khoảng từ 30% - 40% thị giá của chứng khoán đó, tùy loại.

      Còn ông Đàm Thế Thái, giám đốc khối khách hàng cá nhân của Ngân hàng An Bình, nhận định nhu cầu vay cầm cố để đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư trong vài tháng nay rất cao, tuy nhiên ngân hàng không muốn cho vay nhiều do rủi ro cao. Hiện hạn mức cho vay cầm cố chứng khoán của An Bình chỉ là 100 tỉ đồng, và đụng đến mức này ngân hàng sẽ ngừng cho vay, ông nói.

      Ông Thái cũng cho biết do đầu tư chứng khoán là hoạt động kinh doanh nên lãi suất trần cho vay cũng phải theo quy định là 10,5%/năm. “Cho vay đầu tư chứng khoán rủi ro cao nhưng lãi suất không cao nên các ngân hàng không mặn mà lắm”, ông nói.

      Một lãnh đạo của Ngân hàng Á Châu (ACB) cũng cho biết dư nợ cho vay cầm cố chứng khoán của ngân hàng thời gian qua là có tăng, tuy nhiên vẫn còn thấp hơn nhiều so với hạn mức 20% vốn điều lệ quy định bởi Ngân hàng Nhà nước. Trong khi đó, Ngân hàng Phương Đông (OCB) cho biết đã dừng hoạt động cho vay cầm cố chứng khoán.

      Trong một báo cáo gần đây về thị trường chứng khoán, Công ty chứng khoán HSC tỏ ra quan ngại khi cho rằng không giống như đợt tăng trước vào tháng 5, trong đợt tăng mới đây của thị trường chứng khoán, giao dịch dựa trên đòn bẩy tài chính đóng một một vai trò lớn hơn nhiều, điều này khiến thị trường có thể sẽ giảm nhanh và mạnh nếu các mức hỗ trợ bị phá vỡ.

      Nói rõ hơn, nếu thị trường giảm điểm nhanh, tài sản là chứng khoán cầm cố của nhà đầu tư giảm xuống thấp hơn mức quy định của ngân hàng, thì nhà đầu tư đó buộc phải nộp thêm tiền, hoặc nếu không ngân hàng sẽ bán ra các chứng khoán cầm cố đó để thu hồi nợ. Nguồn cung tăng mạnh thêm sẽ khiến thị trường giảm nhanh hơn.
      http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/...6&ChannelID=36
      Quyền lực + Không có kiểm soát = Tha hóa

      Cho nên các đồng chí phải nghiêm túc kiểm điểm, xác định nguyên nhân và đề ra kế hoạch cụ thể để xử lý, chấn chỉnh các hoạt động ....



    Thông tin của chủ đề

    Users Browsing this Thread

    Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)

       

    Similar Threads

    1. Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 17-08-2009, 04:25 PM
    2. Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 05-08-2009, 03:50 PM
    3. TTCK Mỹ: Dow Jones có hai tuần tăng điểm mạnh nhất trong 9 năm
      By VFinance in forum Nhận định Thị trường
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 25-07-2009, 08:29 AM
    4. TTCK Mỹ: Dow Jones có hai tuần tăng điểm mạnh nhất trong 9 năm
      By VFinance in forum Nhà Đầu tư nước ngoài và TTCK Quốc tế
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 25-07-2009, 08:23 AM
    5. Quan điểm của nhà nước về TTCK - Các nhà đầu tư an tâm nhé.
      By Người rừng in forum Nhận định Thị trường
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 31-03-2007, 10:33 PM

    Bookmarks

    Quyền viết bài

    • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
    • Bạn Không thể Gửi trả lời
    • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
    • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình