Chi phí lãi vay "ẩn" - lãi suất danh nghĩa hay lãi suất thị trường?


DN có thể vay nợ theo nhiều phương pháp khác nhau, chẳng hạn vay từ các định chế tài chính theo lãi suất thị trường hoặc phát hành trái phiếu chuyển đổi với lãi suất được thỏa thuận thấp hơn lãi suất thị trường. Ví dụ, DN vay 100 tỷ đồng với lãi suất thị trường là 12%/năm thì chi phí lãi vay là 12 tỷ đồng/năm. DN có thể giảm lãi vay bằng cách phát hành 100 tỷ đồng trái phiếu chuyển đổi, lãi suất 5%/năm kèm theo điều khoản chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu, với giá chuyển đổi hấp dẫn so với giá thị trường. Theo cách này, số lãi vay hàng năm chỉ là 5 tỷ đồng. Do chế độ kế toán Việt Nam chưa yêu cầu DN phản ánh chi phí lãi vay theo lãi suất thị trường (nghĩa là dùng lãi suất thị trường 12% để chiết khấu các dòng tiền của trái phiếu chuyển đổi về hiện giá và hạch toán chi phí lãi vay dựa trên lãi suất 12%; số chênh lệch giữa 100 tỷ đồng thu được từ phát hành trái phiếu chuyển đổi và hiện giá dòng tiền của trái phiếu này được hạch toán vào vốn chủ sở hữu) nên các DN có khuynh hướng hạch toán chi phí lãi vay theo lãi suất danh nghĩa (trong ví dụ trên là 5%). Điều này làm cho chi phí lãi vay bị phản ánh thấp hơn chi phí lãi vay theo lãi suất hợp lý. Người sử dụng thông tin cần phải xem xét điều chỉnh để đưa chi phí lãi vay về giá trị thực của nó.


Giá trị hợp lý của các khoản đầu tư chứng khoán


Chế độ kế toán Việt Nam quy định phương pháp đánh giá và hạch toán các khoản đầu tư chứng khoán đối với các DN thuộc những lĩnh vực ngành nghề khác nhau như sau: (1) Phản ánh theo giá trị hợp lý: quy định này chỉ áp dụng đối với các quỹ đầu tư; (2) Phản ánh theo số thấp hơn giữa giá gốc và giá trị thuần có thể thực hiện được: quy định này áp dụng cho công ty quản lý quỹ, ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán và các DN sản xuất, thương mại, dịch vụ. Khi sử dụng thông tin tài chính của các đơn vị thuộc trường hợp (2), người sử dụng thông tin cần thực hiện đánh giá lại các khoản đầu tư chứng khoán theo giá trị hợp lý và điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận để phản ánh ảnh hưởng của sự thay đổi giá trị hợp lý của các khoản đầu tư.


Tổn thất do suy giảm giá trị tài sản và tài sản thiếu chờ xử lý


Chế độ kế toán Việt Nam chưa quy định về việc đánh giá và hạch toán khoản tổn thất do suy giảm giá trị tài sản. Trong điều kiện mà những thay đổi công nghệ, thị hiếu tiêu dùng và môi trường kinh doanh diễn ra nhanh chóng như hiện nay, máy móc thiết bị và tài sản dài hạn của DN có thể dễ dàng bị lạc hậu và suy giảm giá trị. Suy giảm giá trị xảy ra khi giá trị của các lợi ích kinh tế có thể thu hồi được trong tương lai từ việc sử dụng hay bán tài sản này thấp hơn so với giá trị sổ sách.


Khi tài sản bị suy giảm giá trị nhưng vẫn được báo cáo theo giá lịch sử thì thông tin tài chính sẽ bị phản ánh sai lệch. Nhà đầu tư cần thực hiện điều chỉnh để đưa tài sản này về giá trị có thể thu hồi và ghi nhận khoản suy giảm giá trị vào chi phí.


Chế độ kế toán Việt Nam quy định, khi DN kiểm kê và phát hiện tài sản thiếu nhưng chưa rõ nguyên nhân thì phải hạch toán giá trị các tài sản này vào tài khoản Tài sản thiếu chờ xử lý và trình bày trong mục tài sản trên bảng cân đối kế toán. Dưới góc độ phân tích tài chính và định giá cổ phiếu, người sử dụng thông tin cần đánh giá xem khả năng thu hồi của các tài sản thiếu chờ xử lý này có chắc chắn hay không. Nếu không chắc chắn thu hồi được thì cần phải điều chỉnh vào chi phí, chứ không "treo" lại trên bảng cân đối kế toán.


Kế toán ngành nông nghiệp


Theo chế độ kế toán Việt Nam, các tài sản sinh học như vườn cây lâu năm, đàn gia súc, gia cầm được phản ánh theo giá trị của chi phí chăm sóc, nuôi trồng phát sinh cho đến ngày trưởng thành và khai thác trừ khoản khấu hao lũy kế. Còn đối với sản phẩm dở dang thì phản ánh theo giá trị của chi phí sản xuất - kinh doanh dở dang phát sinh trong khoảng thời gian từ khi bắt đầu một chu kỳ của mùa vụ cho đến ngày kết thúc năm tài chính. Phương pháp kế toán này làm cho số liệu về giá trị của các tài sản sinh học và sản phẩm dở dang được báo cáo xa rời giá trị hợp lý của chúng.


Khi sử dụng thông tin tài chính liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp trong việc định giá cổ phiếu, có thể tham khảo phương pháp kế toán theo quy định của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 41 (Kế toán nông nghiệp) để đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp. Cụ thể là tài sản sinh học và sản phẩm dở dang được đánh giá theo giá trị hợp lý trừ đi chi phí ước tính để tạo ra tài sản/sản phẩm ở trạng thái sẵn sàng để bán. Khoản lãi (lỗ) từ việc tăng (giảm) giá trị tài sản/sản phẩm được hạch toán vào kết quả hoạt động kinh doanh.