Chủ đề: Index và những người bạn
-
31-01-2009 08:44 PM #61
Re: Index_lượm lặt đầu năm
GDP của Mỹ giảm mạnh, suy thoái càng trầm trọng
17:24' 31/01/2009 (GMT+7)
Số liệu mới nhất của chính phủ Mỹ công bố ngày 30/1 cho thấy GDP của nước này trong một quý đã giảm với nhịp độ nhanh nhất trong vòng 27 năm qua.
[table]
[/table]
Ngành bán lẻ là ngành quan trọng với nền kinh tế Mỹ - cũng đang lâm nguy khi các đại gia cỡ Circuit cũng bị phá sản. Ảnh AP.
Theo Báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ công bố ngày 30/1 thì GDP của nước này trong quý 4/2008 đã giảm 3,8%, mức giảm lớn nhất kể từ quý 1 của năm 1982.
Trong quý 3/2008, GDP của Mỹ cũng đã giảm 0,5% và đây là lần đầu tiên GDP của nước này giảm trong hai quý liên tiếp kể từ lần suy giảm trong quý 4/1990 và quý 1/1991.
Diễn biến này cho thấy nền kinh tế Mỹ tiếp tục lún sâu vào một cuộc suy thoái càng lúc càng trầm trọng.
Mới vài hôm trước, một số liệu đáng lo ngại khác cũng đã được công bố. Đó là việc Bộ Lao động Mỹ công bố tỷ lệ công nhân nghỉ việc xin hưởng trợ cấp thất nghiệp đang tăng lên ở Mỹ.
Theo đó, tỷ lệ công nhân nghỉ việc nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp tính tới giữa tháng 1/2009 đã đạt mức 4,78 triệu người, mức cao nhất trong vòng 25 năm qua. Tính ra, công nhân nghỉ việc xin hưởng trợ cấp thất nghiệp đã tăng thêm 159.000 người so với mức của một tuần trước đó.
Chính vì những thông tin tiêu cực như vậy mà tuần qua, chứng khoán Mỹ đã có những phiên biến động mạnh nhưng chung cuộc, các chỉ số chứng khoán nước này về cuối tuần đã giảm so với mức đầu tuần.
Cụ thể, 3 phiên liên tiếp từ thứ Hai đến thứ Tư (26-28/1/2009), cả 3 chỉ số chứng khoán Mỹ đều tăng, có phiên tăng rất mạnh mẽ, tạo niềm phấn khởi cho giới đầu tư và đã le lói những hy vọng về một kỳ tăng trưởng mới.
Tuy nhiên, từ ngày thứ Năm, một loạt các thông tin, số liệu, báo cáo mới đều không ủng hộ thị trường, khiến cả 3 chỉ số chứng khoán Mỹ quay đầu giảm mạnh liên tiếp.
Đến ngày cuối tuần, chứng khoán Mỹ đã khép lại một tuần dao động mạnh trong thế lao dốc và niềm vui, niềm tin vẫn chưa trở lại với thị trường Mỹ..
Nhật Vy (Theo AFP, CNN, BBC)
-
03-02-2009 10:55 AM #62
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Thứ Ba, 03/02/2009, 10:32
Obama dự đoán có thêm ngân hàng phá sản
TPO - Tổng thống Mỹ cảnh báo rằng, sẽ có thêm các ngân hàng Mỹ rơi vào phá sản do kết quả kinh doanh thua lỗ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế trở nên rõ ràng.
Tuy nhiên, phát biểu trên NBC News, ông Obama nhấn mạnh rằng tiền gửi của người dân sẽ được an toàn.
Ngoài ra, ông cũng đã yêu cầu Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner đưa ra lộ trình cụ thể để các ngân hàng nhận tiền giải cứu.
Bên cạnh đó, ông Obama cũng cảnh báo, vài ngày tới sẽ rất khó khăn bởi Thượng viện bắt đầu tranh luận về kế hoạch giải cứu 800 tỷ USD của ông.
"Các ngân hàng đang bị tổn thương do quản lý kém và rủi ro cao. Vì thế, chúng tôi sẽ phải làm việc nhiều hơn để nâng đỡ hệ thống tài chính", ông Obama nói.
Những lời bình của ông Obama đưa ra sau khi các số liệu kinh tế mới nhất cho thấy khủng hoảng kinh tế Mỹ chưa có tín hiệu hạ nhiệt.
Bộ Tài chính thông báo cho vay 493 tỷ USD trong ba tháng đầu tiên của năm để giải quyết các vấn đề kinh tế. Bộ Thương mại thông báo chi tiêu dùng giảm ở tháng thứ sáu liên tiếp, còn chi xây dựng tháng thứ ba liên tiếp giảm, giảm 1,4%.
Tuấn Đức
Theo AP/BBC
-
03-02-2009 11:17 AM #63
Re: Index_lượm lặt đầu năm
THẾ GIỚI
Các tập đoàn hàng đầu của Nhật Bản thua lỗ nặng
Thứ ba, 03/02/2009, 02:32 (GMT+7)
Tập đoàn điện tử Panasonic của Nhật Bản ngày 2-2 cho biết doanh thu của họ trong năm tài chính kết thúc vào cuối tháng 3 tới có thể lỗ 300 tỷ yen (3,34 tỷ USD). Đây là kết quả của việc sắp xếp lại sản xuất cũng như do cổ phiếu rớt giá. Do hàng điện tử rớt giá và do nhu cầu giảm, tập đoàn Panasonic đã phải đóng cửa 2 nhà máy ở Malaysia và 1 nhà máy ở Philippines. Điều đáng ngạc nhiên là trước đó, Panasonic dự báo năm tài chính này sẽ lời 310 tỷ yen.
Đây là năm thua lỗ đầu tiên của tập đoàn này trong vòng 6 năm. Các đại gia điện tử khác cũng thua lỗ giữa lúc tình hình kinh tế thế giới đang u ám. Tập đoàn Hitachi dự kiến mức lỗ lớn nhất từ trước tới nay với 700 tỷ yen, Toshiba lỗ 280 tỷ yen, Sony lỗ 150 tỷ yen. Tập đoàn xe hơi Toyota cũng vừa cho biết doanh số bán xe hơi, xe tải và xe buýt của tập đoàn này giảm 28% trong tháng 1, mức giảm hàng tháng lớn nhất kể từ tháng 5-1974.
Tập đoàn Honda dự báo cũng sẽ giảm 57% lợi nhuận trong năm tài chính này do nhu cầu sụt giảm ở Nhật Bản, Mỹ và châu Âu. Dự báo tổng thiệt hại của các tập đoàn ngoài lĩnh vực tài chính của Nhật Bản trong năm tài chính 2008-2009 là 37%.
Do thua lỗ của nhiều tập đoàn, dự kiến sẽ có 400.000 công nhân mất việc vào cuối tháng 3-2009, cao gấp 5 lần so với dự báo vào tháng 12-2008. Tập đoàn NEC-nhà sản xuất máy tính cá nhân lớn nhất của Nhật Bản sẽ cắt giảm 20.000 nhân viên. Đây là đợt cắt giảm việc làm lớn nhất tại Nhật Bản từ khi khủng hoảng kinh tế bắt đầu.
H.Q.
(Theo Japan Times, Bloomberg)
-
03-02-2009 11:27 AM #64
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Quốc tế
Thứ hai, 02/02/2009 | 22:09GMT+7 by VĂN ANH báo NLD
Phạm nhiều tội ác ..ISRAEL BƯNG BÍT THÔNG TIN
Người dân Israel được xem gì?
Israel kiểm soát báo chí khắc nghiệt với trình độ chuyên nghiệp cao hơn bất cứ nước nào. Các phương tiện truyền thông Israel trở nên ngoan ngoãn một cách lạ thường mặc dù có những quan điểm khác biệt trong giới báo chí Israel về cách đối phó với báo chí của chính quyền Israel
Bài học cuộc chiến ở Lebanon, đối với Tel-Aviv, là rất rõ ràng: Không được sợ làm mất lòng báo chí địa phương. Người dân Israel chỉ được xem và đọc tin tức cuộc chiến qua lăng kính của quân đội Israel để tránh những phản ứng tiêu cực.
Do đó, kể từ khi quân đội Israel tiến hành cuộc tấn công vào Dải Gaza, các nhà báo trong nước bỗng trở nên ái quốc một cách lạ lùng. Họ coi yêu nước giờ đây là nghĩa vụ hàng đầu của mình. Họ lo lắng cho những “chiến sĩ anh hùng” bị cảm lạnh trong những đêm đông băng giá. Những cuộn băng video của họ được quân đội cho phép phát lên các kênh truyền hình. Khán thính giả trong nước ngồi nhà có thể xem hình ảnh cuộc xung đột qua các thiết bị nhìn xuyên màn đêm và ống kính quay từ xa.
Lấy tin từ một gia đình người Palestine di tản sang Israel qua cửa khẩu Erez
Nhục nhã
Nói chung, trên tivi Israel không hề có cảnh người Palestine chết, bị thương hay hốt hoảng vì những cuộc pháo kích dữ dội của quân đội Israel. Dĩ nhiên, cảnh một trường học ở Gaza bị trúng bom không quân Israel làm chết ít nhất 40 người không thể tìm thấy trên trang nhất của Yedioth Ahronoth, nhật báo hàng đầu của Israel. Thay vào đó là hình ảnh những “chiến sĩ Israel” hy sinh vì tổ quốc.
Gideo Levy, một cây bút của nhật báo Haaretz khuynh tả, kêu lên thảng thốt: “Nhục nhã! Báo chí chúng ta che đậy có hệ thống những đau thương (mà chúng ta) gây ra ở Dải Gaza. Chỉ có độc quan điểm của quân đội hiện diện trên các kênh truyền hình”. Ông tố cáo các đồng nghiệp của mình “tình nguyện phục vụ quân đội”.
Nhưng ý kiến của ông Levy không được tất cả các nhà báo khác đồng thuận. Nhà báo lão thành Gadi Sukenik lại có quan điểm khác: “Nếu đó là cái giá phải trả để chiến dịch (của quân đội chúng ta) tiến hành suôn sẻ hơn thì tôi ủng hộ hai tay”. Ý kiến này, theo đặc phái viên của tuần báo Đức Der Spiegel, được nhiều đồng nghiệp của Sukenik tán đồng. Họ không cảm thấy bị gò bó một cách bất thường bởi từ hai năm nay họ không có mặt tại Dải Gaza.
Hơn bao giờ hết, trình độ đối phó với báo chí của Israel trở nên chuyên nghiệp hơn, cao hơn. Chính quyền Israel biết rất rõ là các nhà báo đến từ các nước rất đói tin. Do đó, Bộ Ngoại giao Israel đã thành lập một “trung tâm truyền thông” ở Sderot. Tại đây, các nhà báo được phục vụ cà phê, bánh ngọt và tin tức về nạn nhân Israel của những cuộc pháo kích bằng tên lửa tự tạo của Hamas. Các bộ trưởng sẵn sàng đứng trước ống kính truyền hình nước ngoài để bình luận về tình hình chiến sự ở Dải Gaza.
Bị chôn chân tại biên giới Israel – Dải Gaza, các nhà báo quốc tế tỏ ra mất hứng. Silke Mertins, phóng viên tờ Financial Times Deutschland của Đức, than thở: “Chúng tôi chỉ trải nghiệm cuộc chiến này với những người Israel. Đó là một thứ cảm giác hết sức ngột ngạt”. Thorsten Schmitz, thông tín viên nhật báo Đức Suddeutsche Zeitung, cho rằng điều kiện làm việc quá kỳ cục: “Nó chẳng hơn gì nhìn lén cả”.
Để phía người Palestine cũng có tiếng nói trên các phương tiện truyền thông quốc tế, các nhà báo nước ngoài hỏi tin tức phía Gaza qua lời kể của nhân viên cứu trợ nhân đạo quốc tế, bác sĩ và giáo sư đang công tác ở Dải Gaza. Mertins vẫn tỏ ra tiếc nuối: “Nói chuyện với họ qua điện thoại làm sao bằng có mặt tại chỗ. Hơn nữa, ai biết được lúc đó người được phỏng vấn đang ở trong hoàn cảnh nào? Những lời nói của họ khách quan cỡ nào? Có tính bao quát tình hình cỡ nào?”.
Hầu hết các cơ quan truyền thông quốc tế không có thông tín viên riêng ở Gaza. Trước đây, phóng viên thường trú của họ ở Jerusalem và Tel-Aviv thường tự đến Dải Gaza để lấy tin. Bây giờ bị cấm đến đó, họ buộc phải dựa vào sự giúp đỡ của người địa phương mà họ gọi là “phóng viên nghiệp dư”. Karin Storch, thông tín viên của đài truyền hình Đức ZDV, nhận xét: “Họ là những đồng nghiệp tốt nhưng không phải là nhà báo. Điều mà chúng tôi thiếu là cơ hội thấy tận mắt nghe tận tai”.
Những thông tin không thể kiểm chứng
Chỉ được nắm bắt thông tin một chiều, bất kể từ phía chính quyền Israel hoặc lời kể qua điện thoại của những người đang làm việc hay cộng tác viên tại Dải Gaza, các nhà báo quốc tế luôn cảm thấy áy náy. Họ không thể nào tác nghiệp một cách chuyên nghiệp và nhất là kiểm chứng nguồn tin một cách độc lập.
Họ cũng không thể bê nguyên xi các nguồn thông tin của phóng viên Palestine tác nghiệp tại chỗ. Vì vậy, nhiều cơ quan truyền thông - như chương trình tin tức buổi chiều “Tagesthemen” của một đài truyền hình hàng đầu của Đức – buộc lòng phải xử lý bằng cách cung cấp cho khán thính giả của họ tất cả những nguồn tin mà họ có trong tay để bảo đảm tính khách quan.
Báo giới quốc tế đã làm như vậy vì họ cũng không tin các đồng nghiệp của họ ở Dải Gaza không bị chính quyền Hamas chi phối. Tuyên truyền cũng là một vũ khí lợi hại mà phía Hamas chắc chắn sử dụng tối đa. Điều này thể hiện rõ nhất ở những con số thương vong của thường dân Palestine sau những cuộc tấn công dữ dội của không quân và bộ binh Israel.
Ngày 22-1-2009, Trung tâm Nhân quyền Palestine báo cáo có 1.285 người Palestine thiệt mạng (trong đó có 1.062 người không phải là lính Hamas) và 4.336 người bị thương (trong đó có1.133 trẻ em). Ai có thể bảo đảm tính chính xác của những con số đó?
Hamas tận dụng những hình ảnh như thế này để tố cáo sự tàn ác của quân đội Israel
-
03-02-2009 11:49 AM #65
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Hết melamine hết luôn thành phần đạm !!!!
..................
Sức khỏe
Thứ hai, 02/02/2009 | 15:47GMT+7
Nhiều loại sữa không đủ hàm lượng đạm như quảng cáo
Cục Quản lý cạnh tranh (thuộc Bộ Công thương) vừa cho biết nhiều sản phẩm sữa tại TP.HCM có hàm lượng đạm thực tế thấp hơn hàm lượng đạm được quảng cáo trên bao bì.
Theo Cục thì việc đưa thông tin sai lệch về sản phẩm bị xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Kết quả khảo sát 20 loại sản phẩm sữa cho thấy 50% sản phẩm vi phạm. Ví dụ, sản phẩm Sữa bột béo Hà Lan ghi thành phần đạm trên 24% nhưng kiểm nghiệm thực tế chỉ có 0,5%; sữa Gold ghi trên bao bì là 21%-26% nhưng kiểm nghiệm chỉ có 1,8%; sữa Holland Gold ghi 20% nhưng kiểm nghiệm là 1,2%; sữa Bobolac ghi nhãn là 34% nhưng thực tế chỉ gần 6%...
Tuy nhiên, một số sản phẩm khác lại có kết quả kiểm nghiệm tốt hơn quảng cáo. Ví dụ, sữa Dielac ghi hàm lượng đạm là 18% nhưng thực tế kiểm nghiệm là gần 20%; sữa TOP ghi hàm lượng 34,4% nhưng kiểm nghiệm là 39,5%; sữa Anlene ghi hàm lượng 30,1% nhưng kiểm nghiệm là 30,4%...
Theo Phapluat TPHCM
-
03-02-2009 10:30 PM #66
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Tín dụng dễ dàng kết hợp với lòng tham là khởi nguồn của khủng hoảng 2008.[table] Luật lệ của một Thế giới Mới |
03/02/2009 10:47 (GMT + 7) |
(TuanVietNam) - Ngày
20/01/2009 là một ngày trọng đại. Với nước Mỹ, đó là ngày TT thứ 44
Barack Obama chính thức tuyên thệ nhậm chức. Với thế giới, sự khởi đầu
mới của nước Mỹ sẽ có tác động đáng kể tới cục diện thế giới, nhất là
khi những vấn đề toàn cầu đang đè nặng lên vai các nhà lãnh đạo các
nước. Thử thách ngày hôm nay mà thế giới đang đối mặt không gói gọn
trong lãnh thổ của quốc gia nào. Và thế giới cũng cần bộ máy lãnh đạo
cũng như thế.
|
Nếu
muốn biết diện mạo thế giới hậu-Mỹ như thế nào, chỉ cần đọc lại bản báo
cáo về hội nghị thượng đỉnh G20 tháng 11 năm ngoái tổ chức tại
Washington D.C. Tất cả các đợt khủng hoảng tài chính từ trước tới nay
đều do các “ông lớn” như IMF, Ngân hàng Thế giới hoặc nhóm G7 (sau đó
là G8) xử lý.
Nhưng lần này các ông lớn nhận ra rằng họ không
thể đơn phương đương đầu với vấn đề này mà phải mời các thị trường lớn
mạnh nhất thế giới vào hợp sức. Việc phản ứng với nền kinh tế toàn cầu
với độ kết nối cao đòi hỏi sự tham gia của các người chơi chính trên
thế giới.
Chẳng hạn, để cung cấp tiền, các quốc gia như Trung
Quốc hay Ả Rập Xê-Út có vai trò nòng cốt. Còn về tính chính thống, các
nước phương Tây già cội là tàn dư của một thế giới xưa cũ và không còn
khả năng tự cung cấp cho mình như xưa.
[table]
Obama là niềm hi vọng mới của nước Mỹ, sự lãnh đạo của ông sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới cục diện thế giới (Nguồn: NYT)
[/table]
Tất
nhiên không phải là mọi thứ đều thay đổi. Hội nghị vẫn được tổ chức tại
Washington, và Tổng thống George W. Bush có vai trò chính trong việc
thiết lập chương trình nghị sự. Mỹ là nước có những mối quan hệ sống
còn với các nước quan trọng như Trung Quốc, Nhật Bản và Ả Rập Xê-Út,
bên cạnh tình hữu hảo với các đồng minh cũ như Anh, Pháp và Đức.
Và
dường như nhóm các quốc gia lớn đại diện cho thế giới này sẽ có khả
năng phối hợp chính sách để bắt đầu việc giải quyết khủng hoảng. Vậy
đây sẽ là một thế giới mới, nhưng không nhất thiết là nơi nước Mỹ bị
loại ra, cũng không phải là nơi thiếu đi tiếng nói chung.
Thành công là kẻ thù lớn nhất của chính mình
[table]
Gốc rễ của khủng hoảng là thành công. Tín dụng dễ dàng kết hợp với lòng tham là khởi nguồn của khủng hoảng 2008. Nguồn: Economist
[/table]
Các
nhà sử học khi nhìn lại cơn khủng hoảng có lẽ sẽ đồng tình rằng nó phần
lớn là do thành công gây ra. Nghe có vẻ lạ, bởi chuỗi sự kiện dẫn đến
suy thoái đều là những sự kiện không mấy “thành công”: hoảng loạn, gặm
nhấm tín dụng, tăng trưởng chậm và thị trường chứng khoán trượt dốc.
Nhưng
nhìn rộng hơn để suy xét những điều kiện làm nền cho tình trạng đó,
chúng ta cần nhìn vào 2 thập kỉ gần đây. Thế giới tận hưởng sự ổn định
chính trị, lạm phát ở mức thấp và sự bành trướng với quy mô lớn của nền
kinh tế toàn cầu với gần 3 tỉ dân.
Các quốc gia khắp năm châu
tăng trưởng ở những mức chưa từng có – 124 quốc gia phát triển ở mức 4%
hoặc cao hơn thế chỉ trong vòng 2 năm 2006 và 2007. Ngay cả chiến
tranh, mâu thuẫn trong nước và nạn khủng bố cũng gây ra ít xáo động
chính trị hơn trong mấy thập kỉ gần đây, hay theo vài cách đánh giá
khác, trong hàng thế kỉ.
Những
điều tuyệt vời tưởng như chưa từng có này tạo ra hàng loạt vấn đề mới.
Khi một số quốc gia có nguồn lực mạnh hơn và tài nguyên dồi dào hơn, họ
trở nên quả quyết và có chủ nghĩa dân tộc cao hơn. Sự trỗi dậy của
Iran, Venezuela và một nước Nga hồi sinh chính là sản phẩm của giá dầu.
Và chiến tranh Hồi giáo cũng vậy. Được hỗ trợ bởi hàng núi
tiền, những ý tưởng Wahhabi len lỏi vào hầu hết tất cả các quốc gia Hồi
giáo, thay đổi giọng điệu của người Hồi giáo ở khắp mọi nơi và đặt của
cải vào tay các phần tử cấp tiến.
Còn
trong thế giới kinh tế, sự thịnh vượng và lạm phát thấp giải phóng hai
nguồn lực lớn. Đầu tiên là tín dụng rẻ mạt, và thứ hai là những kho vốn
khổng lồ. Những khoản tiết kiệm thặng dư chồng chất lên nhau ở các nước
châu Á đang trỗi dậy (và sau đó là các nước sản xuất dầu tại Trung
Đông) với quy mô chưa từng có trong lịch sử. Thêm vào hai nguồn lực lớn
này là hai yếu tố cũ – lòng tham và sự *** *** – và câu chuyện khủng
hoảng 2008 bắt đầu.
Ở
một bậc nào đó, vấn đề bắt nguồn từ việc nước Mỹ và một số nền kinh tế
phương Tây khác tiêu dùng quá nhiều – nhiều hơn những gì họ sản xuất ra
– và bù vào bằng cách đi vay. Nhưng nếu Mỹ tiêu quá nhiều thì châu Á
lại quá tiết kiệm.
Tất cả số tiền tiết kiệm khổng lồ 10 triệu
tỉ đó cần phải chảy về đâu đó, và trong vòng 2 thập kỉ phần lớn số tiền
này được đổ lại Mỹ, nơi được coi là miền đất đầu tư an toàn và sinh lời
nhiều nhất. Điều này dẫn đến tín dụng dễ dàng và chuỗi bong bóng trong
các lĩnh vực như cổ phiếu công nghệ, trái phiếu hay địa ốc.
Bàn tay của chính phủ sẽ can thiệp tới đâu?
Cho
dù u ám đến đâu, đợt khủng hoảng tài chính hiện nay rồi sẽ đi đến hồi
kết. Chúng ta chưa thể vạch ra những nguyên nhân cụ thể, nhưng sự phối
hợp của các chính phủ cuối cùng sẽ có tác động, bởi chính phủ có nhiều
quyền hành hơn thị trường. Họ có thể đóng cửa thị trường, quốc doanh
hóa các công ty và viết luật mới. Và Washington còn có quyền lực độc
đáo: Họ có thể in tiền.
Can
thiệp của chính phủ đã từng ổn định chủ nghĩa tư bản. Không một xã hội
hiện đại nào có thể chấp nhận xảy ra thường xuyên trong thế kỉ 19, khi
mà sự can thiệp là rất ít. Độ dài trung bình của một đợt khủng hoảng
giữa năm 1854 và 1919 là 22 tháng. Còn trong hai thập kỉ vừa qua, các
đợt khủng hoảng chỉ có tuổi đời trung bình là 8 tháng.
Giữa
năm 1854 và 1999, nền kinh tế Mỹ co lại sau mỗi 49 tháng. Còn trong hai
thập kỉ vừa qua, con số này là 100 tháng. Có rất nhiều yếu tố tạo nên
sự thay đổi này, nhưng yếu tố quan trọng nhất là các chính sách tiền tệ
và tài chính của Washington.
Tất nhiên, nền công nghiệp tài
chính – trung tâm của cuộc khủng hoảng hiện hành – là khá khác thường
nếu không muốn nói là độc đáo, bởi nó là mạch máu của nền kinh tế. Vì
thế nó cần được kiểm soát đặc biệt kĩ càng.
Trong hầu như tất
cả các cuộc khủng hoảng tài chính trong vòng 30 năm qua (và đã có hàng
tá cuộc khủng hoảng như thế), chính phủ cần can thiệp để khôi phục lòng
tin và độ tin cậy. Và họ đã thành công.
Liệu
đây có phải là sự trở lại của nền kinh tế cũ? 35 năm trước phần lớn
chính phủ các nước kiểm soát giá trị đồng nội tệ. Họ sở hữu các công ty
thép, nhà máy sản xuất ô tô, công ty viễn thông và ngân hàng. Họ đặt
giá vé máy bay hàng không, cước viễn thông, tiền hoa hồng trong chứng
khoán và cả giá xi-măng. Thuế quan trong thế giới công nghiệp hóa cao
hơn ngày hôm nay với vài lần.
Liệu có ai trong chúng ta nghĩ
rằng chúng ta sẽ quay trở về kỉ nguyên này? Hay các chính phủ tốt hơn
là nên sở hữu và điều khiển nền kinh tế theo cách xưa? Không hẳn như
vậy, nhưng yếu tố quy định sẽ quay trở lại.
Vấn đề không phải là khủng hoảng của CNTB, mà là khủng hoảng của toàn cầu hóa
[table]
Toàn cầu hóa là bàn đẩy cho sự tăng trưởng của nhiều nước, và cũng là trọng tâm của khủng hoảng. Nguồn: Economist
[/table]CNTB
là một hiện tượng toàn cầu. Nó được hun đúc bởi hoạt động của các công
ty và chính phủ cũng như cá nhân khắp thế giới. Và trong công cuộc tìm
kiếm sự phát triển và mức sống cao hơn, các quốc gia sẽ tiếp tục sử
dụng các thị trường tự do và mậu dịch tự do để phục vụ cho mục đích đó.
Chính phủ không tự do hóa bởi vì Bộ trưởng Tài chính Henry
Paulson hay người tiền nhiệm của ông này là Robert Rubin yêu cầu họ làm
như thế, mà vì đó là hướng đi sinh lợi (cũng như cái giá của việc không
tự do hóa.) Quá trình này sẽ tiếp tục một cách chậm chạp và gián đoạn,
tùy thuộc vào sức ép chính trị.
Nhưng có lẽ trong vòng 20 năm
tới, phần lớn các quốc gia sẽ tự do hóa thị trường (theo hướng có kiểm
soát) để gặt hái tăng trưởng hơn là quốc doanh hóa nền kinh tế.
Tất
nhiên lịch sử của những đợt khủng hoảng từ xưa tới nay cho thấy các
quốc gia đã từng thực thi các cuộc cải cách kinh tế mạnh bạo hơn để đem
lại sự tín nhiệm cao hơn cho hệ thống của họ, thu hút nguồn vốn mới và
sự phát triển nhảy vọt.
Suy
ra, cuộc tranh luận hiện nay về chính phủ và thị trường là không có kết
quả. Bất cứ ai suy nghĩ một cách nghiêm túc cũng sẽ hiểu rằng chúng ta
cần cả hai yếu tố trên.
Câu hỏi đặt ra là ở chỗ, làm sao để
cân bằng để đạt được tăng trưởng, tiến bộ, ổn định và công bằng xã hội.
Mục đích chính không phải là chính phủ lớn hay nhỏ mà là bộ máy chính
phủ sáng suốt. Làm thế nào để chúng ta khiến chính phủ phục vụ cho lợi
ích của số đông, cho những thế hệ sau, cho lợi ích chung của xã hội?
Vấn
đề thực sự mà chúng ta đang đối mặt ngày hôm nay không phải là sự khủng
hoảng của CNTB. Đó là cuộc khủng hoảng của toàn cầu hóa. Thế giới mới
đang hình thành sẽ không tự dưng mà biến mất. Chúng ta sẽ không quay
trở lại với một hệ thống được thống trị bởi một nhóm các nước xung
quanh khu vực Bắc Đại Tây Dương.
Những yếu tố làm nên sự lên
ngôi của nền kinh tế toàn cầu là những động lực lớn về cấu trúc và đã
có tác động trong hàng thập kỉ. Chúng không phải là phù du và sẽ không
thui chột đi trong hoàn cảnh khủng hoảng tài chính hay suy thoái kinh
tế. Thay vì thế chúng sẽ trụ vững, và trong quá trình đó chuyển rời
quyền lực khỏi các trung tâm đã thiết lập ở phương Tây.
Điều này liệu có đem lại một thế giới ổn định hơn?
Đây
là mối lo muôn thủa: rằng trong thời điểm chuyển giao, mọi thứ sẽ trở
nên lộn xộn. Kể từ khi Thucydides quan sát rằng sự chuyển giao quyền
lực từ Sparta tới Athens chính là nguyên nhân chính của cuộc chiến
Peloponnesian, các học giả đã nhìn nhận những sự kiện như thế với con
mắt e dè.
Nhưng lần này, nếu được quản lí tốt, sự “lên ngôi”
của các nước khác cần phải mang tính bất ổn định. Nước Mỹ không chìm đủ
nhanh để bất cứ một nước nào đó có thể thay thế. Nền kinh tế Trung Quốc
vẫn tiếp tục chiếm 1/5 nền kinh tế Mỹ.
Phần lớn các nước có
tiếng nói lớn có chung quyền lợi và lí tưởng với Mỹ. Vì thế mối nguy
hiểm thực sự sẽ là liệu Washington có đi “quá tay”, để các nước khác
phải cân bằng hay không. Tình hình chính trị và quân sự Mỹ có vai trò
lớn trong việc đem lại ổn định thế giới. Chính vì vậy nước Mỹ nên cung
cấp luật định, các ban ngành và dịch vụ để giúp giải quyết các vấn đề
chính của thế giới.
Nhưng
hành động chung – để tạo ra công ích – đã trở nên khó hơn rất nhiều,
bởi các hoạt động kinh tế và xã hội là toàn cầu, nhưng quyền lực chính
trị là cục bộ. Các vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị thường có liên
quan đến nhau, nhưng các giải pháp có xu hướng đến từ phía các chính
phủ với mong muốn bảo vệ chủ quyền của mình.
Trừ phi chúng ta
giải quyết vấn đề cơ bản này, không thì còn nhiều khủng hoảng nữa sẽ
xảy đến. Và chúng ta cũng nên chuẩn bị tinh thần cho các phản ứng bột
phát và không hiệu quả. Cuối cùng những phản ứng vụng về như thế có thể
khiến các quốc gia tiếp cận với mọi thứ một cách nhỏ hẹp và mang tính
cá nhân, tạo ra nhiều bất ổn và giảm hòa bình cũng như thịnh vượng cho
thế giới.
Để
minh họa điều này, chúng ta có thể liên tưởng tới bất cứ một vấn đề
nghiêm trọng nào, và khả năng cao là nó liên đới tới nhiều quốc gia.
Nạn khủng bố, mạng lưới tài chính, các bệnh truyền nhiễm, năng lượng,
an ninh – tất cả các thử thách này đòi hỏi các phản ứng có phối hợp, và
trong một vài trường hợp các tổ chức có thể thực thi chúng.
Chẳng
hạn như bệnh truyền nhiễm. Ngày nay một đợt bùng phát đảm bảo sẽ lây
lan rộng rãi. Điều đó có nghĩa là tất cả chúng ta đều có động cơ thúc
đẩy chúng ta tìm ra nguyên nhân bệnh, cách ly các nạn nhân và nhanh
chóng tìm ra thuốc chữa. Hoàn hảo hơn nữa, Tổ chức Y tế Thế giới sẽ can
thiệp vào, yêu cầu gửi mẫu virus, đưa ra quyết tâm và ban hành các quy
định.
Nhưng không may, họ thiếu vốn, thiếu nhân lực và thiếu
quyền hành để đưa ra các quy định mà ai cũng phải tuân theo. Sự khập
khiễng giữa vấn đề và giải pháp đã được đề cập tới nhiều. Vấn đề này
vẫn chưa lên tới mức quốc tế. Nhưng tình trạng này rồi sẽ thay đổi.
Hai mặt của vấn đề: Khủng hoảng hay cơ hội
Đôi
khi khủng hoảng đem lại những cơ hội tốt. Mùa thu năm ngoái, một số
chính phủ phương Tây ban đầu phản ứng lại cuộc khủng hoảng tài chính
bằng cách tự mình xoay xỏa. Họ dường như quên mất khái niệm toàn cầu
hóa – và không có gì toàn cầu hơn là vốn tư bản. Dòng tiền chảy khắp
thế giới mà không có rào cảo nào, nó đòi hỏi sự phối hợp chính sách
quốc tế.
Dù ý thức được điều này hơi muộn màng, nhưng việc các
vị lãnh đạo tổ chức hội nghị G20 là một bước khởi đầu tốt. Nhưng để
nhìn nhận cuộc khủng hoảng này một cách nghiêm túc, chúng ta phải nhìn
xa hơn sự kiện này để hướng tới một giải pháp mang tính hệ thống. Chẳng
hạn, IMF cần được cải tổ và cung cấp nhiều vốn hơn để đương đầu với
những cơn hoảng loạn như thế trong tương lai.
Việc
đổ lỗi cho tài lãnh đạo yếu kém của Mỹ dường như đã trở thành một thói
quen, thậm chí là một dạng thể thao. Nó đúng với sự thật một phần nào,
và hi vọng Tổng thống Obama sẽ tập trung vào những chủ đề này nhiều hơn
người tiền nhiệm của ông.
Nhưng vấn đề không chỉ gói gọn trong
lòng Washington. Vấn đề cũng nằm ở Paris và Moscow và Beijing và New
Delhi. Chính phủ châu Âu vẫn do dự trong việc nhường quyền cho IMF và
các tổ chức khác.
Liên Hợp Quốc ngày càng trở nên không phù
hợp và xưa cũ, không có khả năng điều chỉnh cấu trúc của mình để xúc
tiến cho hoàn cảnh mới. Rất nhiều các quốc gia với thị trường tiềm năng
đang trỗi dậy bảo vệ chủ quyền của họ một cách gay gắt như nước Mỹ,
thậm chí là hơn thế. Vậy có những cách nào khác?
Nếu
chúng ta không tìm cách mở rộng và tăng cường luật lệ cũng như các tổ
chức để hợp tác quốc tế thì thế giới sẽ phải chịu nhiều cuộc khủng
hoảng hơn nữa và phản ứng của các nhà nước sẽ càng vội vã và đột ngột,
quá ít và quá muộn.
Mặt khác, nếu chúng ta cùng chung sức để
giải quyết các vấn đề chung của nhân loại, hãy tưởng tượng những cơ hội
phi thường mà điều đó có thể đem lại cho tất cả mọi người. Hãy tưởng
tượng nếu chúng ta tạo ra những luật lệ mới cho phép quá trình phi
thường của toàn cầu hóa và tăng trưởng này truyền tới khắp các lĩnh vực
của xã hội, nâng cao mức sống và sức khỏe cho những người nghèo nhất
trong những người nghèo, cho phép ngày càng nhiều người phát triển năng
lực của mình.
Công
dân và nhà nước toàn thế giới đã tạo ra nhiều điều kì diệu trong mấy
thập kỉ qua. Đây là lúc các nhà nước ghép sự tài tình này với những
dạng hợp tác mới. Dự án lớn của thế kỉ 21 sẽ là mô hình kiến trúc mới –
mô hình giúp đảm bảo tăng trưởng và hòa bình cho thế giới.
[*]Catherine Trần (Theo bài viết của Fareed Zakaria đăng trên Newsweek)[/list][/table]
-
03-02-2009 11:54 PM #67
Member- Ngày tham gia
- Apr 2008
- Bài viết
- 340
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Mọi viễn cảnh đều màu xám, riêng những khó khăn đang tồn động và đón chờ ta phía trước vẫn xanh tươi.
Nhưng quy luật muôn đời, Âm cực --> Dương hồi.
-
04-02-2009 12:08 AM #68
Member- Ngày tham gia
- Jun 2007
- Bài viết
- 389
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Qui luật tổng thống Mỹ 1 ông giỏi 1 ông dở 1 ông giỏi.
-
04-02-2009 01:00 PM #69
Re: Index_lượm lặt đầu năm
[table] Cơ hội có thật nào cho Việt Nam trong khủng hoảng? |
04/02/2009 09:58 (GMT + 7) |
(TuanVietNam) - Có
những cơ hội được nói đến trong khủng hoảng mà nếu cố tình tóm bắt sẽ
trở thành thảm họa cho nền kinh tế. Cơ hội có thật chính là tự cải
cách, đổi mới mình. Nếu không làm đúng, vin vào lí do khủng hoảng để có
những chính sách bất hợp lý cũng là thảm họa - Ts. Phan Minh Ngọc nói.
|
Cơ hội liệu có thật?
Đã
có nhiều bài viết và phát biểu của các quan chức và chuyên giavề cơ
hội của Việt Nam trong khủng hoảng, kể từ thời điểm có những số liệu
thống kê cho thấy: cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã thực sự đặt dấu
ấn lên nền kinh tế Việt Nam.
Những số liệu đó đã đặt hồi kết
cho luồng ý kiến vô căn cứ của một số người cho rằng Việt Nam không
chịu ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng kinh tế.
Tuy nhiên,
không khó để thấy rằng nhiều trong số những cái gọi là “cơ hội” mà
những nhân vật này đưa ra thực ra chẳng phải là cơ hội. Đôi khi, việc
cố tình tóm bắt những “cơ hội” đó lại trở thành thảm họa cho nền kinh
tế.
Đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất
“Cơ
hội” tiêu biểu nhất được nhiều người nêu ra có lẽ là chuyện giá cả hàng
hóa, nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị và phương tiện sản xuất kinh
doanh đã sụt giảm đáng kể, và đây được coi là dịp may hiếm có để các
nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam mua vào để nâng cấp và mở rộng năng
lực sản xuất kinh doanh của mình (chuyện mà mới chỉ một vài tháng trước còn là điều trong mơ).
Với
lập luận rất có tính thuyết phục này hết Vinalines đến Hiệp hội dệt may
đều kiến nghị Chính phủ hỗ trợ tín dụng để nhập dây chuyền máy móc và
phương tiện.
Ít nhất có hai điều mà những người đưa ra “cơ hội” này đã không tính đến. Đó là đầu ra cho sản phẩm của họ. Đó là chi phí và khả năng thu xếp các khoản tín dụng ngoại tệ để nhập khẩu máy móc và phương tiện.
[table]
Nhập dây chuyền máy móc và phương tiện đang được nhiều DN xem là cơ hội trong khủng hoảng. Ảnh: baohaiphong.com.vn
[/table]
Nói
cách khác, để được coi là cơ hội thì các nhà sản xuất kinh doanh Việt
Nam phải tìm được thị trường tiêu thụ cho khối lượng sản phẩm gia tăng
từ việc mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh, còn nguồn vốn tín dụng
phải có lãi suất tương đối thấp và điều kiện cho vay tương đối dễ dãi.
Trong
hoàn cảnh hiện nay, dễ thấy điều kiện đầu tiên đã bị vi phạm nặng nề,
khi xét đến tổng cầu hàng hóa và dịch vụ đã suy giảm không chỉ trên thế
giới mà ngay cả trong nước. Với bối cảnh như vậy, việc sử dụng hết năng
lực sản xuất kinh doanh hiện có đã là một thành công ngoạn mục đối với
hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam.
Bởi
thế, đầu tư vào máy móc, phương tiện và hạ tầng cơ sở rồi đắp chiếu để
đấy, chờ đợi vô vọng cho cầu phục hồi và gia tăng trong khi vẫn phải
trả các chi phí liên quan hẳn nhiên không phải là một quyết định mang
tính kinh tế.
Ví
như Vinalines, đầu tư vay vốn mua thêm tầu để gia tăng năng lực vận
chuyển với giá mua rẻ đi vài chục phần trăm thoạt nghe có vẻ là một
quyết định rất khôn ngoan. Thế nhưng người ta sẽ phải giật mình khi
biết rằng mới gần đây đã có những hãng tầu trên thế giới phải chấp nhận
hạ giá vận chuyển hàng hóa xuống còn 0 (và chỉ tính phụ phí nhiên liệu
và một số phí lặt vặt khác).
[table]
Đầu tư vào nâng cấp máy móc để tăng năng lực vận chuyển có phải là
cơ hội thực sự cho Vinalines? Ảnh: mt.gov.vn
[/table]
Thêm
nữa, hiện chẳng một chuyên gia nào dám chắc rằng cuộc khủng hoảng sẽ
chấm dứt nay mai và mọi việc sẽ trở lại bình thường (cầu sẽ phục hồi)
trong một tương lai gần để cho những doanh nghiệp “đi tắt đón đầu” như
Vinalines gặt hái lợi nhuận. Việc mua tầu rồi để chấp nhận một mức giá
vận chuyển thấp đến mức phi lý hoặc không thì phải để han gỉ ở các bến
bãi trong một thời gian bất định đâu có khác gì một thảm họa kinh tế?
Tiếp cận tín dụng
Về
nguồn tín dụng, không phải ngẫu nhiên mà những đề xuất kiểu như trên
thường được đưa ra bởi các doanh nghiệp nhà nước, và yêu cầu Chính phủ
thu xếp các khoản tín dụng với các điều khoản ưu đãi.
Bản
thân những doanh nghiệp này biết rõ rằng việc tự tiếp cận được với các
nguồn tín dụng ngoại tệ hiện nay không hề dễ dàng chút nào và với giá
không hề rẻ chút nào như dư luận vẫn lầm tưởng khi thấy các ngân hàng
trung ương trên thế giới đua nhau hạ lãi suất cơ bản.
Trong
bối cảnh suy thoái toàn cầu với nhiều bất trắc và rủi ro đổ vỡ, các tổ
chức tín dụng nước ngoài đều ra sức áp dụng chiến lược kinh doanh thận
trọng, phòng ngừa rủi ro, co hẹp tín dụng hoặc xét nét hơn khi cho vay,
và với lãi suất cao.
Như
một cái vòng luẩn quẩn, suy thoái kinh tế làm sụt giảm tổng cầu và tăng
nợ xấu dẫn đến thắt chặt tín dụng, rốt cuộc càng làm cho suy thoái kinh
tế càng trầm trọng hơn.
Tất
nhiên, Chính phủ có thể đứng ra bảo lãnh các khoản vay này. Nhưng như
vậy, mọi rủi ro bất trắc của thị trường, của doanh nghiệp sẽ chất hết
lên đôi vai của Chính phủ.
[table]
Cánh cửa tiếp cận với nguồn vốn này cũng rất hạn chế. Ảnh: rd.com
[/table]
Và
sẽ đến một lúc nào đó, kể cả với sự bảo lãnh của Chính phủ, các chủ nợ
nước ngoài sẽ đặt câu hỏi: Liệu Chính phủ Việt Nam có thể thực hiện
được toàn bộ nghĩa vụ nợ của mình với quy mô như vậy không? Nói cách
khác, cánh cửa tiếp cận với nguồn vốn này cũng rất hạn chế.
Sẽ
có người chỉ ra rằng các ngân hàng trong nước cũng có một nguồn vốn
ngoại tệ nhất định và Việt Nam còn có một khoản dự trữ ngoại tệ nghe
đâu chừng 20 tỷ đôla, là những nguồn mà các doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp nhà nước có thể trông vào.
Tuy
nhiên, cũng giống như trường hợp với các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Có lẽ trừ khi có mệnh lệnh hành chính của Chính phủ buộc các ngân hàng
nội địa cung cấp tín dụng theo yêu cầu của các doanh nghiệp (nhà nước)
hoặc Chính phủ đứng ra bảo lãnh thì các doanh nghiệp mới có thể tiếp
cận được với nguồn vốn này, khi xét đến những yếu tố tiêu cực trong môi
trường sản xuất kinh doanh hiện nay. Còn nguồn dự trữ ngoại tệ thì về
bản chất không phải là để cho các hợp đồng tín dụng thương mại, và cũng
không phải là sẵn sàng cho mục đích này, ít ra vì nó còn phải thực hiện
nhiều sứ mệnh quan trọng hơn, hoặc việc sử dụng cho mục đích này sẽ gây
ra nhiều hậu quả tai hại hơn.
Tóm
lại, về nguyên tắc, tiền (ngoại tệ) vẫn còn ở một nơi nào đó và vẫn có
thể đến được tay các doanh nghiệp, nhưng với những điều kiện ngặt nghèo
hơn, đồng nghĩa với chi phí vốn sẽ không hề rẻ, làm cho việc mua máy
móc thiết bị trở nên không còn mấy hấp dẫn nữa, bên cạnh chuyện mù mịt
thị trường đầu ra.
Đặt
vấn đề một cách đơn giản hơn, nếu chuyện này thực sự là một cơ hội thì
sẽ có nhiều doanh nghiệp ở nhiều nước khác cũng không dại gì mà bỏ qua.
Nhưng việc giá cả hàng hóa tụt giảm mạnh như thời gian qua tự nó nói
lên rằng đó không phải là cơ hội!
Cơ hội nào trong khủng hoảng?
Vậy
Việt Nam có cơ hội gì trong cuộc khủng hoảng này? Theo người viết, cơ
hội là không có nhiều, và nếu có thì đó là cơ hội cho các thay đổi và
cải cách trong bản thân Chính phủ cũng như trong chính sách kinh tế của
mình.
Có lẽ sau cuộc khủng hoảng này,
nhiều người Việt Nam, trong đó có những quan chức và nhà quản lý, sẽ
tin rằng không có cái gì là không thể xảy ra trong thế giới thực này,
và Việt Nam quá nhỏ bé để có thể bình yên vô sự đứng ngoài mọi biến
động trên thế giới. Rất hy vọng sau đây sẽ có một cuộc lột xác, thay
đổi về đội ngũ, tư duy và trình độ quản lý, mức độ minh bạch, phương
hướng phát triển.
Tuy
vậy, cơ hội này lại cũng rất có thể sẽ trở thành một thảm họa nếu như
người ta nhân danh chống suy thoái, chống khủng hoảng mà thực hiện
những biện pháp can thiệp bất hợp lý và những chính sách phi kinh tế mà
vì khuôn khổ có hạn ta không thể nêu ra đây.
[*]
Ts. Phan Minh Ngọc
[/list][/table]
-
04-02-2009 01:08 PM #70
Re: Index_lượm lặt đầu năm
6 thói quen ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp
[table]
|
[/table]
03/02/2009 10:05
[table]
|
|
[/table]
Theo các chuyên viên tư vấn nhân sự của VietnamWorks.com, đó là những
thói quen sẽ ảnh hưởng xấu đến bạn cũng như sự nghiệp của bạn.
1.
Không lên kế hoạch công việc. Có bao giờ bạn ngồi thừ ra trước màn hình
máy tính lúc bắt đầu ngày làm việc và tự hỏi hôm nay mình sẽ làm gì?
Trong năm mới, để tránh tình trạng này, bạn hãy tập thói quen lên kế
hoạch của ngày hôm sau từ chiều hôm trước, trước khi bạn ra về.
2. Lập tức trả lời email. Không phải email nào cũng
cần trả lời ngay! Bạn nên dành thời gian nhất định trong ngày để trả
lời email. Như vậy, bạn sẽ có thể tập trung làm việc hiệu quả hơn.
3. Đi làm/họp trễ. Ai cũng nhiều lần gặp những việc
đột xuất trong cuộc sống cá nhân nhưng đừng lấy đó làm lý do cho sự
vắng mặt, trễ nải thường xuyên của mình. Tự bắt mình luôn luôn đúng giờ
là cách hiệu quả nhất để khắc phục thói quen này hoặc nếu không, có thể
bạn bị... mất việc đấy!
4. Lười vận động. Thói xấu này có xu hướng gia tăng
ở các thành phố lớn và ở những người trẻ tuổi. Bạn dùng sức khỏe tuổi
trẻ để lao vào làm việc và kiếm tiền để rồi dùng tiền đó... nuôi bệnh
của mình ư? Hãy cố gắng tập ít nhất một môn thể thao để rèn luyện thân
thể nhé!
5. Thờ ơ với đồng nghiệp. Thái độ thiếu tích cực
này dường như đang trở thành thói quen của một bộ phận giới trẻ. Hãy
quan tâm hơn đến những người làm việc xung quanh bạn và hòa đồng hơn!
Bạn sẽ thấy mỗi người đều có điểm hay để học hỏi đấy!
6. Lạm dụng hình thức làm việc tại nhà. Hình thức
này chỉ hiệu quả với điều kiện bạn phải rất kỷ luật với bản thân. Nhiều
người loay hoay với công việc nhà mà quên mất mình phải làm việc. Nếu
thấy khó có thể tập trung làm việc ở nhà, bạn có thể đem máy tính xách
tay ra một quán cà phê hay một góc thư viện nào đó để làm việc và nhớ
bảo đảm giữ liên lạc thường xuyên với đồng nghiệp nhé!
Theo Người Lao Động
-
04-02-2009 01:19 PM #71
Junior Member- Ngày tham gia
- Dec 2008
- Bài viết
- 114
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Re: Index_lượm lặt đầu năm
một thói wen thật tai hại làđầu thai nhầmnăm để giờ đây thua lỗ nhiều quá .
-
04-02-2009 06:40 PM #72
Re: Index_lượm lặt đầu năm
[quote user="vn_pro"]
một thói wen thật tai hại làđầu thai nhầmnăm để giờ đây thua lỗ nhiều quá .
[/quote]
Bác PRO ơi ,
Chuyện chứng thời nay xem ra ko hợp thời cho lúc này rùi ... có lẽ làm theo lời Opama thui ... tìm việc gì khác làm kiếm tiền cuối năm cúng cho chứng tiếp huhuhuhu[:thinhcau]
-
05-02-2009 09:27 AM #73
Re: Index_lượm lặt đầu năm
[table] VÌ SAO : Hàng nghìn ôtô đắt tiền bị vứt bỏ ở Dubai
08:18' 05/02/2009 (GMT+7)
Vài
tháng qua, cảnh sát Dubai đã tìm thấy hơn 3.000 chiếc xế hộp đắt tiền
bị bỏ lại bên ngoài sân bay quốc tế Dubai. Hầu hết các ôtô, gồm cả vài
chiếc Mercedes, còn chìa cắm cắm sẵn trong ổ khoá.
[table]
Nhiều ôtô bị vứt bỏ tại sân bay Dubai (Ảnh Times)
[/table]"Mỗi
ngày, chúng tôi lại tìm thấy thêm nhiều xe mới", một quan chức an ninh
sân bay không muốn bị nêu tên cho biết. "Giáng sinh là thời điểm tệ
nhất, chúng tôi thu gom được hơn hai chục chiếc chỉ trong một ngày".
Những vụ "bỏ của chạy lấy người" diễn ra khi các lao
động ngoại quốc phải đối mặt với khoản nợ không thể trả nổi tại Dubai
đã trốn khỏi nước này để tránh bị bắt giam.
Với nhiều lao động ngoại quốc tại Dubai, vật tượng
trưng cho sự giàu sang nhờ được miễn thuế tại quốc gia này là một chiếc
ôtô đắt tiền mà rất ít người trong số họ có thể mua được nhờ tiền lương
kiếm được nếu làm việc tại quê hương. Hiện giờ, đứng trước những khoản
nợ xuất phát từ cuộc sống xa hoa và do sự giàu có đang phai dần ở
Dubai, nhiều lao động chọn cách bỏ xe lại sân bay và trốn về nước.
Theo luật Sharia được áp dụng tại Dubai, hình phạt
dành cho những người vỡ nợ là rất nặng. Cảnh sát Dubai đã công bố lệnh
truy nã đối với những người vứt bỏ ôtô và bất cứ ai quay lại cũng có
nguy cơ bị bắt giữ tại sân bay.
Hiện, ở Dubai có khoảng 3,62 triệu lao động nước ngoài. Dự đoán dân số Dubai sẽ giảm 8% do người nước ngoài rời khỏi nơi này.
[*]
Hoài Linh (Theo Times)[/list][/table]
-
05-02-2009 11:56 PM #74
Re: Index_lượm lặt đầu năm
"Ông WTO": Xem lại tư duy kinh tế và mô hình phát triển
02/02/2009 15:16 (GMT+7)
"Phải “vào trận” như các cầu thủ tuyển Việt Nam "vào trận" trước tuyển Thái Lan trong chung kết cả ở Bangkok và Mỹ Đình... thì chúng ta sẽ vượt lên khó khăn và tạo được thành quả. Tôi tin ở bản lĩnh Việt Nam, sức mạnh Việt Nam".
Bây giờ nhìn lại quãng đường đã đi mà nói giá như thế này giá như thế kia... thì dễ hơn nhiều. Trong tình huống rất nhạy cảm, việc lựa chọn bao giờ cũng khó khăn so với lúc này nhìn lại, "ông WTO" Trương Đình Tuyển, thành viên Hội đồng Tư vấn tiền tệ Quốc gia, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại tâm sự.
Khẳng định rằng lạm phát ở nước ta có nguyên nhân từ bên ngoài nhưng nguyên Bộ trưởng Trương Đình Tuyển cho rằng, nguyên nhân bên trong là chính, trong đó nguyên nhân sâu xa là từ những khuyết tật trong cơ cấu kinh tế đã tồn tại từ nhiều năm nhưng chậm được khắc phục.
Cụ thể là hiệu quả đầu tư thấp, tiền bỏ ra nhiều mà sản phẩm làm ra ít, sức cạnh tranh của sản phẩm và của cả nền kinh tế kém. Cùng với những khuyết tật trong cơ cấu kinh tế, những yếu kém trong quản lý, điều hành nhất là trong điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2007 và những tháng đầu 2008 làm cho lạm phát tăng cao.
Chính điều này làm cho sức đề kháng của chúng ta trở nên yếu đi và nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường thế giới.
"Giá như..." - nói sau bao giờ cũng dễ!
Trong năm 2008, có lúc nào ông thấy đáng ra giải pháp của Chính phủ cần được đưa sớm hơn, làm nhanh hơn?
Bây giờ nhìn lại quãng đường đã đi mà nói giá như thế này giá như thế kia... thì dễ hơn nhiều.
Tôi cũng nghe có người nói giá như chúng ta không tăng giá xăng dầu lên cao nhất vào ngày 21/7: xăng: 19.000 đồng/lít, diesel: 15.950 đồng/lít,... (theo tính toán của Bộ Tài chính thì cũng mới chỉ bằng 70% giá không phải bù lỗ tại cùng thời điểm) nhưng lúc đó có ai khẳng định giá dầu sẽ xuống thấp như bây giờ?
Thậm chí có chuyên gia dầu mỏ còn đưa ra nhận định giá dầu sẽ lên tới 200 USD/ thùng. Trong trường hợp đó, nếu ta không chủ động tăng giá sẽ rất bị động. Và, liệu ngân sách có chịu nổi mức bù lỗ khi giá dầu tiếp tục tăng cao?
Câu chuyện điều hành tỷ giá và lãi suất cũng vậy. Khi chúng ta đưa lãi suất cơ bản lên 14%, tôi không thấy có ý kiến nào nói cao quá, thậm chí không ít chuyên gia trong nước trong đó có những chuyên gia độc lập cho rằng cần lên cao hơn. Hầu hết chuyên gia nước ngoài cũng kiến nghị như thế. Nếu lúc đó Chính phủ nghe theo các ý kiến này, giờ chắc có người bảo rằng tăng lãi suất lên như vậy là sai.
Thật ra trong tình huống rất nhạy cảm, việc lựa chọn bao giờ cũng khó khăn so với lúc này nhìn lại.
Nói như vậy không có nghĩa rằng mọi chuyện đều tốt cả. Nếu trình độ phân tích kinh tế khá hơn, chúng ta đã có thể nhận thấy lạm phát đã bắt đầu đe dọa nền kinh tế từ năm 2004. Hoặc chí ít chúng ta nhận biết nó ngay trong năm 2007, khi tổng phương tiện thanh toán đã lên tới 43% và tổng dư nợ tín dụng lên tới 53% thì sự lựa chọn phản ứng chính sách đã đúng đắn, kịp thời và dễ dàng hơn.
Chính phủ cũng đã nhận rõ các yếu kém trong công tác dự báo và phân tích kinh tế của các cơ quan chính phủ.
Hoặc vào tháng 2 khi lạm phát đã rất cao, nếu chúng ta kết hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ ngay từ đầu mà không dồn gánh nặng chống lạm phát cho chính sách tiền tệ thì sẽ bớt lúng túng, bị động... đặc biệt, đã không xảy ra tình hình thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng, gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Tôi đã nhiều lần phát biểu: lạm phát đối với nền kinh tế giống như bệnh cao huyết áp đối với con người; nếu không chữa trị, có ngày xuất huyết não sẽ rất nguy. Nhưng muốn chữa kiểu gì cũng phải để cho máu lưu thông. Nếu không, chưa chết do xuất huyết não thì đã chết do tắc mạch máu rồi.
Một nền kinh tế cũng vậy! Muốn chống lạm phát cũng phải bảo đảm thanh khoản cho hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Chính phủ cũng đã nhận ra điều này và tháng 3 đã đưa ra 8 nhóm giải pháp toàn diện và đồng bộ. Tuy nhiên tôi vẫn cho rằng quá trình sau đó, chính sách tài khóa vẫn chưa hỗ trợ tốt cho chính sách tiền tệ.
Mặc dầu, theo số liệu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, tổng giá trị các công trình mà các tập đoàn và tổng công ty nhà nước đình hoãn, cắt giảm là trên 30.000 tỷ đồng (?) nhưng tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2008 vẫn bằng 43,1% GDP - một con số rất cao so với mức tăng trưởng 6,23% và hệ số ICOR (nếu tính theo cách lược quy) lên đến xấp xỉ 7. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư còn kém đi.
Việt Nam từng bỏ quy định trần lãi suất mà có sao đâu
Một điểm nữa cá nhân tôi (và nhiều người khác nữa) cho rằng nếu chúng ta bỏ quy định về trần lãi suất cho vay thông qua việc sử dụng lãi suất cơ bản như là một công cụ định trần thì lãi suất sẽ phản ánh đúng quan hệ thị trường và việc phân bổ nguồn lực sẽ hiệu quả hơn. Chúng ta sẽ nắm chắc hơn nhu cầu vốn của nền kinh tế và khả năng chấp nhận lãi suất của các doanh nghiệp.
Trên cơ sở những tín hiệu thị trường, Ngân hàng Nhà nước sử dụng các công cụ thị trường mở để điều chỉnh lãi suất tín dụng theo mục tiêu lựa chọn. Như thế sẽ dễ dàng hơn và dễ tránh được sự “lệch khớp” có thể xảy ra khi điều hành bằng lãi suất cơ bản như hiện nay, nhất là trong những tình huống nhạy cảm và trong điều kiện hệ thống thu thập và xử lý số liệu không đủ tin cậy.
Đừng ngại bỏ trần lãi suất các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay lên, vì nếu đưa lên, chi phí vốn doanh nghiệp cao họ sẽ không vay, buộc ngân hàng phải hạ lãi suất xuống, trong khi đó, có những doanh nghiệp có thể vay trong ngắn hạn với lãi suất cao hơn mức trần để thực hiện một thương vụ kinh doanh mà vẫn có lãi lại không tiếp cận được tín dụng.
Chúng ta vẫn nói đây là quy định của luật dân sự nhưng tôi hiểu, quy định này chỉ để khống chế việc cho vay ngoài hệ thống tín dụng hiện đang khá phổ biến ở nông thôn, nhất là vùng ĐBSCL. Hơn nữa, đã có một thời gian khá dài, chúng ta đã bỏ quy định về trần lãi suất theo nghị quyết Trung ương 3 khoá IX mà có sao đâu.
Nếu đưa lãi suất cơ bản lên 14% là phanh gấp, tôi là người đề nghị "phanh gấp"
Nhiều người nói trong chống lạm phát, chúng ta đã có những cú phanh gấp, tự mình làm khó cho mình, đẩy kinh tế suy giảm nhanh hơn, trước khi khủng hoảng toàn cầu ập vào?
Có phải chúng ta “phanh gấp” không? Trước khi công bố 8 nhóm giải pháp, mọi gánh nặng chống lạm phát đều dồn lên vai chính sách tiền tệ. Và, chúng ta đã sử dụng cả “ba mũi giáp công” trong chính sách tiền tệ: tăng lãi suất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc thì sự khái quát bằng hình tượng đó - tuy hơi "cay nghiệt" nhưng có thể hiểu được. Song quá trình điều chỉnh lãi suất cơ bản sau này thì tôi không nghĩ thế.
Trong một cuộc họp Thường trực Chính phủ bàn về lãi suất, tôi và anh Lê Đức Thuý đề nghị đưa lãi suất cơ bản từ 10% lên thẳng 14% chứ không phải 12% như một số đồng chí đề nghị. Sau khi Thủ tướng kết luận chỉ đưa lên 12%, tôi tiếp tục gặp Thủ tướng và cho rằng 12% là chưa đủ mức.
Suy nghĩ của tôi lúc đó là lạm phát các tháng vẫn rất cao, đưa thẳng lên 14% sẽ giảm bớt tần suất điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, hạn chế được sự hỗn loạn trong thị trường tín dụng (22 ngày sau ta cũng đã phải đưa lên 14%).
Nếu quan niệm như vậy là “phanh gấp”, thì vào thời điểm đó tôi lại là người đề nghị “phanh gấp”.
Những kinh nghiệm, bài học gì cần lưu ý trong điều hành và quản lý kinh tế năm 2009, từ kinh nghiệm của 2008 và những năm trước đó?
Báo cáo tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 4 tháng 10 vừa qua, Chính phủ nêu ra 5 bài học. Đây là bài học cho nhiều năm cũng là bài học cho năm 2009.
Tôi muốn lưu ý phải đặc biệt coi trọng bảo đảm hiệu quả đầu tư, không vì phải chống suy giảm kinh tế mà chấp nhận những dự án đầu tư, nhất là đầu tư từ ngân sách và đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Nếu không, lạm phát sẽ quay trở lại.
Sự kém hiệu quả trong đầu tư từ các nguồn này là nguyên nhân sâu xa của lạm phát, làm nền kinh tế kém sức cạnh tranh và gây hậu quả lâu dài.
Vì vậy, phải lựa chọn đúng đối tượng đầu tư, hướng vào việc giải toả nhanh những điểm nghẽn tăng trưởng, đầu tư vào kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn, vào phát triển nguồn nhân lực và điều quan trọng nữa là tạo được thị trường cho sản xuất và đầu tư của khu vực dân doanh, qua đó mà giải quyết việc làm và kích thích tiêu dùng; phải bảo đảm cho mọi thành phần kinh tế tiếp cận được các dự án, không chỉ ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước; lại phải cải cách mạnh các thủ tục trong đầu tư, khâu còn nhiều ách tắc. Có như thế mới nhanh chóng phát huy hiệu quả của việc kích cầu.
Nếu làm chậm, con bệnh trầm trọng hơn sẽ không còn khả năng tiếp nhận thuốc chữa.
Những điều chỉnh mới về cải cách thủ tục trong đầu tư sẽ giúp ta có những thực tiễn tốt nhất để hoàn thiện, tăng tốc cải cách hành chính nói chung.
Bất ổn về cơ chế kinh tế và tổ chức bộ máy
Một trong những yêu cầu cơ bản của năm 2009 là chữa căn bệnh của nền kinh tế Việt Nam. Theo ông, bệnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là gì và mức độ ra sao? Gốc của bệnh tật đó nằm ở đâu?
Gốc của bệnh trong cơ thể kinh tế Việt Nam là sự thiếu hoàn thiện và minh bạch của cơ chế quản lý và sự bất ổn về mô hình tăng trưởng dẫn đến sự bất ổn trong cơ cấu kinh tế và các cân đối vĩ mô. Không chữa căn nguyên gốc rễ này thì điều hành sẽ rất vất vả.
Đừng quên rằng cơ chế kinh tế, tổ chức bộ máy và chỉ đạo điều hành liên quan mật thiết với nhau tạo thành hệ thống quản lý. Điều hành không thể thay thế được cơ chế quản lý, nó chỉ giúp khắc phục những vấn đề cụ thể mà cơ chế quản lý không bao phủ hết được.
Một cơ chế quản lý, dù tốt đến đâu cũng không phản ánh, bao quát hết được mọi hiện tượng kinh tế, lúc đó điều hành sẽ giúp xử lý những yêu cầu cụ thể nhưng khả năng của điều hành là có giới hạn.
Trong một cuộc họp trước đây, Văn phòng Chính phủ có báo cáo: trong năm Thường trực Chính phủ đã họp mấy trăm cuộc để xử lý công việc (ý muốn nói Thường trực Chính phủ làm việc rất tích cực và các đồng chí lãnh đạo Chính phủ rất bận rộn) tôi nói ngay với Thủ tướng Phan Văn Khải: điều này nói lên rằng có sự bất ổn trong cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy gắn với sự phân cấp của ta.
Chính phủ hiện nay cũng chưa giải quyết được tình hình đó.
Xử lý gốc căn bệnh như thế nào, theo ông?
Chúng ta phải giải quyết triệt để hai vấn đề:
Thứ nhất, hình thành đồng bộ các yếu tố kinh tế thị trường gắn với việc tạo lập môi trường cạnh tranh thật sự bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước cũng phải đặt trong môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
Tôi xin nhấn mạnh rằng: qua khủng hoảng, các nhà kinh tế, kể cả những người lâu nay vẫn theo trường phái "thị trường tự điều tiết" đều thừa nhận vai trò của nhà nước. Nhưng mọi sự can thiệp của nhà nước phải dựa trên đường ray của cơ chế thị trường mà không được đi chệch khỏi đường ray đó.
Ở đây có một câu chuyện rất đáng suy nghĩ: trong cuộc họp Chính phủ cuối năm vừa qua, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ có báo cáo gần đây số đăng ký sáng chế tăng mạnh và chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tôi cứ nghĩ về điều này và đặt câu hỏi: vì sao doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có tỷ trọng đăng ký sáng chế lớn hơn các doanh nghiệp lớn trong khi nguồn lực của họ, cả tài chính và con người đều thua xa các doanh nghiệp lớn?
Và tự trả lời: doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn không được nhiều ưu ái như các tập đoàn và tổng công ty nhà nước, nếu họ không tìm cách đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật sẽ rất khó tồn tại, trong khi đó các tập đoàn và tổng công ty nhà nước hiện vẫn còn nhiều lợi thế do cơ chế cũ để lại, họ chỉ cần khai thác các lợi thế đó để kinh doanh là đủ.
Đó cũng là lý do vì sao chúng ta vẫn kêu gọi đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất nhưng tỷ lệ đổi mới công nghệ ở nước ta vẫn rất thấp, thấp hơn nhiều nước trong ASEAN. Có thể suy diễn của tôi chưa đúng nhưng đây là vấn đề cần tìm hiểu đến tận gốc rễ.
Thứ hai, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển từ mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên để xuất khẩu, tăng vốn đầu tư trong đó phần quan trọng là đầu tư từ ngân sách và các tập đoàn và tổng công ty nhà nước sang mô hình tăng trưởng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, bảo đảm quy mô kinh tế dựa trên khả năng hội tụ và lan toả vùng, khai thác tiềm năng của khu vực dân doanh và gia tăng mức đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng (khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và quản lý nhằm khai thác có hiệu quả vốn, công nghệ và nguồn nhân lực).
Nhìn lại mô hình công nghiệp hóa
Hơn 22 năm đổi mới, nhưng nhiều người vẫn có cảm giác Việt Nam vẫn đang loay hoay đi tìm mô hình phát triển cho mình. Ngay chuyện công nghiệp hóa - hiện đại hóa vẫn chưa biết phải theo phương thức nào, cách làm cụ thể ra sao. Theo ông, Việt Nam làm thế nào để hiện thực hóa mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước?
Tháng 8/2007, trước khi rời Bộ Thương mại, tôi có viết bài “Sự lồi lõm trong thế giới phẳng” đăng trên 2 số báo Nhân Dân, trong đó đánh giá rằng mô hình tăng trưởng của chúng ta cũng là mô hình công nghiệp hóa là không ổn.
Tôi có nêu rõ: cho đến nay, thế giới đã trải qua hai mô hình công nghiệp hóa. Vào trước những năm 80 của thế kỷ trước, khi thế giới sống trong chế độ bảo hộ mậu dịch, các nước tiến hành công nghiệp hóa theo hướng thay thế nhập khẩu và khá thành công với mô hình này, điển hình là Nhật Bản và Hàn Quốc nhưng với hai điều kiện (1) hàng rào bảo hộ cao và (2) tạo ra cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế trên cơ sở phát triển mạnh khu vực tư nhân.
Từ giữa những năm 80 chế độ bảo hộ mậu dịch giảm dần, định hướng công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu không còn phát huy tác dụng, các nước chuyển sang mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu dựa trên lợi thế so sánh và cũng khá nhiều nền kinh tế thành công với mô hình này; chính mô hình này “đẻ” ra các nước công nghiệp mới (NICs.)
Tuy nhiên từ đầu thập kỷ 90, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trở thành xu thế lớn, ngày càng cuốn hút nhiều quốc gia dân tộc vào tiến trình này với sự ra đời của nhiều hiệp định mậu dịch tự do song phương (FTA) khu vực (RTA) và rộng hơn, trên quy mô toàn cầu là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
trong điều kiện đó, các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hoá và dịch vụ (hàng hoá, vốn, công nghệ và cả lao động nữa) được di chuyển tự do từ nước này sang nước khác theo các cam kết mở cửa thị trường và theo nguyên tắc không phân biệt đối xử, thì cái gọi là công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu cũng như công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu không còn nguyên nghĩa nữa.
Mô hình công nghiệp hóa phải được thực hiện trên cơ sở lợi thế so sánh dài hạn, quy mô kinh tế trên tầm nhìn liên vùng có tính đến dung lượng thị trường (cả trong và ngoài nước) nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh để có thể chiếm lĩnh những công đoạn có giá trị gia tăng cao, có lợi nhuận lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong khi đó, mô hình công nghiệp hóa của chúng ta hiện nay vẫn không rõ ràng. Thay thế nhập khẩu thì không cạnh tranh được, hướng về xuất khẩu thì chủ yếu là gia công, dựa trên nhân công giá rẻ, giá trị gia tăng rất thấp.
Lợi thế nhân công rẻ không bao giờ là lợi thế cạnh tranh dài hạn trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như vũ bão trong thời đại ngày nay. Hơn nữa, với một chế độ xã hội như chúng ta, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng nếu có ai đó cứ muốn duy trì lợi thế nhân công giá rẻ thì thật là bất ổn!
Củng cố nền tảng của tăng trưởng
Dự báo bình thường đã khó, dự báo trong khủng hoảng lại khó khăn gấp bội, ngay cả với các chuyên gia hàng đầu của thế giới. Trong điều kiện thế giới biến động mạnh như hiện nay, Việt Nam phải làm gì để thích ứng và xử lý kịp thời?
Đúng, dự báo là việc rất khó, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá, tác động lan toả rất mạnh và biến động khó lường. Vì vậy, điều quan trọng là củng cố các nền tảng của tăng trưởng.
Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế; hoàn thiện các định chế kiểm soát thị trường và các tiêu chí thận trọng đi đôi với việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Hai yêu cầu này gắn liền với nhau. Có như thế mới phát triển bền vững, tăng được sức đề kháng cho nền kinh tế trước biến động của bên ngoài.
Song song đó, phải làm tốt hơn công tác dự báo và phân tích kinh tế và có các kịch bản ứng phó với những tình huống xảy ra để không rơi vào thế bị động.
Vào trận như tuyển Việt Nam trước Thái Lan
Nhiều người đã đưa ra những dự đoán rất tiêu cực và bi quan về kinh tế Việt Nam 2009. Nhưng liệu có điều gì để người Việt Nam có thể lạc quan, vững tin hơn?
Đúng là năm 2009 là năm khó khăn, thậm chí khó khăn hơn so với 2008. Nhưng tôi không bi quan như thế. Vì, bên cạnh những khó khăn chúng ta cũng có những thuận lợi:
Thuận lợi lớn nhất là chúng ta có môi trường chính trị xã hội ổn định. Đây là thuân lợi gắn liền với chế độ ta và là tài sản vô giá của đất nước. Chính nhờ thuận lợi này mà các nhà đầu tư nước ngoài vẫn vững tin vào triển vọng phát triển dài hạn của nước ta.
Nguồn lực trong dân và tiềm năng tăng trưởng của đất nước còn nhiều, nếu biết khai thác tốt sẽ là động lực cho phát triển.
Thị trường nội địa của nước ta là lớn mà các doanh nghiệp trong nước chưa quan tâm khai thác; và những thuận lợi mới mà năm 2008 không có: (1) lãi suất đã giảm và có thể còn được giảm tiếp (tất nhiên phải được tính toán hợp lý, tốt nhất là bỏ quy định về lãi suất cơ bản đang được sử dụng như một công cụ định trần); (2) các chính sách chủ động ngăn chặn suy giảm thể hiện trong 5 gói giải pháp của chính phủ là khá toàn diện trong đó có giải pháp kích cầu đầu tư, giải pháp này sẽ tạo thị trường cho sản xuất; (3) Chính phủ cũng đã giao cho Ngân hàng Phát triển bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực tạo nhiều việc làm nhất và là động lực chủ yếu của tăng trưởng; (4) khả năng thanh khoản của các ngân hàng tốt hơn nhiều so với năm 2008; (5) chúng ta có những cơ hội thị trường mới: hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt-Nhật (EPA) vừa được ký kết, sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật...
Vấn đề là phải thực hiện khẩn trương và quyết liệt theo tinh thần “chủ trương 1, biện pháp 10 và quyết tâm 20”...
Phải “vào trận” như các cầu thủ tuyển Việt Nam "vào trận" trước tuyển Thái Lan trong chung kết cả ở Bangkok và Mỹ Đình... thì chúng ta sẽ vượt lên khó khăn và tạo được thành quả. Tôi tin ở bản lĩnh Việt Nam, sức mạnh Việt Nam.
Thách thức 2009 đặt ra yêu cầu cải cách thể chế kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Chẳng phải cũng từ khủng hoảng kinh tế xã hội vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 mà **** ta đề ra đường lối đổi mới đó sao!
Nhìn nhận như vậy, thách thức sẽ là cơ hội để đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới: Nhà nước chủ động đẩy mạnh tiến trình này song song với tiếp nhận và phát huy sáng kiến của nhân dân, của cộng đồng doanh nghiệp, tạo cái nhìn hệ thống và cách làm đồng bộ, mới nâng cao hiệu quả của các chính sách kinh tế. .
"Cái khó ló cái khôn" câu nói dân gian này đã trở thành phương châm hành động của người Việt nghìn đời nay, nó cũng thể hiện bản lĩnh Việt.
Phương Loan (VNN)
-
06-02-2009 11:01 AM #75
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Thứ Sáu, 06/02/2009,10:45
Ngoại trưởng Mỹ viếng thăm Indonesia
TPO - Tân Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã chọn
Indonesia chochuyến công du nước ngoài đầu tiênvới mụcđích“vươn tới
thế giới Hồi giáo" – một phát ngôn viên cho biết hôm qua 5/2.
[table]
Tân Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton
[/table]Indonesia
là “một quốc gia quan trọng đối với Mỹ”,là nước có tỉ lệ người Hồi
giáo trong nước cao nhất thế giới – phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Robert
Woodtrả lời các phóng viên về câu hỏi tại sao bà Hillary đưa Indonesia
vào chuyến viếng thăm châu Á.
Wood cho biết, bà Clinton sẽ gặp gỡ các quan chức cao
cấp Indonesia tại Jakarta để thảo luận về “mối quan hệ gắn bó và đang
phát triển với Indonesia, cũng như các triển vọng sắp tới dựa trên
quyền lợi chung ở Đông Nam Á”.
Chuyến thăm dựkiến diễn ra trong 2 ngày 18-19/2, ngay sau khi Ngoại trưởng Mỹghé thăm Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Trong diễn văn nhậm chức hôm 20/1, Tổng thốngObama
nguyện sẽ tìm kiếm “một cách mới để"gặp" thế giới Hồi giáo, dựa trên
lợi ích và sự tôn trọng lẫn nhau”, sau 8 năm quan hệ khó khăn dưới thời
người tiền nhiệm George W. Bush.
Trước những thách thức hết sức khó khăn từ khắp thế
giới Hồi giáo - từ các vùng lãnh thổ của Palestine cho đến Iran, Iraq,
Afghanistan và Pakistan – Obama đã đưa ra một giọng điệu mới, hứa
hẹnvề mộtthế cân bằng mới trong việc sử dụng các quyền lực ngoại
giao, quân sự và các hình thức khác.
Sau khi đắc cử hôm 4/1, ông Obama hứa hẹn sẽ đọc một
bài diễn văn quan trọng tại một thủ đô Hồi giáo, nhưng ông Wood không
trả lời trực tiếp các nhà báo khi được hỏi, liệu chuyến thăm củabà
Clinton có phải là bướcchuẩn bịcho một cuộc viếng thăm Indonesia của
ông Obama hay không.
Indonesia là nơi ông Obama đã trải qua một phần quãng đời thơ ấu với mẹ (người Mỹ) và cha dượng (người Indonesia).
Quốc gia 200 triệu dân này đã có mối quan hệ yêu-ghét
với Mỹ từ những năm 1960, khi Mỹ ủng hộ nhà độc tài quân sự Suharto (bị
lật đổ năm 1998).
Nhiều người Indonesia đã phản đối “cuộc chiến chống
khủng bố” của ông Bush và các cách tiếp cận của Bush đối với các quan
hệ ngoại giao. Và giờđây, họ đang hy vọng ông Obama sẽ mang lại
mộtcách thức mới,dựa trên đối thoại và sự hiểubiết lẫn nhau.
Wood ít tiết lộ chi tiết về cuộc thảo luận của bà
Clinton ở Indonesia, nhưng nói rằng trong các chuyến viếng thăm Châu Á,
bà sẽ thảo luận về “những cách tiếp cận chung” đối với các thách thức
như: sự rối loạn của các thị trường tài chính, các vấn đề nhân đạo, an
ninh và sự biến đổi khí hậu.
Ông nói thêm là bà Clinton chọn châu Á trong chuyến
công du đầu tiên của mình là “một dấu hiệu hết sức to lớn về tầm quan
trọng của châu Á đối với chính sách đối ngoại (của Mỹ)”.
Nguyễn Nga
Theo AFP
-
06-02-2009 11:19 AM #76
Re: Index_lượm lặt đầu năm
[quote user="potay_cum"]
Quốc tế
Thứ hai, 02/02/2009 | 22:09GMT+7 by VĂN ANH báo NLD
Phạm nhiều tội ác ..ISRAEL BƯNG BÍT THÔNG TIN
Người dân Israel được xem gì?
Israel kiểm soát báo chí khắc nghiệt với trình độ chuyên nghiệp cao hơn bất cứ nước nào. Các phương tiện truyền thông Israel trở nên ngoan ngoãn một cách lạ thường mặc dù có những quan điểm khác biệt trong giới báo chí Israel về cách đối phó với báo chí của chính quyền Israel
[/quote]
ISRAEL : Không chính nghĩa...khó vững bền [table] Israel thừa nhận sát hại 3 bé gái tại Gaza |
Cập nhật lúc 10h37", ngày 05/02/2009 -
|
[table]
[table]
|
Bác sĩ Aboul Aish -Ảnh: Reuters
[/table]
|
[/table]
(VnMedia)
– Hôm qua (4/2), Israel thừa nhận rằng đạn pháo từ một trong các xe
tăng của quân độinước nàyđã sát hại 3 bé gái người Palestine trong
những ngày cuối cùng củachiến dịch quân sự ở Gaza. Tuy nhiên,
Israelbiện minhrằng hành độngcủa họlà “có lý do”.
Các
cuộc điều tra của Quân đội Israel (IDF) cho thấy hai quả đạn pháo đã
được bắn vàonhà của bác sĩ Aboul Aish vào ngày 16/2, khiến cho ba
người con gái củaông bị chết tại chỗ.
Bản thông báo của IDF có
đoạn: “IDF đã tiến hành điều tra vụ việc ở nhiều cấp độ. Kết luận cuối
cùng cho thấy hai quả đạn pháo đã bắn trúng vào căn hộ của ông Aboul
Aish và khiếncác con của ông thiệt mạng”.
Đây là kết luận đầu
tiên trong số 4 cuộc điều tra đang được tiến hành trước những cáo buộc
IDF giết hại thường dân tại Gaza. Con số thường dân thiệt mạng trong
cuộc chiến vừa qua ở mức 700 người trong tổng số 1.300 người bị giết.
Cộng
đồng quốc tế đã lên tiếng phản đối mạnh mẽvụ Israel tấn công vào nơi
trú ẩn của hơn 40 người Palestine tại một trường học của Liên Hợp Quốc
vào ngày 6/1. Tuy nhiên, các phương tiện thông tin đại chúng của Israel
lại chú ý nhiều hơn tới những mất mát của bác sĩ Aboul Aish.
Ngay
sau khi xảy ra sự việc, nhiều người Israel theo dõi kênh truyền hình 10
đã vô cùng xúc động khi trực tiếp được nghe tiếng kêu khóc thảm thiết
trong bản tin buổi chiều khi vị bác sĩ này gọi điện cho một phóng viên.
Ngay cả Thủ tướng Israel Ehud Olmert cũng đã phải gạt nước mắt khi nghe
tiếng kêu khóc của người cha này khi mất những đứa con thân yêu.
Bác sĩ Aboul Aish nói: “Nhờ chúa, sự thật đã được phanh phui”.
Cũng
trong thông báo trên, Israel biện bạch rằng cácbinh línhcủa Israel
đang làm nhiệm vụ tạikhu vực đông dân cư gần nhà của vị bác sĩ này
vàphát hiện thấy các chiến binh trên nóc củangôi nhà. Vị chỉ huy lực
lượng IDF tại đây đã ra lệnh khai hoả. Sau đó, nhiều tiếng than khóc đã
vang lên và IDF ngay lập tức ngừng các cuộc bắn phá.
Tuy nhiên,
IDF cho biết nhiều ngày trước khi xảy ra sựviệc trên, các sĩ quan của
IDF đã nhiều lần liên hệ với ông Aboul Aish, yêu cầu sơ tán khỏi căn
nhà ông đang ở. Người dân sống trong khu vực này đã phớt lờ hàng ngàn
lời cảnh báo sơ tán của IDF.
Thông báo của IDF khẳng định: “IDF
rất lấy làm tiếc về việc gây ra những thiệt hại đối với gia đình ông
Aboul Aish. Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh căng thẳng của chiến tranh,
hành động của IDF và quyết định bắn vàonhàông Aboul Aish là hợp lý”.
An Khanh - (Theo Reuters)
[/table]
-
06-02-2009 04:08 PM #77
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Opama..đầu ko xuôi ...đuôi có lọt ??
.............................
Thêm 1 ứng viên Bộ trưởng Mỹ “trục trặc” vì thuế
[h1](NLĐO)- Ủy ban Lao động của Thượng viện Mỹ ngày 5-2 đã
bất ngờ hoãn bỏ phiếu thông qua sự đề cử của Tổng thống Barack Obama
đối với Hạ nghị sỹ bang California Hilda Solis cho chức vụ Bộ trưởng
Lao động.[/h1]
> Obama cắt bớt lương của giám đốc
> Các thống đốc Cộng hòa ủng hộ Tổng thống Obama
Nguyên nhân là do có các tin tức cho rằng chồng của bà Hilda Solis đã gặp một số vấn đề về thuế.
Bà Hilda Solis
Tuyên bố chung của Chủ tịch Ủy ban Lao động của Thượng viện và các
nghị sĩ chủ chốt của **** Cộng hòa nêu rõ việc hoãn bỏ phiếu là nhằm
"giúp các thành viên của ủy ban này có thêm thời gian để xem xét lại
tài liệu được đệ trình". Bà Hilda Solis vẫn còn cơ hội vượt qua cuộc bỏ
phiếu nói trên.
Theo TTXVN, quá trình hoàn thiện nội các của
ông Obama đã gặp nhiều trắc trở khi tính cho đến thời điểm này đã có ba
trường hợp tự nguyện rút khỏi các chức vụ đề cử vì liên quan vấn đề
thuế hay các cuộc điều tra.
Đó là trường hợp của ông Tom Daschle đã xin rút khỏi đề cử làm Bộ
trưởng Y tế và Dịch vụ con người vì cho rằng không đủ uy tín trước Quốc
hội và người dân Mỹ để lãnh đạo một bộ của liên bang do những sai sót
dẫn đến việc ông thiếu khoảng 140.000 USD tiền thuế.
Trong khi đó, bà Nancy Killefer cũng quyết định rút khỏi đề cử của
tân Tổng thống Obama vào chức phụ trách Văn phòng quản lý ngân sách
(trực thuộc Văn phòng điều hành của Tổng thống) sau khi bị phát giác
không trả 946,69 USD tiền thuế đền bù thất nghiệp cho người giúp việc
trong năm 2005.
Còn ứng cử viên Bill Richardson cho chức Bộ trưởng Thương mại đã xin
rút khỏi đề cử do có dính líu tới một cuộc điều tra của chính phủ.
B.T.N
-
07-02-2009 12:28 PM #78
Re: Index_lượm lặt đầu năm
[table] 0,5% và 24%: Những con số tội lỗi |
07/02/2009 08:24 (GMT + 7) |
(TuanVietNam) -
Tại sao những câu chuyện như thế này cứ nối tiếp xảy ra trong xã hội
chúng ta? Và đến bao giờ người dân Việt Nam với tư cách là người tiêu
dùng được đối xử một cách có trách nhiệm của nhà sản xuất và được các
cơ quan công quyền bảo vệ hữu hiệu?
|
Trong
khi dư âm về cơn bão sữa nhiễm Melamine vẫn chưa làm cho người tiêu
dùng hoàn hồn và những bệnh nhi do dùng sữa có độc chất Melamine còn
chưa thể lành bệnh thì thông tin về một số sản phẩm sữa bột lưu hành
tại thị trường trong nước có hàm lượng chất đạm ghi trên nhãn mác và
thực chất cách xa nhau đến ngờ vực, khiến dư luận lại một lần nữa bức
xúc và người tiêu dùng lại tiếp tục hoang mang, lo lắng đến hoảng hốt.
Câu hỏi đặt ra là tại sao những
câu chuyện như thế này cứ nối tiếp xảy ra trong xã hội chúng ta? Và đến
bao giờ người dân Việt Nam với tư cách là người tiêu dùng được đối xử
một cách có trách nhiệm của nhà sản xuất và được các cơ quan công quyền
bảo vệ hữu hiệu? Đến bao giờ những đồ ăn, uống của con người được kiểm
soát một cách tin cậy? [table]
Theo công bố trên bao bì, sản phẩm sữa Sepalac có hàm lượng đạm 18% nhưng theo kết quả kiểm nghiệm chỉ 13,3%. Ảnh: Tuổi trẻ
[/table]
Có phải là tội ác?
Trong lịch sử phát triển của nhân
loại ngay từ lúc sơ khai với thiết chế cộng đồng, xã hội còn mông muội
thì người ta đã không khoan nhượng với tội ác, có nhiều loại tội ác do
đồng loại gây ra cho nhau, nhưng có một loại tội ác mà bất cứ thời kỳ
nào, bất cứ xã hội nào, bất cứ dân tộc và quốc gia nào đều không dung
thứ đó là tội giết người.
Tội ác này, ngày nay hầu hết các
quốc gia vẫn đang áp dụng biện pháp trừng phạt là tử hình. Không phải
là chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu tội phạm, nhưng tôi nghĩ để hủy
diệt con người chung quy người ta chỉ có thể dùng những cách: Gây tác
động lên cơ thể bằng ngoại lực thông qua cái gọi là vũ khí hay công cụ
khác; Đưa vào cơ thể độc chất bằng biện pháp cưỡng bức hay vô tình cho
tiếp xúc với chất phóng xạ, bằng biện pháp tiêm, truyền và phổ thông
nhất, dễ thực hiện nhất chính là qua con đường ăn, uống.
[table]
TIN LIÊN QUAN
Gần 100% mẫu sữa ở TP.HCM có hàm lượng đạm thấp
Sữa: quảng cáo 24% đạm, thực tế chỉ 0,5%
Cấm vĩnh viễn sữa "quảng cáo một đằng, chất lượng một nẻo"
[/table]
Các phương tiện truyền thông ở nước ta liên tục nóng
bỏng bởi những thông tin liên quan đến độc chất có trong thực phẩm là
thứ vốn để nuôi sống và phát triển con người về thể chất và trí tuệ.
Trong vụ phát hiện hàm lượng đạm trong sữa thấp quá mức cho phép và sai
số đến không thể tưởng tượng so với số liệu ghi trên bao bì đã được các
chuyên gia về dinh dưỡng coi đó là hàng giả, thậm chí họ xem nó còn tác
hại cho sức khỏe hơn là sữa nhiễm Melamine.
Thực tế nhiều trẻ
em đã sinh bệnh vì uống loại sữa này. Đấy là chưa có nghiên cứu hay
điều tra một cách nghiêm túc về sự suy mòn cơ thể, sự thiểu năng trí
tuệ trẻ em trường diễn nếu các bà mẹ tin vào nhà sản xuất, tin vào sự
kiểm soát của Nhà nước mà cứ cho con mình uống sữa này hàng ngày và yên
tâm rằng con mình đã đủ dưỡng chất.
Xét trên bình diện tội phạm, sự
việc này có thể nói là hành vi hủy hoại sự sống của con người một cách
từ từ. Nó phải được gọi tên là một tội ác.
Đã đến lúc không thể trông chờ vào lương tri
Từ lâu lắm, lý thuyết biện chứng
đã chỉ ra, vì lợi nhuận cho dù treo cổ người ta vẫn làm. Đất nước ta
chọn nền kinh tế thị trường làm con đường phát triển, bên cạnh những
mặt tích cực do nó tạo ra về tốc độ tăng trưởng kinh tế, về giải quyết
việc làm, về nâng cao thu nhập, về cải thiện đời sống nhân dân thì mặt
trái của nền kinh tế thị trường cũng đã bộc lộ rõ rệt trong suốt mấy
thập niên qua mà điển hình nhất là sự suy mòn đạo đức trong sản xuất,
kinh doanh, là mầm mống và hành vi tội ác có xu hướng ngày một phát
triển, tăng cao.
Đành rằng, qui luật 2 mặt của một
vấn đề là thứ con người phải chấp nhận nhưng bổn phận của các thiết chế
cộng đồng - xã hội, của luật pháp là phải quyết liệt tuyên chiến, phải
trừng phạt, phải loại bỏ những loại tội ác đó bằng cách tạo ra một bộ
máy với những công cụ hiệu quả, đủ mạnh để kiềm chế và triệt tiêu nó.
Tôi cứ loay hoay tự lý giải rằng
tại sao xã hội chúng ta không làm được, và làm tốt nhiệm vụ này? Phải
chăng chúng ta thiếu tiền, thiếu phương tiện, trình độ của chúng ta
không đủ, chúng ta chưa có cơ chế kiểm soát phù hợp để tội ác có điều
kiện nảy nở? Hay tại những con người, những tổ chức, những cơ quan công
quyền có trách nhiệm lơ là chức phận? Hay tại những cơ cấu ấy có vấn đề
về lương tâm để biết mà làm ngơ, thậm chí tiếp tay cho những hành động
tội ác đó được tồn tại?
“Tháng 10-2008, sau khi có
kết quả kiểm nghiệm từ Quatest 3, Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu
dùng đã gửi kết quả kèm văn bản cho ba bộ Công thương, Y tế và Khoa học
- công nghệ, đề nghị các bộ kiểm tra các chỉ tiêu dinh dưỡng thực tế so
với nhãn hàng hóa, công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng, Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng sẵn sàng phối hợp lấy
mẫu, gửi kiểm nghiệm sản phẩm một cách khách quan, nhanh chóng. Tuy
nhiên, đến nay chỉ có Bộ Công thương có văn bản phản hồi, còn Bộ Y tế
và Khoa học - công nghệ hoàn toàn im hơi lặng tiếng!” (Theo Tuổi trẻ 5/2/2009).
Thông tin trên đây, làm cho chúng
ta, những người tiêu dùng đơn độc và yếu đuối phải nghĩ thế nào về
những cơ quan có trách nhiệm đang tồn tại bằng tiền thuế do nhân dân
đóng góp? Đã đến lúc, chúng ta những người tiêu dùng không thể cứ lặng
lẽ, cứ cam chịu những hiểm họa liên tục giáng xuống đầu, chúng ta cần
lên tiếng mạnh mẽ, cần có thái độ đấu tranh, đối đầu với những hành vi
tội ác trong kinh doanh và chúng ta cũng cần bày tỏ yêu cầu chính đáng
hay nói rõ hơn là quyền được bảo vệ từ các tổ chức và các cơ quan công
quyền.
Không có lý do nào để tiếp tục
trì hoãn những biện pháp cải tổ cần thiết để kiểm soát, ngăn chặn,
trừng phạt những hành vi tội ác đặc biệt là tội ác hàng ngày đang âm
thầm hủy hoại con người thông qua đồ ăn thức uống nhiễm độc và giả dối.
Không có lý do gì nhân dân là
những người tiêu dùng vốn là trung tâm của nền kinh tế xã hội không
được thụ hưởng một thiết chế trong đó có tiếng nói và hành động của
mình để bảo vệ cuộc sống của chính mình.
Trong lĩnh vực ATVSTP, không còn
sớm để Nhà nước đưa ra cơ chế để xã hội tham gia, để người dân được
quyền kiểm soát và trừng phạt những hành vi tội ác. Đã đến lúc Nhà nước
và cả xã hội không thể tin và không thể trông chờ vào lương tri của nhà
sản xuất, kinh doanh nữa.
[*]
BS. Minh Tân[/list][/table]
-
07-02-2009 12:31 PM #79
Re: Index_lượm lặt đầu năm
VID, PET và PVE công bố kết quả kinh doanh năm 2008
N.ANH
05/02/2009 13:34 (GMT+7)
Lợi nhuận sau thuế trong quý 4 của VID đạt 9,57 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 26,7 tỷ đồng.
L
Công ty Cổ phần Giấy Viễn Đông (VID-HOSE) và Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Tổng hợp Dầu khí (PET-HOSE) và Công ty cổ phần Tư vấn đầu tư và Thiết kế dầu khí (PVE-HASTC) công bố kết quả kinh doanh quý 4 và lũy kế năm 2008.
Cụ thể, doanh thu quý 4 của VID đạt 156 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 555 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 4 đạt 9,57 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 26,7 tỷ đồng.
Trong khi đó, PET công bố doanh thu quý 4 đạt 1.129 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 5.441 tỷ đồng.
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong quý 4 lỗ 7,33 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 74,435 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 4 đạt 4,7 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 86,78 tỷ đồng.
Theo giải trình của PET, chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế quý 4/2008 giảm 73,9% so với quý 3 là do suy thoái kinh tế làm cho sức tiêu thụ các mặt hàng giảm; công ty trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán.
Bên cạnh đó, PVE công bố doanh thu trong quý 4 đạt 37,55 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 185 tỷ đồng.
Lợi nhuận sau thuế trong quý 4 đạt 2,6 tỷ đồng; lũy kế năm 2008 đạt 9,36 tỷ đồng. Lãi cơ bản trên mỗi cổ phiếu (EPS) năm 2008 đạt 2.674 đồng.
-
07-02-2009 12:36 PM #80
Re: Index_lượm lặt đầu năm
Ông Vũ Bằng : “Chứng khoán năm nay có giảm cũng không quá lớn”
MINH ĐỨC
05/02/2009 10:09 (GMT+7)
Khởi đầu năm 2009, thị trường chứng khoán trong nước tiếp tục đà sụt giảm, gây nhiều tâm lý lo ngại.
Nhận định về những diễn biến xấu nhất có thể xẩy ra với thị trường trong năm nay, ông Vũ Bằng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, nói:
Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã lan rộng ở các nước. Với Việt Nam, những ảnh hưởng diễn ra chậm hơn. Nó ảnh hưởng đến nhiều mặt, đến xuất khẩu, nhập khẩu, dòng vốn đầu tư, đầu ra của các doanh nghiệp…, từ đó sẽ tác động trở lại đối với các tổ chức tài chính ngân hàng, trong đó có các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán.
Trong bối cảnh đó, vấn đề quan trọng nhất đặt ra là ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ cũng đã đề xuất những giải pháp cơ bản, ổn định vĩ mô, tăng cung, kích cầu, đảm bảo an sinh xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế. Những giải pháp đó cũng đã bắt đầu phát huy hiệu quả. Khi kinh tế vĩ mô ổn định thì sẽ hỗ trợ cho thị trường chứng khoán.
Trong tháng đầu năm, thứ nhất, những diễn biến trên thị trường thế giới vẫn có những ảnh hưởng đối với tâm lý nhà đầu tư. Thứ hai, nhà đầu tư đang nghe ngóng, chờ đợi kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niên yết. Một số báo cáo tài chính quý 4/2008 mới đây không được tốt cũng tác động đến thị trường.
Tôi cho rằng trong năm nay nếu thị trường tiếp tục sụt giảm thì cũng không quá lớn như trong năm 2008. Chúng ta đã trải qua những sự sụt giảm rất lớn, sức bền bỉ cũng rất cao. Và nay trong sự điều chỉnh của thị trường cũng có những cơ hội để chúng ta đầu tư, phát triển.
Hiện nay cũng có những so sánh về P/E của Việt Nam với các nước, nhưng tôi nghĩ đó cũng chỉ là tương đối thôi. Việc đánh giá P/E nhiều cái cũng khác nhau. Chúng tôi nghĩ Việt Nam là một thị trường trẻ, nền kinh tế trẻ và nhiều cơ hội phát triển. Các nước khác già cỗi, cung - cầu bão hòa, nhu cầu về cơ sở hạ tầng, nhà ở, đường xá…, kinh tế họ đã khai phá, phát triển cả chiều rộng, chiều sâu rồi. Tôi nghĩ những khó khăn của chúng ta chỉ là tạm thời, chắc chắn sẽ có những thuận lợi.
Theo ông, đâu sẽ là những dấu hiệu cho thấy khả năng hồi phục của nền kinh tế thế giới và trong nước, cũng như ở thị trường chứng khoán?
Theo tôi, dấu hiệu đầu tiên là từ sự hồi phục của kinh tế, thị trường tài chính thế giới. Nếu nền kinh tế và thị trường tài chính thế giới ngừng giai đoạn đi xuống, chuyển sang giai đoạn đi ngang thì đó là tín hiệu tích cực đầu tiên. Sau đó là sự hồi phục của những nền kinh tế trẻ, đặc biệt là khu vực châu Á, từ đó có thể tạo tín hiệu để nền kinh tế Việt Nam hồi phục.
Đối với thị trường chứng khoán, trước mắt chúng tôi vẫn tiếp tục triển khai những giải pháp dài hạn, như tái cấu trúc thị trường, hoàn tất khuôn khổ pháp lý, tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch thông tin, thanh tra giám sát phải làm chặt hơn nữa, nhất là trong bối cảnh thị trường đi xuống…
Còn trong năm này, chúng tôi sẽ tập trung việc nâng cao chất lượng, tiêu chí phát hành, hoạt động tổ chức kinh doanh. Trước mắt là tập trung các giải pháp hỗ trợ thị trường, tháo gỡ những khó khăn đối với các tổ chức tài chính tham gia, các công ty chứng khoán, các công ty niêm yết để làm sao tránh gây tác động dây chuyền chung đến thị trường và nền kinh tế.
Khó khăn thì thua lỗ là thường
Về kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết, tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán trong năm 2008, ông có ý kiến gì không?
Tôi nghĩ là khó khăn của các doanh nghiệp niêm yết là chắc chắn xẩy ra do khó khăn chung của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chúng tôi nhìn nhận rằng các công ty niêm yết có trình độ quản trị cao hơn, khuôn khổ pháp lý tốt hơn và minh bạch hơn nên tôi nghĩ khả năng chống đỡ tốt hơn nhiều doanh nghiệp khác.
Tôi nghĩ thua lỗ trong bối cảnh khó khăn đó là bình thường, vấn đề là các công ty có chiến lược vượt qua khó khăn, từ đó tạo ra cấu trúc mới để hoạt động tốt hơn.
Đối với hoạt động của các công ty chứng khoán cũng vậy thôi. Việc thâu tóm, sáp nhập trong bối cảnh hiện nay cũng là bình thường. Chính trong những điều chỉnh như vậy thì khối kinh doanh sẽ mạnh hơn, tốt hơn trước đây.
Ông có thể cho biết Ủy ban đã có sự chuẩn bị như thế nào cho sự sáp nhập, phá sản đối với các công ty chứng khoán chưa nếu có trường hợp xẩy ra?
Việc này chúng tôi cũng đã bắt đầu chuẩn bị từ tháng 6 năm trước, khi thị trường bắt đầu khó khăn. Chúng tôi đã nghiên cứu trên thực tế, từ ý kiến của một số chuyên gia có kinh nghiệm, nghiên cứu một số thị trường trên thế giới…
Chúng tôi cũng đã chuẩn bị các phương án khác nhau, trong thời gian tới sẽ tập trung vào các điểm, thứ nhất là sớm có thông tư hướng dẫn nghị định về phá sản; lên các phương án xử lý các trường hợp thâu tóm, sáp nhập; Ủy ban sẽ hỗ trợ trong việc tăng vốn, chuyển đổi cơ cấu sở hữu, tái cấu trúc công ty.
Với những nhóm khó khăn, không thể vượt qua được thì chúng tôi cũng nắm bắt, theo sát để lập các đội phản ứng nhanh để khi có vấn đề sẽ xử lý ngay vấn đề tài khoản khách hàng, những khó khăn về tài chính, đưa ra những hướng giải quyết làm sao giảm thiểu tối đa tác động chung đến thị trường. Chúng tôi cũng đã có những bản thảo đầu tiên về các phương án, sẽ tiếp tục hoàn tất.
Đây là vấn đề hết sức mới đối với ngành chứng khoán nên còn có nhiều khó khăn. Chúng tôi sẽ nỗ lực hết sức và hy vọng là sẽ không có những điều xấu nhất xẩy ra.
Không bỏ phương án lập quỹ bình ổn
Xin ông cho biết những dự định sẽ triển khai của Ủy ban trong năm 2009 để hỗ trợ, phát triển thị trường?
Vẫn là tập trung vào các giải pháp dài hạn. Còn những giải pháp trước mắt chủ yếu phụ thuộc và kinh tế vĩ mô.
Cũng có những đề xuất của một số tổ chức quốc tế, trong nước về việc thiết lập một quỹ bình ổn, có nhiều dư luận trao đổi về vấn đề này và chúng tôi không từ bỏ phương án này. Chúng tôi vẫn nghiên cứu, kết hợp với những ý kiến của họ.
Dư luận lo ngại quỹ bình ổn là can thiệp khi thị trường nóng, khi lạnh. Kinh nghiệm một số nước cho thấy người ta lập quỹ bình ổn không phải để thường xuyên can thiệp, mà khi thị trường xuống đáy và có dấu hiệu hồi phục thì người ta huy động vốn từ nước ngoài, từ trong nước để có sức mạnh mua vào để tạo đà cho thị trường đi lên.
Khi thị trường mạnh rồi thì người ta có thể bán ra giải thể quỹ đó, hoặc là chuyển sang cho tư nhân quản lý thông qua việc bán lại phần của Nhà nước trong đó, trở thành quỹ bình thường, chứ không phải là một cái quỹ thường xuyên duy trì, lúc nào cũng can thiệp. Hiện chúng tôi vẫn đang nghiên cứu, không gạt bỏ ý kiến nào.
Trong năm nay, chúng tôi sẽ tập trung nhân lực cho việc tái cấu trúc cơ cấu niêm yết trên hai thị trường, cơ cấu hàng hóa. Sau đó chuyển sang việc tái cấu trúc về sở hữu, mô hình…
Còn về kế hoạch xây dựng và triển khai những sản phẩm, công cụ mới cho thị trường, hỗ trợ và bảo vệ nhà đầu tư, thưa ông?
Việc phát triển các sản phẩm mới không phải bây giờ mới đặt ra. Kể cả lúc thị trường khó khăn trong năm 2000, khi ra đời, nhiều người cũng đã đặt ra vấn đề là cho bán khống, Option, mua bán kỳ hạn, giao dịch ký quỹ… để san đi, bù lại những rủi ro.
Tất nhiên những sản phẩm như vậy nó đều có hai mặt. Vừa qua chúng ta đã chứng kiến việc bán khống gây ra những đổ vỡ tài chính trên thế giới.
Việc thực hiện các sản phẩm mới nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như điều kiện thị trường, trình độ và năng lực tài chính của các tổ chức kinh doanh, khả năng hiểu biết của công chúng, kỹ năng của các tổ chức kinh doanh…
Những điều kiện đó ở Việt Nam hiện nay chưa đẩy đủ, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay tình hình tài chính khó khăn. Cho nên chúng tôi vẫn phải nghiên cứu, đánh giá kỹ các điều kiện để khi đưa ra tránh được sự đổ vỡ, vì tính an toàn bền vững của một thị trường còn non trẻ vẫn là yêu cầu cao.
Năm nay chúng tôi tập trung nghiên cứu cho sản phẩm repo, cho vay ký quỹ, chứ chưa giao dịch bán khống, giao dịch ký quỹ. Tất nhiên chưa triển khai không có nghĩa là chúng ta loại trừ, nhưng yêu cầu đầu tiên vẫn phải là tính an toàn và bền vững của thị trường.
Doanh nghiệp "cấp thấp" sẽ bị chuyển sàn
Gần đây nhà đầu tư quan tâm đến yêu cầu chuyển sàn của các doanh nghiệp theo điều kiện niêm yết. Xin ông cho biết thông tin định hướng về kế hoạch này?
Việc chuyển sàn theo quy định của văn bản pháp lý là Bộ Tài chính chỉ đạo phải thực thi. Hiện nay trong quy định pháp lý hiện hành, chúng ta quy định mức tối thiểu tại sàn Tp.HCM, tại Hà Nội.
Theo thông lệ quốc tế, người ta quy định mức tối thiểu của thị trường cấp cao, của thị trường cấp thấp. Tất nhiên có những trường hợp vào thị trường cấp thấp nhưng vẫn có đủ điều kiện vào thị trường cấp cao. Nhưng nhìn chung ở thế giới, anh đủ điều kiện vào thị trường cao thì anh vào, vì nó là thị trường khẳng định uy tín, chất lượng cao hơn. Sự phân loại của nó là rất tự nhiên.
Ở Việt Nam, thời gian qua có những trường hợp vẫn đủ tiêu chuẩn lên sàn Tp.HCM nhưng vẫn vào Hà Nội. Tất nhiên, qua quá trình vào Hà Nội và làm quen dần và sau đó chuyển dần vào Tp.HCM cũng là một bước đi mà tôi nghĩ là tốt. Và lẫn những anh tốt vào những anh cấp thấp thì không ảnh hưởng bằng những anh thấp mà lẫn vào những anh cao.
Thị trường Tp.HCM là thị trường của cả nước, thị trường liên kết khu vực, dẫn dắt chung nên cần phải khẳng định là những tổ chức chất lượng cao.
Trên quan điểm như vậy thì chúng tôi xác định, trước mắt, do quy định của văn bản pháp lý hiện hành, là sẽ chuyển những anh không đủ điều kiện tại Tp.HCM ra Hà Nội, nhưng có lộ trình. Tức là những anh ở mức thấp mà không có khả năng thu xếp được vốn thì chuyển ngay ra Hà Nội, những anh cao hơn thì cho một thời gian để tiếp tục tái cấu trúc.
Với nhà đầu tư, đầu năm mới ông có khuyến nghị gì không?
Đầu tiên chúng tôi rất cảm ơn các thành viên thị trường, các nhà đầu tư. Trong năm qua rất biến động, hết sức khó khăn, các nhà đầu tư và các thành viên thị trường đã phối hợp chặt chẽ, bền bỉ vượt qua khó khăn.
Đối với năm 2009, vẫn còn những khó khăn, thách thức lớn. Các nhà đầu tư, các tổ chức cần nhận định, đánh giá đúng tình hình thị trường, có chiến lược đầu tư thích hợp và chúng ta cần có niềm tin vào cơ hội trong tương lai, tiếp tục đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế, thu được nhiều hơn lợi ích từ thị trường này.
....................Ý KIẾN BẠN ĐỌC VỀ CHỦ ĐỀ NÀY(Các
ý kiến bạn đọc được đăng tải không nhất thiết phản ánh quan điểm của
Tòa soạn. VnEconomy có thể biên tập lại ý kiến của bạn nếu cần thiết.)[table] Luc06/02/2009 14:08 (GMT+7)Câu
nói của ông Vũ Bằng không hay, nhưng rõ ràng là sát với thực tế. Bây
giờ làm gì có những câu của các quan chức đại loại như "Nếu có tiền tôi
sẽ đầu tư vào chứng khoán lúc này!".
Đã vào sân chơi là phải có bản lĩnh và biết chấp nhận thực tế. Nói như vậy theo tôi là lạc quan lắm rồi!
Uyen05/02/2009 22:22 (GMT+7)Đây
chỉ là giai đoạn suy giảm chung của toàn bộ nền kinh tế cả thế giới
cũng như Việt Nam, khi đã tham gia vào sân chơi toàn cầu thì phải chấp
nhận, những chính sách Nhà nước đưa ra đang có tác dụng tốt.
Những công ty nào tiếp tục làm ăn có lãi trong 2009 sẽ là những
công ty khẳng định được vị trí thương hiệu, khả năng quản trị. Về thị
trường nói chung, có thể sẽ hồi phục được vào 2010 khi các chính sách
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước phát huy tác dụng.
Tuy thị trường chứng khoán là kênh dẫn vốn quan trọng trong nền
kinh tế, nhưng với mức lãi suất như hiện tại các doanh nghiệp vẫn không
hẳn thiếu vốn để đầu tư. Chủ yếu là vấn đề đầu tư vào đâu khi cầu trong
năm 2009 được nhiều chuyên gia nhận định là sẽ giảm, việc tạo ra sự
khác biệt sẽ phát huy tác dụng với các doanh nghiệp có đội ngũ quản trị
nhạy bén, tinh tế.
Bang Ecoy05/02/2009 15:40 (GMT+7)Ông
chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước, người quan trọng nhất của thị
trường mà lại phán câu này thì các cuộc IPO sắp tới làm sao thực hiện
đây!
Không biết các nhà đầu tư khác nghĩ sao chứ thị trường chứng khoán
là thị trường của niềm tin, nó hết sức nhạy cảm vậy mà ông Chủ tịch lại
đưa ra dự báo như vậy thì làm sao thị trường có cơ hội tăng điểm nữa.
Đứng ở góc độ nhà đầu tư thì thắng thua là chuyện bình thường.
Nhưng trách nhiệm của Ủy ban chứng khoán là phải cơ cấu lại thị trường
ngay lập tức, không chậm trễ, áp dụng mạnh các biện pháp hành chính,
kiên quyết xử lý dứt điểm, áp dụng thêm các công cụ quản lý thị trường
kể cả các công cụ phái sinh khi thích hợp.
Các thành viên tạo lập thị trường như các công ty niêm yết và công
ty chứng khoán nào không thực hiện tốt các chỉ đạo của Ủy ban về công
bố thông tin, giao dịch nội gián, chậm trễ thì xử lý thật đích đáng. Có
như thể thị trường mới sớm phục hồi được.
Ocean05/02/2009 15:04 (GMT+7)Đương nhiên là không thể giảm lớn quá lớn được nữa rồi. Có còn thời kỳ "quá nhiều" nữa đâu mà đòi giảm "quá lớn".
Giá mà ngài Chủ tịch "chốt" được câu này vào giờ này năm xưa (2008)
thì nhà đầu tư được nhờ biết mấy. Còn bây giờ dự báo kiểu này thì...
Huynguyen05/02/2009 14:32 (GMT+7)Thị
trường chứng khoán đã xuống tới mức đáy rất thấp. Sẽ không biết là sẽ
phá đáy mới nào nữa. Nên đương nhiên là ''Chứng khoán năm nay có giảm
cũng không quá lớn''.
Minh Hoàng05/02/2009 13:52 (GMT+7)Trách
nhiệm của Ủy ban Chứng khoán là phải cùng các thành viên biến nguy
thành cơ, chứ nói chuyện biết trước là lỗ thì ai còn đầu tư làm gì.
Mới ngày hôm qua thị trường lao dốc thì ông Vũ Bằng nói chuyện biên
độ, hôm nay lại nói thị trường năm nay có giảm cũng không nhiều thì có
khác nào lửa cháy đổ thêm dầu.
Nếu đầu tư chỉ hoà cũng chẳng ai dại gì bỏ tiền chứ nói gì xuống nhiều hay ít.
[/table]
Thông tin của chủ đề
Users Browsing this Thread
Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)
Similar Threads
-
CLB dành cho những người yêu thích PTKT
By stockpro in forum CLB Chứng khoánTrả lời: 39Bài viết cuối: 26-04-2009, 12:10 PM -
Club của những người có sở thích xiên sàn 01 lô
By update in forum CLB Chứng khoánTrả lời: 74Bài viết cuối: 20-06-2008, 09:26 AM -
Dành cho những người đầu tư
By chance in forum CLB Chứng khoánTrả lời: 0Bài viết cuối: 07-04-2008, 09:06 PM -
Câu lạc bộ những người ở Đông Âu về VN đầu tư
By Binla in forum CLB Chứng khoánTrả lời: 79Bài viết cuối: 12-03-2008, 09:15 PM -
Lại là HEV đây ??? Chỉ dành cho những người trong ngành GD và những người hiểu rõ về ngành GD
By thonon20032002 in forum Công ty chiến ở HNXTrả lời: 1Bài viết cuối: 11-12-2007, 01:26 PM
Bookmarks