[table] Bài học sai lầm từ lịch sử của các nhà đầu tư |






09/01/2009 09:47 (GMT + 7)

|






Một năm tài chính đầy vũ bão đã đi qua. Chúng ta đã chứng kiến một năm
gây sốc, nhưng sẽ lại phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi và thách thức
của năm 2009 và các năm sau nữa.

|







Năm
vừa rồi quả là ác mộng đối với nhiều người. Có lẽ người ta thà “nhắm
mắt làm ngơ” còn hơn là phải mở chiếc phong bì báo cáo tài chính hay kế
hoạch nghỉ hưu. Giá trị của TT chứng khoán thế giới đã sụt tới một nửa
và hiện nay đang trượt dưới mức đỉnh điểm tới 30 ngàn tỉ USD.


[table]






Tiết kiệm tiền có còn là việc nên làm, hay đó như là rót tiền vào một hố đen bất tận?
(Ảnh nguồn: Economist.com)


[/table]
Với
những ai chuyên gửi tiền tiết kiệm tại Mỹ và Châu Âu, thập kỉ vừa rồi
sẽ là quãng thời gian u ám và thua thiệt nhất. Trong vòng 10 năm, đi
qua hai đợt cao trào và suy thoái, TT chứng khoán chẳng đem lại cho họ
thêm đồng nào, hoặc là ít hơn trước.

Tỉ lệ lãi suất thấp cũng
làm cho trái phiếu và gửi tiền ngân hàng chẳng còn “hời” như xưa. Nếu
không vì được giảm thuế, giữ tiền dưới gối có khi còn có lợi hơn. Cảm
giác trống rỗng này có lẽ người dân gửi tiền tiết kiệm của Nhật Bản đã
từng hiểu hơn ai hết trong thời kì suy thoái ở đất nước mình.

Những
số liệu của năm nay đủ để khiến người ta thót tim. Tài sản quỹ tương tế
của Mỹ đã giảm 2.4 ngàn tỉ USD – 1/5 giá trị của nó kể từ đầu năm 2008.
Còn ở Anh tình hình cũng không mấy sáng sủa hơn, sụt hơn 25%, tức là
khoảng 195 tỉ USD. Nhìn tổng thể, TT chứng khoán toàn cầu đã co lại
khoảng 30 ngàn tỉ USD, gần như một nửa giá trị.

Tin xấu này
không chỉ giáng vào chứng khoán liên quan đến tín dụng – nơi khủng
hoảng bắt nguồn, mà còn lẹm cả vào cổ phần. Với việc các nguồn đầu tư
mang tính rủi ro thua lỗ liên tục, việc đa dạng hóa đầu tư để giảm
thiểu rủi ro trong TT gấu cũng chẳng còn mấy tác dụng. Và một nguồn của
cải nữa là nhà đất – niềm hi vọng và quỹ hưu trí của rất nhiều người,
cũng đã mất giá trị.

Vì thế, tiết kiệm tiền có vẻ giống như rót tiền vào một hố đen bất tận.

Giới tiêu dùng Mỹ: Tiêu quá nhiều mà tiết kiệm chẳng bao nhiêu


[table]





Giới tiêu dùng Mỹ có tỉ lệ tiết kiệm thấp nhất so với Anh, Đức và Nhật trong vòng 10 năm trở lại đây. (Nguồn: Economist.com)
[/table]

lẽ đây không phải là thời điểm để lo lắng về tiền tiết kiệm. Thông báo
mới nhất của Phòng nghiên cứu kinh tế quốc gia cho thấy nền kinh tế lớn
nhất thế giới là Hoa Kỳ đã lâm vào suy thoái kể từ tháng 12 năm ngoái.

Các
nền kinh tế Nhật Bản và Tây Âu cũng đã liên tục co hẹp. Nền kinh tế
toàn cầu đang trên đà phát triển nhanh bỗng dưng giảm tốc và tiêu dùng
chuyển từ hào phóng sang tằn tiện. Có lẽ đó là lí do các CP không ngừng
động viên người tiêu dùng tiếp tục mua sắm.

Nhưng điều này
không đúng với tất cả các quốc gia. Trong khi các nước châu Á, và cả
Đức triệt để tiết kiệm tiền, nhưng người dân các nước khác giành quá ít
tiền cho những năm tuổi già.

Chẳng hạn, tỉ lệ tiết kiệm tiền
của các hộ gia đình tại Mỹ (tức tỉ lệ thu nhập sẵn có ngoài tiêu dùng)
ở mức cực thấp, chưa đến 2.5% kể từ năm 1999.

Còn ở Anh, con
số này cũng chỉ vỏn vẹn 3% trong hai năm trở lại đây. Có lẽ hệ thống
tài chính phức tạp đã tạo điều kiện cho Mỹ và Anh “mượn” tiền từ châu Á
để tiêu xài “xả láng”, lại thêm giá địa ốc tăng cao khiến họ càng tự
tin hơn.

Nói theo một cách khác, người Anglo-Saxons không phải
dè xẻn tiêu pha để tiết kiệm cho tương lai, vì những chính sách tiền tệ
lỏng lẻo khuyến khích vay tiền đã đẩy giá nhà và các tài sản khác lên
cao, tạo ra niềm tin ảo là người dân đã tiết kiệm đủ.

Vì thế
đến thời điểm này khi gánh nặng nợ nần dần lộ diện, giá tài sản ngay
lập tức suy sụp và tỉ lệ tiết kiệm tăng vọt lên bởi người tiêu dùng
không muốn, hoặc không có đủ điều kiện để vay tiền nữa.

Đây
quả thật là tin xấu đối với 2 nền kinh tế Anh và Mỹ trong tương lai
gần, nhưng cũng có khả năng là tin tốt về lâu dài, tùy thuộc vào mức độ
tiết kiệm của người dân.

Theo lẽ thường, người ta mua hàng hóa
vào ở giá rẻ và bán ra khi chúng tăng giá. Những người tiết kiệm tiền
lại không coi các tài sản tài chính như là một loại hàng hóa, bởi thế
họ làm hoàn toàn ngược lại. Họ đổ xô vào thị trường vào những năm
1999-2000, khi thị trường ở đỉnh điểm, và khi mọi thứ đang lao xuống
dốc ở mức đáy, họ lại đồng loạt rút ra.

Tất nhiên họ nên rút
chân khỏi thị trường vào năm 2000, khi tỉ lệ giá-thu nhập là ở ngưỡng
cao là 35, và mua vào khi giá cổ phần rất mềm như hiện nay ở ngưỡng 10.
Một nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, khi tỉ lệ giá-thu nhập thấp, lợi
nhuận từ cổ phần trong 10 năm sau đó sẽ là khoảng 8%, và khi tỉ lệ này
tăng cao, lợi nhuận trung bình chỉ là 3%.

Nhưng những thua lỗ
gần đây khiến người ta cẩn trọng hơn. Người ta thà giữ tiền mặt hoặc
các quỹ TT tiền tệ, còn hơn là TT chứng khoán hoặc trái phiếu công ty.
Tiền lãi họ thu được từ tiền tiết kiệm ngày càng thảm hại. Tỉ lệ lãi
suất liên tục rơi, và ngày càng nhiều ngân hàng thông báo về việc cắt
giảm lãi suất.

Người tiết kiệm tiền ban đầu có thể được che
chắn khỏi việc cắt giảm này, bởi các ngân hàng thương mại đang cạnh
tranh gay gắt vì tiền tiết kiệm, nhưng tỉ lệ lãi suất mà nhiều nền kinh
tế đang, hoặc đã trượt dốc tới là 1-2%.


[table]





Nghiên
cứu của công ty Morningstar cho thấy một người Mỹ đầu tư $100/tháng vào
quỹ cổ phần, sau 10 năm chỉ kiếm được $10,932 - thua lỗ $1,068. Nguồn: Economist
[/table]
Lo
ngại và e dè là điều dễ hiểu, sau cơn bão tài chính từ đầu năm nay. TT
chứng khoán và trái phiếu của các công ty có thể trượt giá hơn nữa, đặc
biệt là với những thông tin xám xịt của nền kinh tế mỗi tuần.

Nhưng
điều lạ lùng là trong khi các nhà đầu tư lao vào mua cổ phiếu 9 năm
trước, khi tỉ lệ giá cổ phiếu/lợi nhuận cao gấp 3 lần hiện nay, lại
chính là những người ôm chặt lấy tiền dưới dạng tiền mặt và trái phiếu
ngày hôm nay.

Cách tiếp cận này sẽ là vô vọng với những ai mong
muốn gây dựng quỹ nghỉ hưu khiêm tốn, đặc biệt là trong hoàn cảnh nhân
viên gánh mọi rủi ro đầu tư tại Mỹ.

Tiết kiệm quá ít cùng với
đầu tư sai lầm đang là vấn đề đối với các cá nhân và cả nền kinh tế.
Người tiêu dùng giữ tiền trong ngân hàng, các ngân hàng do dự không
muốn cho vay, các công ty vì thế gặp khó khăn trong việc vay tiền và
gây vốn.

Thử thách của thế hệ


[table]





Khi ngỗng không còn đẻ đủ trứng vàng, khi người ta không có đủ tiền để nghỉ hưu. (Nguồn: Economist.com)
[/table]
Rất
nhiều người – đặc biệt là thế hệ thời bùng nổ dân số giữa năm 1946 và
1964, sẽ nghỉ hưu trong vòng 20 năm tới – sẽ lo lắng không biết có đủ
tiền để sống những năm tuổi già hay không, cho dù họ tiết kiệm nhiều
tiền. Người ta đều tin rằng mình không thể phụ thuộc vào nhà nước, gánh
nặng đổ lên vai người đóng thuế sẽ là quá lớn.

Nhưng nếu các
giá trị tài chính chỉ là một dạng bồi thường từ các tài sản nền kinh tế
sản xuất ra, thì việc lấy tiền nghỉ hưu từ túi của lĩnh vực tư hay công
cũng đâu có giải quyết được vấn đề. Liệu lĩnh vực kinh doanh trong 20
năm tới có tạo đủ thu nhập để trả lãi cổ phần và trái phiếu cho thế hệ
này hay không?

Theo ngôn ngữ của nhân khẩu học, tài sản của
thị trường có thể được coi là mô hình kim tự tháp, và mỗi thế hệ bán số
tiền tiết kiệm tích lũy cho thế hệ sau. Nếu các thế hệ sau đều lớn hơn
thế hệ trước, giá tài sản sẽ cao dần lên. Đó là những gì xảy ra vào thế
kỉ 20.

Thế nhưng thế hệ bùng nổ dân số sẽ phá vỡ quy luật này.
Nếu họ nghỉ hưu vào tuổi 65, họ sẽ bắt đầu bán ra vào năm 2011. Và ngay
cả ở Mỹ, nơi có ít vấn đề dân số hơn Nhật Bản, họ cũng không có đủ
lượng người gửi tiền tiết kiệm để thay thế cho thế hệ này.

Một
số người hi vọng rằng các thị trường mới trỗi dậy sẽ giải quyết vấn đề
này, bằng cách trở thành người mua của các thị trường đã phát triển và
là nguồn thu lợi lớn hơn cho các nhà đầu tư ở các nước giàu, nhưng lý
thuyết này vẫn chưa được chứng minh.

Người Nhật vốn có tiếng là
quốc gia của những người biết tiết kiệm, nhưng điều này từ lâu cũng
không còn như xưa. Mặc dù giới tập đoàn bội thu, nhưng tỉ lệ tiết kiệm
của các hộ gia đình cũng giảm tư 11.3% năm 1998 xuống còn 3% năm ngoái.
Một trong những lí do chính là nền dân số già đang mất mát quá nhiều
qua đầu tư.

Nỗi lo lắng hiện nay là thế hệ bùng nổ dân số ở
châu Âu và Mỹ có khả năng “đi vào vết xe đổ” của Nhật. Họ sẽ phản ứng
với thoái trào kinh tế bằng cách tiết kiệm nhiều hơn, và vì thế khiến
cho khủng hoảng tồi tệ hơn.

Tiền tiết kiệm của họ cũng khó mà
kiếm được lãi suất tương đối nếu họ đầu tư sai lầm. Giữ tiền trong ngân
hàng cho lãi suất chẳng đáng là bao và còn bị xói mòn bởi lạm phát nữa.
Đầu tư vào cổ phiếu và rủi ro là TT chứng khoán đã phát triển sẽ phải
chịu thời kì ngủ đông dài như Nhật Bản.

Tuy nguy hiểm, lựa chọn
thứ hai dường như sáng sủa hơn. Thời điểm các nhà đầu tư nắm lấy rủi ro
tài chính là lúc các tài sản mang tính rủi ro hứa hẹn lợi tức lâu dài
và tương đối, chứ không phải là lúc khoản bù rủi ro ở mức thấp. Đây có
lẽ là lúc con ngỗng đẻ trứng vàng cứu lấy chính mình.

[*]Catherine Trần (Theo The Economist)[/list][/table]