PDA

View Full Version : Phân tích kỹ thuật: Những kinh nghiệm và định hướng trong tương lai



nhuma
05-02-2011, 10:07 AM
(Vietstock) - Phân tích kỹ thuật dù chỉ mới được ứng dụng tại Việt Nam hơn 10 năm, nhưng đã đem lại nhiều kinh nghiệm mới mẻ và thú vị. Chúng ta cùng nhau nhìn lại những kinh nghiệm này, cũng như một số định hướng trong tương lai của loại hình phân tích kỹ thuật.


1. Những kinh nghiệm của quá khứ

Ứng dụng bearish và bullish divergence trong dự báo

Trong giai đoạn đầu năm 2009 đến nay, một kỹ thuật phân tích đã tỏ ra có hiệu quả trong việc dự báo là ứng dụng bearish và bullish divergence. Kể từ đầu năm 2009, Relative Strength Index (RSI) đã xuất hiện 5 lần phân kỳ quan trọng. Dựa vào các tín hiệu này, việc dự báo biến động giá trong một tương lai khá xa là có thể thực hiện được.

http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28306 (http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28306)
Tháng 07/2009, RSI xuất hiện bullish divergence. Khi VN-Index không ngừng tạo đáy thấp hơn thì chỉ số này liên tục tạo ra những đáy cao hơn. Điều này hàm ý lực của thị trường đã bắt đầu có những cải thiện đáng kể dù chỉ số thị trường vẫn đang đi xuống. Kết quả sau đó cho thấy một chu kỳ tăng giá mạnh mẽ và kéo dài suốt 3 tháng.
Trường hợp của tháng 10/2009 thì ngược lại. Hiện tượng “triple bearish divergence” xuất hiện. Không chỉ thiết lập hai đỉnh thấp hơn trong tháng 10/2009 mà RSI còn thiết lập ba đỉnh thấp dần đều nếu xét toàn bộ giai đoạn tháng 08 – 10/2009. Tín hiệu này góp phần khẳng định cho sự kết thúc của sóng Elliott thứ 5 của sóng 1 lớn để bắt đầu bước vào 3 sóng hiệu chỉnh a, b, c của sóng 2 lớn.
Gần đây nhất là giai đoạn giữa tháng 05/2010. Bên cạnh những yếu tố hỗ trợ khác như Fibonacci, SMA (http://finance.vietstock.vn/vi/Stock/SMA), … thì bullish divergence của RSI cũng là một trong những yếu tố quan trọng giúp người phân tích kỹ thuật dự báo đợt tăng giá vừa qua.



Converging zone tạo thành những vùng support và resistance zone đáng tin cậy

Nhiều người thường hiểu converging zone chỉ là sự hội tụ của các ngưỡng Fibonacci nằm ngang, bao gồm Fibonacci Retracement và Fibonacci Projection. Điều này chưa thực sự thể hiện hết ý nghĩa cũng như tác dụng của converging zone.
Hiểu theo quan điểm chính thống, converging zone là vùng mà tại đó có nhiều ngưỡng kháng cự, hỗ trợ cùng hội tụ. Ví dụ, vào tháng 12/2009 khi mà VN-Index trải qua một trong những đợt thoái lùi lớn nhất kể từ sau khủng hoảng. Trong thời gian này, một converging zone được tạo thành bởi trendline dài hạn, Fibonacci Retracement 50.0% và Fibonacci Zones số 8. Cả ba yếu tố này cho chúng ta điểm rơi chiến lược là ngày 16/12/2009. Và những nhà đầu tư mua cổ phiếu vào thời điểm này đã đạt được mức tỷ suất sinh lợi không dưới 10% khi thị trường bùng nổ ngay sau đó.

http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28307 (http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28307)
Hiện tượng pullback và throwdown

Đây có thể coi là hai hiện tượng có tính ứng dụng cao nhất của trendline. Theo đánh giá của chúng tôi, những hiện tượng này sẽ giúp cho các nhà đầu tư thoát khỏi một vị thế mà mình không mong muốn.
Trước hết chúng ta đề cập đến hiện tượng pullback. Đây là hiện tượng xuất hiện khi một ngưỡng chống đỡ mạnh bị phá vỡ. Sau đó, giá sẽ có sự phục hồi nhất định về lại vùng phá vỡ cũ, rồi kể từ đó bắt đầu thoái lùi thực sự. Tính ứng dụng của hiện tượng này là nó có thể giúp những nhà đầu tư đang bị mắc kẹt thoát hàng.

http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28308 (http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28308)
Một trong những ví dụ điển hình trên thị trường chứng khoán Việt Nam là HNX-Index. Vào ngày 25/11/2009, trong một phiên sụt giảm mạnh mẽ của thị trường, giá đã phá vỡ ngưỡng Fibonacci Retracement 61.8%. Tuy nhiên, chỉ sau đó vài phiên giá liền pullback trở lại và những nhà đầu tư đã lỡ mạo hiểm bắt đáy trong các phiên trước có thể thoát hàng an toàn.
Hiện tượng thứ hai là throwdown. Ngược lại với hiện tượng đầu tiên, throwdown chỉ xuất hiện trong các đợt tăng giá lớn. Có thể xem chúng như sự tạm nghỉ của thị trường và tích luỹ cho một chu kỳ tăng tiếp theo.

http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28309 (http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28309)
Chúng ta hãy quan sát đồ thị của VN-Index. Rõ ràng là sau khi phá vỡ đường trendline kháng cự dài hạn, VN-Index đã có một sự thoái lùi đáng kể và test lại đường trendline này. Đây chính là cơ hội để những người đầu tư chậm chân trong các đợt tăng giá trước tham gia vào thị trường.



2. Những định hướng tương lai của Phân tích Kỹ thuật

Tập trung vào chiến lược phản ứng lại với thị trường

Có một xu hướng hết sức mạnh mẽ trong thời gian gần đây, không chỉ ở các thị trường phát triển mà ngay cả ở Việt Nam, là nhiều nhà phân tích kỹ thuật đang ngày càng chú ý hơn đến chiến lược phản ứng lại với thị trường thay vì chỉ đơn thuần dự báo biến động của thị trường.
Ở Việt Nam trong thời gian gần đây chúng ta thường hay nghe những phát biểu như: ”Trong năm nay VN-Index sẽ đạt đến XYZ điểm”. Có thể điều này mang nhiều ý nghĩa, nhưng nhiều nhà đầu tư dường như đang dành sự quan tâm đến chiến lược phản ứng nhiều hơn là những dự báo mang tính may rủi. Điều đó sẽ cho phép họ không gặp phải những bất ngờ quá lớn trong quá trình đầu tư.
Ví dụ, một nhà đầu tư A dự báo rằng thị trường sẽ tăng mạnh trong những tháng cuối năm 2010. Khi đó anh ta sẽ mua tại vùng 470 – 495 điểm để đón đầu cho một chu kỳ mới. Tuy nhiên, nếu là một người chú trọng nhiều hơn đến chiến lược, nhà đầu tư này sẽ phải thiết lập cho mình những điểm xoay chuyển chiến lược chủ yếu, mà tại đó anh ta sẽ có chiến lược hành động cụ thể phù hợp với tình trạng danh mục.
Thay vì chỉ nghĩ đến mỗi việc là thị trường sẽ tăng giá trong dài hạn và buy & hold, nhà đầu tư này sẽ thiết lập cho mình ngưỡng cắt lỗ tại mức 470 điểm. Đồng thời dựa vào các ngưỡng hỗ trợ kỹ thuật mạnh có thể mua vào lại ở vùng 445 – 455 điểm... Nói tóm lại, khi điểm xoay chuyển chiến lược bị phá vỡ, chiến lược sẽ thay đổi.

http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28310 (http://vietstock.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=28310)
Ngày càng định lượng nhiều hơn
Có khá nhiều lời nhận xét từ phía các nhà đầu tư là phân tích kỹ thuật mang nhiều tính chủ quan nên khó ứng dụng một cách rộng rãi. Và dường như bản thân những người phân tích kỹ thuật cũng nhận ra điều này. Vì vậy, ngày càng có nhiều người phân tích kỹ thuật phát triển sâu hơn theo hướng định lượng. Họ thiết lập những mô hình toán học, với những công thức được thiết lập từ trước và những trọng số tính toán đã được cân nhắc kỹ lưỡng.
Tuy nhiên, muốn làm được điều này đòi hỏi người phân tích phải có tư duy logic cũng như sự hiểu biết về bản chất của các công thức khá sâu sắc. Lợi điểm của việc này là nó sẽ giúp loại bỏ tính chủ quan trong phân tích – một nhược điểm mà hầu hết những người phân tích kỹ thuật tại Việt Nam dễ mắc phải.
Cũng chính kỹ thuật này đã mở ra tiền đề cho lĩnh vực phân tích định lượng. Bởi lẽ phân tích định lượng là dựa trên cơ sở phân tích tương quan giữa các chuỗi số liệu dựa trên một trục chính là biến động của thị trường. Loại hình phân tích này của phân tích kỹ thuật sẽ kết hợp với các biến số của cơ bản để đưa ra kết quả dự báo một cách chính xác và khách quan hơn.


Phòng Nghiên cứu Vietstock


http://vietstock.vn/ChannelID/585/Tin-tuc/179772-phan-tich-ky-thuat-nhung-kinh-nghiem-va-dinh-huong-trong-tuong-lai.aspx

tradingpro8x
14-02-2011, 09:49 AM
Nhìn chung trên thế giới có hai cách ứng dụng PTKT: dự đoán (predict) và phản ứng (react). Những nhà kinh doanh thực sự trên thị trường đều đi theo hướng react để tìm kiếm lợi nhuận.

Các bạn nên xác định những điểm xoay chuyển (turning point) để có chuyến lược hợp lý

tigeran
15-02-2011, 09:29 AM
Chẳng hạn sau đây là một cách dùng để react:

Đây có lẽ là thời điểm khá thích hợp để những nhà đầu tư đang có nhiều tiền mặt bắt đầu mua gom cổ phiếu. Việc mua vào trong giai đoạn này theo chúng tôi không gặp nhiều rủi ro ngắn hạn vì giá cổ phiếu ở mức tương đối thấp và các chỉ số đã bắt đầu rơi vào vùng oversold.

Đối với danh mục có tỷ trọng cổ phiếu lớn (trên 80%) có thể xem xét bán ra một phần trong các phiên tới khi thị trường có dấu hiệu rung lắc.

Chúng tôi tiếp tục bảo lưu quan điểm cho rằng một danh mục cân bằng là tích hợp nhất trong giai đoạn hiện nay.

:D:D:D:D:D:D

tradingpro8x
18-02-2011, 09:34 AM
Một số anh em hay thắc mắc là định lượng là cái gì và có khó không thì theo mình được biết nó cũng không khó lắm.

Vì dụ định lượng về mặt kỹ thuật thì là sự kết hợp các nhóm chỉ số như Momentum, Strength, trend-following... Còn định lượng về mặt cơ bản thì là phân tích số liệu từ Ballance Sheet, Income Statement, Cáh Flow Statement...

Còn cách kết hợp thế nào thì là bí kíp riêng của mỗi người rồi. Tuy nhiên, không phải cứ GS hay TS mới làm định lượng được mà anh em ta vẫn làm được như thường thôi :p

tigeran
22-02-2011, 10:17 AM
Mình nghĩ tương lai của PTKT thuộc về các chỉ số. Mọi người cuy71 nhìn sự phát triển của Pattern, Candlesticks.. thì rõ. Hầu như không có bước đột phá nào lớn

Trong khi đó, các chỉ số cứ vài ngày lại có 1 - 2 cái mới rồi. Kinh chưa?

tradingpro8x
24-02-2011, 11:29 AM
Thật ra mình chỉ thấy Phân tích kỹ thuật hiện đại phát triển nhanh hơn Phân tích kỹ thuật cổ điển thôi. Còn cái nào hữu ích hơn thì còn tùy. Chưa thể khẳng định được cái nào hay hơn

Cũng như khi so sánh AmiBroker với MetaStock hay TradeStation thôi

tradingpro8x
10-03-2011, 02:11 PM
Tìm hiểu về Renko, Kagi, Point & Figure...

Theo những tài liệu chuyên khảo thì các phương pháp đầu tư dựa trên các món này BB khó có thể làm giá nhờ vào tính chất dài hơi của nó. Tuy nhiên mình có một vào trao đổi như sau:

- Công cụ càng mang tính dài hạn thì các BBs càng khó làm giá vì thông thường họ sẽ không đủ tiềm lực để làm giá thị trường hay cổ phiếu trong một thời gian quá lâu

- Renko là cách vẽ lại cây nến theo một cách khác. Cách này chỉ dùng cho những nhà đầu tư rất dài hạn vì thời gia có tín hiệu cònirm cho một trend là rất lâu nên cần sự kiên nhẫn rất lớn

- Kagi là cách trading dựa trên những điểm phá vỡ đỉnh đáy trước đó được thể hiện bởi các đường ngang. Điều đó sẽ giúp chúng ta xác định điểm ra vào khá tốt trong suốt một giai đoạn (xem hình minh họa)

http://i1193.photobucket.com/albums/aa345/minhtaiphiet/VN-Index-Kagi.jpg

- Point & Figure cũng có cơ chế tương tự như Kagi nhưng thể hiện kiểu X và O nên sinh động hơn. Mọi người có thể tham khảo cuốn Jeremy du Plessis, The Definitive Guide to Point and Figure, Harriman House LTD, 2009 để rõ hơn

tigeran
02-06-2011, 09:45 AM
Nhìn chung là cần phải tìm hiểm thêm những hệ thống phân tích mới nhưng không nên quá nhiều sẽ loạn chưởng vì có rất nhiều hệ thống mặc dù đơn giảm nhưng vẫn khá hiệu quả trong nhiều năm

tradingpro8x
06-06-2011, 03:46 PM
Phân tích kỹ thuật cần đổi mới là điều hiển nhiên vì không đổi mới sẽ bị loại bỏ nhưng cần phải chạy theo hiệu quả chứ không phải chạy theo phong trào

tigeran
22-06-2011, 08:01 AM
OK sir. Chắc chắn là như thế rồi. Phải dưa hiệu quả lên hàng đầu

tradingpro8x
07-02-2012, 08:23 AM
Ngày nay phân tích kỹ thuật đang dịch chuyển gần lại với Phân tích định lượng vì việc lượng hóa quyết định đầu tư đang ngày trở nên quan trọng hơn

tigeran
25-09-2012, 09:47 AM
John Murphy - Trưởng bộ phận Phân tích kỹ thuật PTKT của Stockcharts.com

Ông đã sử dụng khoảng thời gian 30 năm kinh nghiệm của mình để tạo nên các nguyên tắc cơ bản khi giao dịch bằng PTKT.

http://stockcharts.com/help/data/media/support/john_murphy/john_aboutpage_shot.jpg

John J. Murphy
Chief Technical Analyst, StockCharts.com


Vẽ xu hướng:

Học các đồ thị dài hạn. Bắt đầu vào phân tích đồ thị với các đồ thị tháng và tuần của vài năm. Một bản đồ lớn của thị trường cho thấy rõ hơn viễn cảnh của một thị trường trong dài hạn.

Một khi đã hình thành đồ thị dài hạn, sau đó chúng ta đi sâu vào từng ngày và các chuyển động trong ngày. Chỉ nhìn vào thị trường trong ngắn hạn thường dễ ta nhầm lẫn.

Thậm chí nếu bạn chỉ giao dịch trong ngắn hạn, bạn sẽ làm tốt hơn nếu bạn giao dịch theo cùng hướng của thị trường trong trung và dài hạn.

Đường xu hướng:

Giá thường bị kéo lại gần đường xu hướng, trước khi trở về xu hướng của nó.

Trong xu thế tăng giá, mua khi điều chỉnh giảm; Trong xu thế giảm giá, bán khi tăng bật lên

tradingpro8x
27-09-2012, 08:15 AM
Jesse Livermore - Hoàng tử của Phố Wall

http://www.turtletrader.com/images/livermore.jpg

Ông nghiên cứu những sai lầm đã mắc khiến ông thua lỗ. Bản phân tích chi tiết những lỗi đã mắc giúp ông thành công trên con đường sự nghiệp sau này. Bản phân tích này cũng là một trong những bài học quý báu nhất mà ông đúc kết được.

Ông định nghĩa người đầu cơ phải là người có tính kiên nhẫn và chỉ hành động khi thì trường đưa ra những tín hiệu cho phép đầu cơ.

Kiên nhẫn, nghĩa là chờ đợi thời cơ tốt, là một trong những yếu tố cần thiết đối với một nhà giao dịch cổ phiếu.

Giao dịch hang ngày hoặc hàng tuần là một việc làm của những người thất bại và giao dịch kiểu giao dịch này sẽ khó đạt được thành công.

Trở thành người ngoài cuộc và quan sát bạn có thể nhận thấy rõ những thay đổi trên thị trường hơn là những người ngày nào cũng quan sát từng dao động nhỏ của thị trường.

Mua cổ phiếu khi giá của nó đã vượt qua được mức giá duy trì trong một thời gian dài, là những hành động mà Livermore thường thực hiện.

Cũng giống như cơ thể đang chuyển động, một khi cổ phiếu đã vượt qua được giai đoạn giá giữ nguyên ở một mức thì cổ phiếu này sẽ tiếp tục tăng giá. Livermore tin rằng cổ phiếu đó sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn nữa.

Nếu thị trường không diễn biến theo như những gì ông phán đoán thì ông biết rằng mình đã sai và ngay lập tức ngừng giao dịch.

Không ai có thể coi thị trường là nơi có thể giúp họ kiếm tiền nhanh chóng.

Một cổ phiếu đang lên sẽ có thể tiếp tục tăng giá, nhưng một cổ phiếu xuống dốc có thể sẽ giám giá xuống không?

Chờ đợi để đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn là cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi bạn phải cực kỳ kiên nhẫn.

Livermore đã ngồi trên đống tiền rất lâu trước khi sử dụng chúng đúng lúc, đúng thời điểm.

Sách tham khảo: Chết vì chứng khoán

http://www.mediafire.com/?61p6rj82vavr6ee

tradingpro8x
28-09-2012, 08:30 AM
William J'Oneil - Ông tổ của CANSLIM

http://www.stockmarket-coach.com/images/stock-market-advice-william-oneil.jpg

Bất cứ điều gì cũng cần thời gian học hỏi mới vươn lên đến thành công. Một cầu thủ chuyên nghiệp không thể đào tạo trong vòng 3 tháng, một nhà đầu tư cũng vậy.

Nhiều nhà đầu tư tổ chức thích bắt đáy, tốt hơn bạn nên giữ nguồn vốn tiền mặt và đứng ngoài thị trường cho đến khi nào một giai đoạn tăng trưởng mới thực sự bắt đầu.

Đừng mua cổ phiếu đang rớt giá.

Hãy nhổ hết cỏ ra khỏi vườn hoa của bạn.

Các nhà đầu tư lớn phải bán ra khi có người mua quan tâm chú ý đến cổ phiếu của họ. Do vậy, hãy xem xét bán ra nếu cổ phiếu đang tăng giá mạnh và lại có thêm tin tức tốt hoặc sự quảng bá rầm rộ trên báo chí.

Nếu những nguồn vốn lớn chuyên nghiệp và khôn ngoan đang bán ra, bạn cũng nên làm theo.

Bạn đã có những quy luật bán ra được viết ra giấy và tuân thủ chặt chẽ chưa?

Tất cả mọi cổ phiếu đều mang tính đầu cơ và tiềm ẩn rủi ro. Không có cổ phiếu tốt, tất cả chúng đều tồi, trừ khi chúng lên giá.

Bán ra cắt lỗ và không có ngoại lệ nào cả.

Sách tham khảo: Làm giàu qua chứng khoán

1nightdream
29-09-2012, 05:03 PM
Bernard Baruch - Nhà tài phiệt đầy quyền lực của phố Wall

http://www.geh.org/ne/str085/m198130600015.jpg

Không ai có thể bán được với múc giá cao nhất hoặc mua được với mức giá thấp nhất

Không nhà đầu cơ nào có thể lúc nào cũng đúng. Trong thực tế nếu nhà đầu cơ đúng một nửa trong quãng thời gian giao dịch thì người đó đã đạt mức trung bình tốt. (Ngay cả khi họ đúng 3 hoặc 4 lần trong tổng số 10 lần thì họ đã kiếm được khoản tiền khá lớn nếu họ biết ngừng giao dịch khi thấy mình sai hoặc lo lắng)

Luôn phân tích sai lầm của mình

Không giao dịch mặt hàng không am hiểu

Không giữ cổ phiếu đang bị lỗ và giảm giá

Không bán cổ phiếu đang tăng giá

1nightdream
29-09-2012, 05:06 PM
Gerald M. Loeb - Trader và Nhà môi giới đại tài

https://evbdn.eventbrite.com/s3-s3/eventlogos/11077705/publication1.jpg

Bài học thuộc lòng đầu tiên khi bước chân vào thị trường chứng khoán chưa phải là cách tìm kiếm lợi nhuận mà chính là cách cắt giảm thua lỗ.

Loeb, một nhà đầu tư rất thành công đã khuyên chúng ta: "Hãy cắt giảm sự thua lỗ của bạn một cách nhanh nhất"

(Bạn vừa bán chứng khoán đi thì giá bắt đầu lên trở lại. Bạn sẽ thực sự bị bối rối và cho rằng cắt giảm thua lỗ là một chính sách tồi...)

Bạn phải có khả năng nhanh chóng thoát khỏi tình trạng thua lỗ trong cuộc chiến tồn tại và thành công khi giao dịch cổ phiếu. Loeb nhắc đi nhắc lại nguyên tắc này trong cuốn sách của ông bởi vì ông luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phòng thủ trong trận chiến của một nhà giao dịch cổ phiếu thành công.

Tín hiệu mua tốt nhất là khi cổ phiếu tăng mạnh về số lượng giao dịch và cổ phiếu này đã vượt qua giai đoạn tích lũy.

Ông cho rằng những cổ phiếu đang đạt mức giá cao mới và những cổ phiếu đang trầm lắng khi bắt đầu nhích dần giá và có những tín hiệu lạc quan về số lượng cổ phiếu được giao dịch thường là những cổ phiếu cần được nghiên cứu thêm nữa.

Bạn phải giao dịch phù hợp với những hành động diễn ra trên thị trường, chứ không đơn giản là cách bạn nghĩ thị trường sẽ giao dịch như thế nào.

Loeb tin rằng tốt nhất là không giao dịch gì còn hơn là giao dịch sai lầm khi thị trường có hiện tượng hạ giá. Khi thị trường có hiện tượng hạ giá thì dự trữ tiền là một việc làm cần thiết. Nếu không nó sẽ khiến bạn mất chi phí cơ hội lớn khi không có sẵn lượng tiền mặt để giao dịch khi thị trường tăng giá.

Loeb có thể ngồi trên đống tiền trong một thời gian dài và đợi đúng thời điểm mới giao dịch.

Một trong những sự khác nhau lớn nhất giữa nhà đầu tư cổ phiếu thành công và những người khác là khả năng và nguyên tắc rút khỏi thị trường, khi họ giao dịch không phù hợp với xu hướng thị trường thay vì cố gắng tiếp tục giao dịch trên thị trường nguy hiệm này.

Việc đầu tư toàn bộ thời gian và không ngừng nghiên cứu là những yếu tố cần thiết để thành công trên thị trường.

Sách tham khảo: The Battle for Investment Survival

tradingpro8x
02-10-2012, 11:34 AM
Andre Kostolany - Thiên tài đầu cơ

http://files.doanhnhan360.com/Image.ashx/image=pjpeg/8fb267357fa54a8e84c5f37d6b4d5364-Tien%20bac%20truoc.jpg/Tien%20bac%20truoc.jpg

“Ai nhiều tiền thì có thể đầu cơ, ai ít tiền thì không được phép đầu cơ, ai không có tiền thì phải đầu cơ” - Andre Kostolany.

Nhà đầu cơ hàng đầu thế giới, Andre Kostolany không coi đầu cơ đơn thuần là nghề nghiệp hay nguồn thu nhập. Ông coi đó là sân chơi để bỡn cợt, là sóng bạc để kiếm tiền và tôn thờ nó như nghệ thuật.

Ông cũng không hề cố gắng tạo ra bất kì vòng hào quang hào nhoáng nào để bao bọc cho đam mê kiếm tiền của mình mà tự hào khẳng định rằng: đầu cơ trên thị trường chứng khoán là "kiếm tiền trên nỗi đau của kẻ khác".

Từ khi 13 tuổi cho tới lúc qua đời ở tuổi 93, Kostolany luôn hãnh diện về danh hiệu “nhà đầu cơ”, trong khi kẻ khác nếu bị gọi như vậy thường cảm thấy như thể mình bị thóa mạ.

Khi mới 13 tuổi, Kostolany đã biết mua tiền của nước này để đổi sang tiền của nước khác kiếm lời.

Năm 1924, Kostolany sang Paris với dự định theo học phê bình nghệ thuật. Nhưng kể từ khi nhận ra rằng, có thể dễ dàng kiếm tiền bằng đầu cơ cổ phiếu trên thị trường chứng khoán thì ông mất hết hẳn nhiệt huyết học hành.

Kiếm tiền và làm giàu được Kostolany nâng lên thành lẽ sống. Tiền là tất cả, vì tiền Kostolany sẵn sàng hy sinh tất cả. Đạo đức hay tình nghĩa không khiến Kostolany bận tâm nếu không đem lại tiền của.

“Quan điểm về giá trị của tôi đã thay đổi hoàn toàn. Tôi chỉ còn quan tâm đến tiền”, ông đã nhiều lần tuyên bố như vậy.

Sau khi học lỏm được một vài chiêu của một nhà môi giới chứng khoán rất thành đạt trên Sở giao dịch chứng khoán Paris, Kostolany đăng ký hành nghề môi giới chứng khoán độc lập và dùng mọi mánh khóe để có thể kiếm tiền.

Thậm chí, để tranh thủ khách hàng là những ông chủ ngân hàng người Thụy Sỹ, Kostolany còn đích thân dẫn họ đến nhà thổ ở kinh thành Paris.

Trải qua 2 cuộc chiến tranh thế giới, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 1929 và hàng nghìn biến cố khác ở nhiều quốc gia khác nhau, Kostolany khẳng định: “Thành công trên thị trường chứng khoán là một nghệ thuật, chứ không phải một môn khoa học”.

Trước khi chạy sang Mỹ để trốn chiến tranh thế giới thứ 2, ông đã đạt được những thành công vang dội ở Paris trong khi hàng nghìn người khác lâm vào tình trạng bi đát do cuộc khủng hoảng năm 1929.

Thành tích đầu cơ của Kostolany ở Mỹ vang dội đến mức làm chính nhà đầu cơ này đủ tự tin để mở khóa dạy về kinh doanh và đầu tư chứng khoán.

Kostolany trở thành nhà đầu cơ chứng khoán đầu tiên công khai truyền bá ý tưởng và kinh nghiệm, triết lý và thủ thuật đầu cơ.

Những cuốn sách của Kostolany được hàng nghìn người theo dõi. Những bài bình luận về thị trường chứng khoán của Kostolany trên các báo và tạp chí, đài phát thanh và truyền hình đều được đón nhận và trả giá cao.

Theo Kostolany, nhà đầu cơ muốn thành công phải hội tụ được cả hai tố chất và hai nhân tố. Đó là, ý tưởng và kiên nhẫn, tiền và may mắn.

Những năm tháng cuối đời, Kostolany sống ở Paris với vợ là người Pháp, bị giằng xé giữa lý trí và tình cảm. Ông thổ lộ: “Bi kịch đối với những nhà đầu cơ già như chúng tôi là kinh nghiệm có thừa nhưng không còn đủ can đảm để đầu cơ nữa”.

Ông tự ví mình như một phi công mà theo ông thì có phi công già và phi công quả cảm, nhưng lại không thể có phi công già mà quả cảm.

André Kostolany (9/2/1906 - 14/9/1999) là người Hungary gốc Do thái.

Ông đến Paris vào năm 1927 và bắt đầu thành công kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929

Khi quân Đức chiếm đóng nước Pháp vào năm 1940, ông trốn sang New York.

Từ 1941 - 1950, ông là Tổng giám đốc và chủ tịch của G. Ballai và Công ty tài chính Co.

Từ năm 1950, ông sống chủ yếu ở Paris đồng thời điều hành văn phòng tại Munich.

Kostolany dành phần lớn cuộc sống sau này của ông viết các bài phân tích và tham gia các buổi hội thảo về thị trường chứng khoán ở Đức.

Kostolany đã xuất bản 13 cuốn sách với 3 triệu bản in đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau.

tigeran
03-10-2012, 08:36 AM
John Arnold - “Phù thủy” của giới đầu cơ năng lượng

http://ronenews92fm.files.wordpress.com/2012/05/john-arnold1.jpg

Khi những người khác hoảng loạn, Arnold vẫn rất kiên nhẫn và chờ đợi cho đến thời điểm chín muồi, và phần thưởng cho sự kiên nhẫn là những khoản lợi nhuận cực lớn.

“Hoảng loạn” là từ được mọi người liên tục nhắc đến trước và sau ngày 15/9/2008 - ngày xảy ra vụ sụp đổ của Lehman Brothers. Một năm sau đó, những người đã từng đấu tranh để vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính lại cùng nhau ngồi lại để suy ngẫm về những điều đã xảy ra trong một năm trước đó.

“Đầu cơ không phải là xấu”

Luôn đắn đo từng câu chữ trong giao tiếp, John Arnold ngồi tại một chiếc bàn hội nghị trong tòa nhà chính phủ ở Washington D.C vào tháng 8/2009. Arnold vặn vẹo bàn tay và xoay xoay chiếc nhẫn cưới trong lúc chờ được phát biểu. Anh đổ đầy, và lại đổ đầy cốc nước của mình. Sau đó, anh lại hơi run run trước khi lấy lại được bình tĩnh và trình bày một cách lịch sự về những quy tắc cần thiết trong đầu tư. Đây là một hình ảnh công chúng hiếm gặp đối với ông trùm ngành khí đốt ở tuổi 35.

Cũng là lần Arnold phải ra điều trần trong một buổi chất vấn tại Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Mỹ (CFTC) về việc liệu có hay không bàn tay của các tay đầu cơ trong việc đẩy giá cả hàng hóa, đặc biệt giá năng lượng, ngoài tầm kiểm soát trong thời gian vừa qua.

Giá cả hàng hóa đã có những biến động đặc biệt trong những năm gần đây - phi thẳng lên trời và sau đó đâm sầm xuống - và các nhà làm luật pháp của chính phủ liên bang đang cân nhắc những thay đổi quy luật để kiểm soát các nhà đầu cơ, những người được cho là nguyên nhân gây ra tình trạng giá cả xoay vòng đến chóng mặt.

Arnold bảo với mọi người rằng anh ấy chính là một nhà đầu cơ và đấy không phải là điều xấu, nhưng có thể gọi anh ấy bằng tên gọi gì cũng được, không ai có thể kiếm được lợi nhiều hơn Arnold trên sàn giao dịch khí đốt trong những năm gần đây.

Quỹ đầu cơ Centaurus Energy của Arnold, hiện đang quản lý hơn 5 tỷ USD giá trị tài sản, chưa bao giờ kiếm được lợi nhuận ít hơn 50% trong 7 năm kinh doanh vừa qua. Sự giàu có của Arnold phần lớn có được từ quỹ này, nhờ đó, anh trở thành tỷ phú tự lập trẻ thứ hai ở Mỹ, sau Mark Zuckerberg của Facebook.

Arnold có trí tuệ của một nhà kinh tế, kinh nghiệm của một doanh nhân đã nhiều năm lăn lộn trên thương trường của ngành năng lượng, và hơn hết, anh có một lòng dạ sắt đá của một tay cờ bạc không biết đến chiến bại. Có lẽ, đáng chú ý nhất, chính là năng lực đột phá của Arnold trong việc kiếm được lợi nhuận từ những tình cảnh thảm họa nhất.

Arnold bắt đầu sự nghiệp đầu cơ trên thị trường năng lượng từ năm 20 tuổi tại quỹ Enron và rời khỏi nơi này không chỉ với danh tiếng lừng lẫy mà còn cả một số tiền thưởng cực lớn. Từ số vốn đầu tiên này, John Arnold đã thành lập quỹ của riêng mình.

Một vài năm sau, Arnold kiếm được 1 tỷ USD với việc đặt cược rằng giá khí đốt sẽ sụt giảm trong khi thiên tài đầu cơ tại quỹ Amaranth lại hành động theo hướng ngược lại. Gần đây, khi bong bóng hàng hóa bùng nổ năm 2008, cùng với các giám đốc quỹ khác nhìn thấy sự lụi tàn từ trước và nhờ đó, một lần nữa Arnold giúp số vốn của ông được nhân lên gấp đôi.

“Cậu ấy giống như một phù thủy trong trò chơi tú-lơ-khơ, có thể nhìn thấy được lá bài của những người khác”, bình luận của một môi giới từng biết Arnold từ những ngày ở Enron.

Arnold nói rằng, tôi đang cố gắng mua nhiều thứ bất cứ khi nào chúng được giao dịch dưới mức giá hợp lý theo phân tích của chúng tôi, và bán hàng khi nhìn nhận rằng đường cong kỳ hạn đang ở mức cao hơn ngưỡng giá hợp lý. Trong những ngày đầu làm việc tại Enron, Arnold đã làm nên tên tuổi nhờ việc mua các hợp đồng khí đốt ở một vùng này và bán cho vùng khác để lấy chênh lệch khá lớn vì khí đốt không dễ vận chuyển giữa 2 khu vực này.

Ban đầu, Arnold chỉ tham gia các hợp đồng mua bán khí đốt vật chất. Nhưng sau đó, Đạo luật Hiện đại hóa Hàng hóa Tương lai (Commodity Futures Modernization Act), được Quốc hội Mỹ thông qua vào năm 2000, đã cho phép các hợp đồng khí đốt được trao đổi với số lượng lớn, tạo ra cơn sốt trong giao dịch khí đốt qua bảng điện tử. Kinh nghiệm giao dịch buổi đầu của Arnold, vốn cho phép anh nhìn thấu nhu cầu của khách hàng trên khắp đất nước, đã cho anh một lợi thế khi việc giao dịch hàng hóa ảo được Quốc hội Mỹ bật đèn xanh.

Kết hợp sự hiểu biết ấy với các bước đi táo bạo, Arnold đã giúp Centaurus kiếm lợi từ giao dịch khổng lồ. “Arnold chỉ thực hiện 1-2 vụ giao dịch mỗi năm. Nhưng mỗi lần đánh cược, anh ta đánh rất lớn và số tiền kiếm được sau mỗi lần là cả một gia tài”, một người thân cận với quỹ Centaurus tiết lộ. Đó là một chiến lược cực lớn nhưng cũng là một chiến lược mạo hiểm.

Arnold có thể đánh cược lớn theo ý mình mà không vấp phải sự cản trở nào là vì Centaurus đã “đóng cửa” đối với các nhà đầu tư mới kể từ năm 2005. Arnold đã trả lại tiền cho hầu hết nhà đầu tư và hiện chỉ sử dụng vốn của anh và nhân viên để tham gia trên thị trường.

Tìm phúc trong họa

Các tay “thợ săn” cũng đã quá quen với phong cách của Arnold cũng thừa nhận anh có phong thái điềm tĩnh và tính kỷ luật cao. Chính điều này đã giúp anh không bị lệch hướng khỏi mục tiêu khi hầu như cả thị trường đều đi theo hướng ngược lại so với dự đoán của anh.

Điều này có thể thấy rõ qua thảm họa của Amaranth, quỹ đầu cơ năng lượng 9 tỉ USD tại Greenwich, bang Connecticut. Theo báo cáo của Thượng Nghị viện Mỹ năm 2006, Amaranth đánh cược rằng giá khí đốt sẽ tăng cao vào mùa đông.

Nhưng khi mùa đông dần trôi qua, các nhà khí tượng học bắt đầu dự đoán rằng, mùa đông sẽ không quá khắc nghiệt như đã dự đoán ban đầu và giá khí đốt bắt đầu đi xuống. Trader “thiên tài” Brian Hunter của Amaranth đã phải chi tới 3 tỉ USD vào thời điểm đó do thua lỗ trong các hợp đồng swap.

Trước đó, Arnold đã thực hiện các hợp đồng khí đốt mà sẽ mang lại lợi nhuận lớn nếu giá giảm hơn nữa và anh đã đúng. Trong khi những trader khác hoảng loạn, Arnold vẫn bình tĩnh và kiên nhẫn, chờ đến thời điểm chín muồi và sau đó chớp cơ hội thu lời. Centaurus đã tạo ra tỉ suất lợi nhuận 200% vào mùa thu năm đó, trong khi Amaranth bị buộc phải thanh lý tài sản để trả nợ.

Centaurus đã kiếm được gần 1 tỉ USD vào mùa thu năm đó, đẩy tỉ suất lợi nhuận cả năm 2006 của Quỹ lên tới 317%, trong khi một quỹ đầu cơ khí đốt kỳ cựu khác là MotherRock cũng thua trong canh bạc này. Thắng lợi của Centarus gắn liền với khả năng tính toán và tài năng kinh doanh của Arnold.

Giao dịch hàng hóa không phải là một ngành chuyên môn mà nhiều học sinh từng nghĩ đến. Nhưng từ những ngày còn học đại học, Arnold đã thể hiện năng khiếu về các con số và những bài tính phức tạp, đó là những yếu tố cần thiết để trở thành một môi giới hàng hóa tài năng.

Những giáo sư tại đại học Vanderbilt đều nhớ đến Arnold với tài năng thiên bẩm về tư duy kinh tế. Ngay khi theo học tại Đại học Vanderbilt (Mỹ), Arnold đã hứng thú với các con số và phép tính phức tạp. Các giáo sư tại đây không thể quên cậu sinh viên có bộ óc nhạy bén về kinh tế học. Arnold không chỉ nắm bắt rất nhanh các khái niệm kinh tế mà còn có thể tính nhẩm nhanh các bài toán phức tạp.

“Chúng tôi không hề ngạc nhiên khi cậu ấy (Arnold) bắt đầu kiếm được tiền tỉ”, Giáo sư Stephen Buckles, tại Vanderbilt cho biết. Sau khi tốt nghiệp, Arnold về làm việc tại Tập đoàn Năng lượng Enron (Mỹ). Tại đây, dưới sự dẫn dắt của các trader lão luyện, Arnold đã thực sự thăng hoa, trở thành một ngôi sao vào cuối những năm 1990. Khi làm tại bộ phận giao dịch khí đốt của Enron, Arnold đã thu về cho Enron 750 triệu USD lợi nhuận năm 2001. Và năm đó, anh đã được thưởng 8 triệu USD, mức thưởng cao nhất dành cho một nhân viên.

Sau khi vụ bê bối kế toán nhấn chìm cả Tập đoàn, Ngân hàng UBS đã thâu tóm dàn trader của Enron và có nhã ý tặng Arnold 8 triệu USD tiền thưởng để anh ở lại. Nhưng anh vẫn quyết định ra đi và thành lập quỹ Centaurus khi mới 28 tuổi. Nhờ sự hứng thú của nhà đầu tư đối với các quỹ đầu cơ và hàng hóa tương lai, cùng với tiếng tăm của Arnold, Centaurus bắt đầu đi vào quỹ đạo và từng bước trở thành một trong những quỹ đầu cơ năng lượng có máu mặt trên thị trường.

Có 2 loại hàng hóa tương lai trong lĩnh vực khí đốt: hàng hóa vật chất (nhà đầu tư ký hợp đồng mua hoặc bán khí đốt được giao vào một ngày nhất định trong tương lai) và hàng hóa ảo (không có một thùng khí đốt nào trao tay). Hình thức sau được gọi là “swap” (hợp đồng hoán đổi), một cách hoán đổi rủi ro trước biến động giá năng lượng.

Nếu một nhà sản xuất khí đốt như Chesapeake Energy (Mỹ) lo ngại giá sẽ giảm xuống dưới một mức nào đó, Hãng có thể thực hiện giao dịch với một quỹ đầu cơ như Centaurus. Theo đó, Centaurus sẽ phải trả một khoản tiền đã thỏa thuận nếu giá giảm. Nhưng nếu giá tăng thì Chesapeake sẽ phải trả phần tiền đó.

Một trong những vụ swap nổi bật của Arnold là vào năm 2005. Vài tháng trước khi vào mùa bão, Centaurus đã ký hợp đồng swap với Tập đoàn Dầu khí BP (Anh). BP lo ngại, giá có thể sẽ sụt giảm. Tuy nhiên, các nhà khí tượng học của Centaurus lại dự đoán sẽ có một mùa mưa bão rất khắc nghiệt, có thể sẽ đẩy giá khí đốt lên cao.

Theo hợp đồng giữa BP và Centaurus, Centaurus đồng ý trả cho BP một khoản tiền nếu giá giảm mạnh và ngược lại nếu giá tăng. Khi các cơn bão Rita và Katrina tàn phá vùng duyên hải Gulf Coast của Mỹ, giá khí đốt đã tăng vọt và Centaurus bỏ túi 3 triệu USD.

Hiện nay, Arnold phải đối mặt với thách thức lớn nhất trong sự nghiệp của mình. Nguyên tắc kiếm tiền của Arnold là dựa vào khả năng đặt cược vào những canh bạc khổng lồ. Nhưng CFTC cho biết sẽ áp đặt hạn mức giao dịch đối với các trader lớn nhất trong ngành. Điều này, theo giới quan sát, có thể sẽ là cú “hồi mã thương” đối với trader siêu hạng này.

Tại buổi điều trần vừa qua, Arnold đã nói: “Nếu quy định mới có hiệu lực, sẽ có tác động tiêu cực lên thị trường”. Xét với tính cách của Arnold, đây được xem là một câu phát ngôn trước công chúng khá bạo dạn của anh.

Tuy nhiên, Arnold không hề phản đối những quy định mới mà chỉ đang thích ứng với chúng bằng cách đầu tư vào các kho dự trữ khí đốt lớn, nhằm trở thành một nhà trung gian chủ chốt trong ngành năng lượng. Lượng cung dư thừa, cùng với sức cầu yếu đã khiến giá khí đốt rớt xuống mức đáy. Và Arnold đã nhanh tay mua vào và đặt cược rằng giá khí đốt sẽ tăng cao khi nhu cầu phục hồi trở lại.

Ngay từ năm 2006, Arnold đã thành lập NGS Energy, sở hữu rất nhiều kho dự trữ khí đốt có quy mô cỡ một con tàu chiến. “Đây là sự đặt cược vào nhu cầu năng lượng trong tương lai của thị trường”, Laura Luce, cựu đồng nghiệp của Arnold tại Enron, đang điều hành NGS Energy, cho biết.

Dĩ nhiên, Luce là người phát ngôn trước công chúng, còn Arnold thì khó có thể bị coi là một tay đầu cơ. Vẫn như kiểu làm cũ, Arnold tiếp tục đứng sau hậu trường và nghĩ cách kiếm lời từ cuộc khủng hoảng năng lượng sắp tới của thế giới.

phuocpham
05-10-2012, 05:16 PM
Bill Gross – Chủ tịch Quỹ đầu tư trái phiếu lớn nhất thế giới PIMCO

http://kienthuc.net.vn/dataimages/201011/original/images569426_BillGrossmotngaylamnen54a1.jpg

Thế giới đầu cơ vốn khắc nghiệt và không khoan dung nhưng cũng ẩn chứa không ít cơ hội cho ai đó đổi đời và thậm chí đi vào lịch sử. Bill Gross là một trong số ít nhà đầu cơ nổi tiếng nhờ biết luồn lách trong thế giới đầu cơ và biết tận dụng cơ hội, dù chỉ có một lần, nhưng một lần ấy thôi cũng đủ để ông được ghi vào lịch sử thế giới đầu cơ.

Sau nay, khi đã có trong tay số tài sản riêng được tạp chí Forbes (Mỹ) ước tính khoảng 1,3 tỷ USD, Bill Gross cho rằng, bản thân ông là một bằng chứng điển hình của cái gọi là “Cách sống Mỹ”, theo cách hiểu một người bình thường cũng có thể trở nên giàu có.

Dùng tiền kẻ khác

Không có tài sản gì đáng kể mang theo vào đời ngoài tri thức học được tại trường Đại học tổng hợp Los Angeles, Bill Gross làm việc trước tiên cho công ty bảo hiểm Pacific Mutual Life với mức lương không đầy 1.000 USD/tháng.

Lương không cao, nhưng cái mà Gross thu lượm được về cho mình trong thời kỳ làm công này có ý nghĩa quyết định đối với thành công sau này.

Bảo hiểm là một lĩnh vực tài chính, suy cho cùng cũng là một kiểu kinh doanh tài chính, một dạng đầu cơ. Nó đưa lại cho Gross những hiểu biết đầu tiên về thế giới đầu cơ.

Nó thức tỉnh trong Gross những ham muốn trước đây không hề có về khám phá và chinh phục thế giới đầy bí ẩn và thách thức nhưng lại hết sức quyến rũ này. Nó thôi thúc Gross quyết tâm làm giàu bằng đầu cơ và gây dựng nên triết lý đầu cơ riêng là “đầu cơ bằng tiền kẻ khác”.

Năm 1994, Bill Gross thành lập công ty Pimco - một dạng quỹ bảo lãnh đầu tư. Gross huy động vốn của người khác, bản thân đóng vai trò người quản lý quỹ, được người góp vốn ủy thác kinh doanh; trả lời cho họ theo tỷ lệ nhất định đã được thỏa thuận trước hoặc tùy theo mức độ sinh lời trong kinh doanh.

Để hạn chế rủi ro đến mức tối đa, Bill Gross không kinh doanh cổ phiếu và không mua đi bán lại công ty, mà tập trung gần như hoàn toàn vào trái phiếu với lãi suất cố định. Kinh doanh trên thị trường đặc thù này không có tỷ lệ lợi nhuận cao, nhưng bù lại, gần như không bao giờ thất bại.

Cứ năng nhặt chặt bị như vậy mà chỉ sau có 5 năm, Pimco đã gây dựng được danh tiếng của một quỹ bảo lãnh đầu tư làm ăn phát đạt, tài chính lành mạnh, chiến lược kinh doanh rõ ràng và đầy triển vọng.

Cần nhớ lại rằng thập kỷ 90 của thế kỷ trước cũng là thập kỷ ra đời và phát triển mạnh mẽ của các loại quỹ bảo lãnh đầu tư. Việc kinh doanh - cả đầu tư lẫn đầu cơ - trái phiếu tăng trưởng mạnh mẽ chẳng kém gì kinh doanh cổ phiếu.

Quyết định chiến lược thứ hai của Bill Gross là cho niêm yết công ty của mình trên Sở giao dịch chứng khoán.

Bước đi này giúp Gross tiếp tục phô trương thanh thế, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là sử dụng tiền kẻ khác. Suy tính của Gross là chắc chắn sẽ có những con cá sộp mua về cổ phần của Pimco, thậm chí mua đứt cả Pimco.

Điều kiện của Gross chỉ là có thể chuyển đổi chủ sở hữu, nhưng không thay đổi người quản lý. Làm như vậy, Gross vừa có tiền, vừa giữ được chỗ làm việc lại vừa tránh được mọi rủi ro. Đúng như trù tính của Gross, tập đoàn tài chính và bảo hiểm lớn nhất nước Đức Allianz năm 1999 đã mua lại Pimco với giá 3,3 tỷ USD.

Bill Gross được trả 243 triệu USD, giữ nguyên chức vụ với mức lương 40 triệu USD/năm. Cho tới nay, Bill Gross vẫn đảm nhận trọng trách như trước trong Pimco cho Allianz và hiện tại số vốn mà Pimco quản lý lên tới 132 tỷ USD, giúp Pimco trở thành quỹ bảo lãnh đầu tư lớn nhất thế giới.

Một ngày làm nên lịch sử

Những kết quả đầu cơ nói trên giúp cho Gross trở nên giàu có, nhưng không quá nổi tiếng đến mức “trứ danh”.

Điều khiến ông ta được coi như một thần tượng trong thế giới đầu cơ là phi vụ hồi tháng 9 năm ngoái. Khi đó là đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng thị trường bất động sản ở nước Mỹ.

Hai ngân hàng tài trợ cho xây dựng nhà ở là Fannie Mae và Freddie Mac trở thành cơn ác mộng đối với chính phủ, giới tài chính ngân hàng và người dân Mỹ, đương nhiên cả với cư dân của thế giới đầu cơ. Vì nhiều lý do khác nhau dồn tụ suốt cả thời gian dài, hai ngân hàng này đứng bên bờ vực bị phá sản.

Nếu chúng bị phá sản thì sẽ có nguy cơ hệ thống ngân hàng và tài chính ở Mỹ bị đổ sụp. Bill Gross cho rằng chính phủ Mỹ - vì lý do lịch sử và cả tác động dây chuyền hiện tại - không thể không bỏ tiền ra cứu vãn hai ngân hàng này. Ông đã bỏ tiền mua tối đa những chứng thực thế chấp bằng đất đai của Fannie Mae và Freddie Mac.

Mọi chuyện xảy ra đúng như suy đoán của Gross. Những chứng thực của hai ngân hàng này lại nhanh chóng có giá. Pimco được lời rất lớn.

Có ngày, Pimco thu về được 1,7 tỷ USD. Bill Gross nhờ phi vụ này mà được thế giới đầu cơ suy tôn thành người hùng với sự thán phục không giấu diếm: “Một ngày làm nên lịch sử”.

Không ồn ào và phô trương, ăn chắc mặc bền chứ không ăn xổi ở thì, biết dừng đúng chỗ và biết liều đúng dịp, đầu cơ mà như thể không phải đầu cơ – xem ra đó là những nguyên nhân thành công của Bill Gross.

Nhà đầu cơ trứ danh này tôn thờ những phương châm hoặc cũng có thể coi là nguyên tắc kinh doanh ấy có lẽ bởi chưa khi nào quên cái thời “tay không bắt giặc” và những bài học kinh nghiệm trong chuyện sử dụng tiền của kẻ khác.

Muốn xài được tiền của kẻ khác thì trước hết phải chinh phục được lòng tin của họ mà muốn gây dựng được lòng tin ấy thì phải thực hiện đúng những gì đã cam kết. Có như vậy thì Gross mới có thể có được đủ vốn liếng để thực thi những phi vụ đầu cơ để đời.

Lý giải về thành công của bản thân mình, Bill Gross cho rằng, trong mỗi nhà đầu cơ đều có một chiếc đồng hồ báo thức với chức năng “đánh thức” nhà đầu cơ về thời cơ và thời điểm, về cơ may và rủi ro, nhắc nhở nhà đầu cơ về ranh giới giữa cái được phép và không được phép, cái có thể và không thể, cái liều lĩnh và có tính toán.

Nhưng mỗi chiếc đồng hồ báo thức có thể phát ra tín hiệu báo thức vào thời khắc khác nhau, có thể khi thì quá sớm, lúc lại có thể quá muộn. Với trường hợp của ông, chiếc đồng hồ báo thức đó thường chạy rất chính xác.

Bill Gross năm nay 65 tuổi. Pimco vẫn là một trong những "cỗ máy in tiền" cho tập đoàn Allianz. Đó cũng chính là lý do khiến Bill Gross có được không ít đặc quyền đặc lợi ở tập đoàn này.

Ở cái thời người đã khôn hơn nhiều và của đã khó hơn trước nhiều thì cơ hội lặp lại lịch sử chắc rất mong manh. Nhưng chỉ một lần làm nên lịch sử cũng đã đủ để Gross chinh phục được đỉnh cao của vinh quang trong thế giới đầu cơ.

1nightdream
08-10-2012, 08:19 AM
James Fisk - “Bá tước ăn cướp”

http://www.doanhnhan.net/Resources/Data/News/huyenct/th%C3%A1ng%2011/30/untitled.png

Thứ sáu, ngày 14/9/1869 đã đi vào lịch sử nước Mỹ với cái tên “Ngày thứ Sáu đen tối” khi mà giá vàng ở Mỹ bắt đầu tụt giá thảm hại, kích hoạt một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế kinh hoàng nhất trong lịch sử nước Mỹ. James Fisk chính là một trong những thủ phạm chính của sự kiện này.

“Bá tước ăn cướp” là một trong những khái niệm đặc trưng cho thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa tư bản khi nền kinh tế chưa bị điều tiết hay kiểm soát gì, dành để ám chỉ những nhà tư bản kiếm lời, làm giàu bất chấp thủ đoạn, coi nền kinh tế chẳng khác gì một sòng bạc không giới hạn. Không ít những nhà đại tư bản hay đại công nghiệp sau này của nước Mỹ đã từng là bá tước ăn cướp - như John D. Rockefeller hay Cornelius Vanderbilt - và nhờ đó mới có thể trở thành những con người như vậy. James Fisk không chỉ đơn thuần là một trong số đó, mà còn là người thành công và tai tiếng hơn cả, vinh quang và cũng bi thảm hơn cả, để lại dấu ấn thiên thu không phai mờ trong lịch sử kinh tế nước Mỹ. Trong cuộc đời và sự nghiệp đầu cơ ngắn ngủi của mình, James Fisk thắng tất cả những trận đầu cơ lưu truyền hậu thế, nhưng lại thua trong canh bạc mà Fisk luôn cho rằng dễ chơi và dễ thắng nhất, nhưng rồi lại chứng tỏ là khó lường và nguy hiểm nhất, đó là tình yêu.

James Fisk theo học ở trường ít đến mức có thể coi như không đi học. Ngay từ rất nhỏ ông đã theo cha đi bán hàng lưu động, rồi tham gia một đoàn xiếc nhưng chẳng được bao lâu lại trở về hành nghề cùng cha và cũng chẳng bao lâu sau đó xây dựng gánh hàng của cha trở thành một công ty thực thụ và làm ăn phát đạt với 5 cỗ xe ngựa và cả tá nhân viên. Chính vì thế mà James lọt vào tầm ngắm của tập đoàn thương mại Jordan and Marsh đóng trụ sở ở thành phố Boston và được tập đoàn này tuyển dụng làm đại diện. Sự kiện này là dấu mốc trọng đại đầu tiên trong cuộc đời của James. Nó đã mở ra cánh cửa bước vào thế giới kinh doanh lớn và đầu cơ vốn vẫn luôn là tham vọng và sở trường của James.

Ngày 12/4/1861 là dấu mốc trọng đại thứ hai trong cuộc đời James, đó là ngày bùng nổ cuộc nội chiến ở Mỹ. James nhận ra được ngay cơ hội mà cuộc chiến tranh này đem lại cho mình. Nếu được coi là nhà cung ứng hậu cần cho quân đội thì không chỉ có thể kinh doanh kiếm lời từ những gì cung ứng cho quân đội vốn được ưu tiên hàng đầu, mà còn cả từ những gì quân đội có mà không cần đến nhưng bên ngoài lại khan hiếm. Hơn nữa, cái hỗn loạn của chiến tranh cũng như danh nghĩa cung ứng hậu cần cho quân đội là điều kiện tốt nhất để buôn lậu. James vận động, tranh thủ, lôi kéo, mua chuộc, hối lộ, gài bẫy và dọa ép gần như tất cả những nhân vật chủ chốt trong quân đội mà James tiếp cận được để giành lấy độc quyền ấy. Mua rẻ, bán đắt và buôn lậu chi phối hành động của James, chứ không phải mua của ai và bán cho ai. Cuộc nội chiến này đã giúp miền Bắc nước Mỹ đánh bại miền Nam và giúp James trở thành người giàu có cũng như tự tin đủ mức để bắt đầu cuộc chinh phục Phố Wall ở New York.

Những phi vụ đầu cơ ra mắt Phố Wall của James bị thất bại, trừ lần đầu cơ vào trái phiếu của những bang miền Nam trong thời gian rất ngắn sau nội chiến khiến James phải từ bỏ đầu cơ chứng khoán chuyển sang kinh doanh hàng dệt và may mặc. Nhưng công ty này của James bị phá sản sau đó không lâu. Kinh doanh thất bại, nhưng bài học có được từ đó lại đắt giá: đầu cơ chứng khoán mới là nơi James tung hoành, Phố Wall mới là đỉnh cao cần chinh phục. Đối với James, vấn đề không phải là tiền, mà là phiêu lưu mạo hiểm, cuộc chơi càng mạo hiểm thì lại càng hấp dẫn và càng đáng để chơi.

James trở lại Phố Wall và có được bước ngoặt tiếp theo của đời mình là gặp Daniel Drew, một doanh nhân cũng bất chấp thủ đoạn không kém gì James, nhưng cao tuổi hơn và lão luyện hơn trên thương trường. Ý định của James lừa Drew không thành, nhưng lại gây ấn tượng sâu đậm ở Drew tới mức người này mời James cùng cộng sự. Lúc đó, Drew đang sống mái với ông trùm về đường sắt nước Mỹ Cornelius Vanderbilt để giành giật công ty Erie Railroad có tuyến đường sắt từ New York tới biên giới Mỹ - Canada. Drew và Vanderbilt vốn là cừu thù của nhau từ lâu. Năm 1866, Vanderbilt quyết tâm giành quyền kiểm soát Erie Railroad mà cho tới khi đó Drew nắm giữ đa số cổ phiếu. Cách làm của Vanderbilt cổ điển đến mức dễ bị nhận thấy và bị lừa cho nên đã bị Drew và Fisk đưa vào bẫy. Đầu năm 1866, Drew bỏ tiền túi ra cho công ty Erie Railroad vay 3,5 triệu USD, đổi lại nhận được quyền sở hữu 58.000 cổ phiếu của công ty đường sắt này. Drew và Fisk nêu mục đích là nâng cấp tuyến đường sắt, nhưng trên thực tế nhằm hạ giá cổ phiếu để gây thiệt hại cho Vanderbilt. Họ lập hẳn một xưởng in riêng để in số cổ phiếu nói trên, chờ thời điểm thuận lợi và tung cùng một lúc ra thị trường. Chỉ trong vòng vài ngày, giá cổ phiếu của Erie Railroad giảm từ 80 cents xuống còn có 50,3 cents. Vanderbilt bị lỗ 5 triệu USD.

Để gỡ gạc, Vanderbilt tìm cách liên kết với Drew và Fisk nhằm đẩy giá cổ phiếu tăng bằng cách đổ tiền mua cổ phiếu. Hai người này thỏa thuận, nhưng lại không thực hiện thỏa thuận với Vanderbilt. Trong khi Vanderbilt mua vào thì họ lại bán ra. Vanderbilt mua chuộc và hối lộ cảnh sát cũng như tòa án ở nơi này để cấm Drew và Fisk hoạt động thì họ cũng làm như vậy ở bang khác để được hoạt động. Khi cuộc chiến giữa hai bên chính thức chấm dứt vào ngày 10-3-1866 thì cũng là lúc Vanderbilt bị thua thiệt tổng cộng hơn 8 triệu USD và Fisk đã gây dựng được vị thế vững chãi trong thế giới đầu cơ.

Nhưng lũng đoạn thị trường vàng ở Mỹ xem ra mới là thành tựu đầu cơ lớn nhất của Fisk. Fisk nhận ra cơ hội đó từ một hệ lụy của cuộc nội chiến: Chính phủ Mỹ dùng lạm phát để tài chi cho cuộc nội chiến bằng cách phát hành giấy bạc ngân hàng (được gọi là Greenback) không được bảo đảm bằng vàng, nhưng với cam kết là sau chiến tranh sẽ đổi lại ra vàng. Tổng thống Ulysses Grant khi tranh cử cũng dùng cam kết đó để vận động cử tri bỏ phiếu cho mình. James Fisk cùng với đối tác là Jay Gould âm mưu thống trị thị trường vàng trước khi chính phủ bán vàng ra để mua lại Greenback. Họ mua chuộc em rể của Tổng thống Grant để tác động Tổng thống trì hoãn việc bán vàng để cho họ có thời gian đầu cơ tích trữ vàng, đẩy giá vàng lên cao, nhưng sẽ bán đi trước thời điểm chính phủ bắt đầu bán vàng. Khi tổng thống Grant phát hiện ra và ra lệnh bán vàng ngay lập tức thì cũng đã quá muộn. Fisk và Gould đã tẩu tán hết số vàng đầu cơ và sau đó giá vàng sụt xuống thảm hại bắt đầu từ ngày Thứ Sáu, 14 - 9 - 1869, đẩy nền kinh tế nước Mỹ lâm vào khủng hoảng thực sự. Sự kiện đó đi vào lịch sử nước Mỹ với cái tên “Ngày thứ Sáu đen tối”, trở thành biểu tượng cho cơn ác mộng trên thị trường tài chính và chứng khoán. Fisk không dấu diếm cảm xúc riêng tư về sự việc này khi nói: “Chúng tôi được tất cả, chỉ mất có danh dự thôi”. Đối với Fisk, đầu cơ và danh dự là hai thứ mà muốn có được cái này thì phải chấp nhận mất cái kia.

Nhưng sự đời lại thật trớ trêu. Fisk thành công trong đầu cơ bao nhiêu thì lại đen đủi bấy nhiêu trong chuyện tình ái. Tất cả tình yêu của Fisk đều dành cho một cô gái điếm cao cấp tên là Josie Mansfield. Fisk lo cho nàng cuộc sống vương giả trong xã hội New York đương thời, nhưng rồi về sau nàng lại phải lòng đối tác của Fisk là doanh nhân cũng rất thành đạt Edward Stokes. Cả hai lập mưu dùng những bức thư tình của Fisk gửi cho nàng để tống tiền Fisk. Cả hai đều không hiểu rằng ngay đến cả danh dự cũng đã được Fisk dùng để đầu cơ thì Fisk đâu có hãi mấy trò tống tiền ấy. Bực tức vì sự từ chối và khinh bỉ của Fisk, ngày 6 - 2 - 1872 Stokes đã bắn chết Fisk ngay tại cửa vào một khách sạn ở New York. Stokes chỉ bị đi tù có 6 năm, nhưng Fisk đã chết ở độ tuổi 37. Những tín đồ của môn đạo đầu cơ thương tiếc Fisk, còn đối thủ của Fisk thở phào nhẹ nhõm vì tất cả họ đều biết rằng, năng lực đầu cơ của Fisk đang rất sung mãn và nếu Fisk còn sống thì rồi không biết chuyện gì sẽ còn xảy ra trong thế giới đầu cơ.

1nightdream
10-10-2012, 08:22 AM
Ivan Boesky - "Bạo chúa" của giới đầu cơ

http://www.doanhnhan.net/Resources/Data/News/huyenct/th%C3%A1ng%2011/30/crime.png

Trong thế giới đầu cơ có một nhà đầu cơ trứ danh bị rất nhiều người thù ghét và ganh tỵ nhưng số người ngưỡng mộ và bắt chước ông còn đông hơn. Con người này nổi tiếng không chỉ bởi thành công đến mức được coi như một thần tượng mà còn bởi tính tàn bạo trong đầu cơ đến mức bị gắn cho biệt danh là “Bạo chúa”. Nhà đầu cơ trứ danh này là Ivan Boesky.
Trong thế giới đầu cơ có một nhà đầu cơ trứ danh bị rất nhiều người thù ghét và ganh tỵ nhưng số người ngưỡng mộ và bắt chước ông còn đông hơn. Con người này nổi tiếng không chỉ bởi thành công đến mức được coi như một thần tượng mà còn bởi tính tàn bạo trong đầu cơ đến mức bị gắn cho biệt danh là “Bạo chúa”. Nhà đầu cơ trứ danh này là Ivan Boesky.

Ivan Boesky từ nhà đầu cơ trứ danh trong giây phút đã trở thành kẻ tội đồ
Ivan Boesky lừng danh đến mức Hollywood phải tìm đến để tái hiện và khai thác cho nghệ thuật thứ Bảy. Ông giàu sang nhờ đầu cơ nhưng rồi lâm vào vòng lao lý cũng bởi đầu cơ. Ivan Boesky tận hưởng và phô trương hết mức có thể được thành quả đầu cơ của mình, và cũng không ngần ngại suy tôn tính tham lam của con người thành động lực đầu cơ và lý tưởng sống cho chính mình.

Tham là tốt và lành mạnh

“Ivan Bạo chúa” vốn là biệt danh dành cho vị Nga hoàng đăng quang đầu tiên của nước Nga (1530 - 1584). Ivan Boesky được gắn cho biệt danh ấy bởi tính tàn bạo, bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích bằng mọi giá trong hoạt động đầu cơ. Những tính cách ấy của Boesky có gốc rễ ở quan niệm rất khác thường của ông về tính tham lam của con người. Boesky cho rằng tham lam hoàn toàn không phải là xấu, tham lam chi phối hành động của con người, vì thế điều quan trọng nhất là kết quả cuối cùng chứ không phải đạt kết quả ấy bằng cách nào.

Chuyện còn kể lại rằng - và được tái hiện trung thực trong bộ phim “Wall Street” rất ăn khách của Hollywood: năm 1985, Boesky được mời đến dự và phát biểu tại lễ trao bằng tốt nghiệp đại học cho sinh viên ngành quản trị kinh doanh. Bài phát biểu của ông được các nhà quản trị kinh doanh tương lai hoan nghênh nhiệt liệt, đặc biệt câu nói đã trở nên bất hủ trong thế giới đầu cơ của Boesky: “Tham lam là tốt. Thậm chí tôi còn cho rằng tham lam là lành mạnh. Các bạn có thể thèm khát có tiền mà không sợ bị cắn rứt lương tâm”. Cũng chính vì thế mà mọi suy tính và hành động của Boesky chỉ luôn xoay quanh chuyện mua và bán: có thể mua được cái gì và bán được cái gì để có lợi. Chính Boesky thường kể lại câu chuyện về một lần cả hai vợ chồng ông đi dạo chơi đêm trăng trên đại lộ Champs Elysees giữa thủ đô Paris của nước Pháp. Trong khi người vợ trầm trồ về vẻ đẹp của mặt trăng thì Boesky phán tỉnh khô: “Có mặt trăng để làm gì nếu không thể mua hoặc bán được nó”.

Mỗi khi kể về cuộc đời và sự nghiệp đầu cơ của mình, Boesky thường đặc biệt nhấn mạnh điểm xuất phát ban đầu là số không, từ gia cảnh nghèo nàn của một gia đình di cư từ Nga sang Mỹ mà chỉ trong vòng có 10 năm đã trở thành một huyền thoại sống ở Phố Wall. Đúng là Boesky có năng khiếu và đam mê đầu cơ bẩm sinh. Đúng là Boesky có đủ tố chất của một nhà đầu cơ chuyên nghiệp là mạo hiểm đến liều lĩnh và mẫn cảm với biến động của thị trường đến mức có thể đoán biết được thị trường ngày mai sẽ biến động thế nào. Nhưng Boesky đâu phải diện nhà đầu cơ “không bột mà gột nên hồ”. Boesky luôn giấu diếm thời kỳ “tay không bắt giặc” trong tiểu sử hay tự sự của mình. Trước khi xâm nhập vào thị trường chứng khoán, Boesky đã cưới ái nữ của một trùm xây dựng ở Mỹ mặc dù ông bố vợ không chấp nhận cuộc hôn nhân của con gái vì cho rằng nhà trai không môn đăng hậu đối. Boesky không chỉ cưới được vợ mà còn được vay 700.000 USD của bà mẹ vợ để đầu cơ. Thử hỏi trong số cư dân của thế giới đầu cơ đã có mấy người tự dưng có được số vốn liếng ban đầu như vậy.

Thời kỳ đầu, Boesky chỉ làm ăn cò con, cụ thể là đầu cơ vào chênh lệch giá cổ phiếu giữa các thị trường chứng khoán khác nhau trên thế giới. Công việc ấy giúp Boesky không thiếu tiền tiêu, nhưng chưa trở thành giàu và lại càng chưa được nổi tiếng. Cứ như vậy cho tới cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Vào thời điểm đó trong giới kinh doanh bùng lên làn sóng các tập đoàn và công ty lớn nhỏ thâu tóm lẫn nhau. Trong bối cảnh cá lớn săn lùng và tìm cách nuốt chửng cá bé, bè **** liên kết để triệt hạ đối thủ giành địa vị thống trị trên thị trường, Boesky nhận ra cơ hội đầu cơ có một không hai. Khi một hãng đứng bên bờ phá sản phải tìm cách bán thân cho hãng khác để tránh bị xóa sổ hoặc khi một hãng trở thành mục tiêu tấn công của các hãng khác thì giá cổ phiếu của nó giảm mạnh, nhưng sẽ lại tăng lên rất nhanh khi được cứu thoát hoặc khi những phương án thâu tóm được tiết lộ. Khoảng thời gian giữa hai thời điểm đó là cơ hội cho các nhà đầu cơ và sự chênh lệch giá cổ phiếu đó là cơ hội kiếm tiền của các nhà đầu cơ. Chỉ 10 năm trong khoảng thời gian ấy đủ để Boesky đi vào lịch sử thế giới đầu cơ với số tiền kiếm về được là hơn 200 triệu USD.

Bí quyết đầu cơ của Boesky rất khác so với nhiều nhà đầu cơ trứ danh khác. Boesky không hành động theo bất cứ phân tích hay tính toán khoa học nào, cũng chẳng theo số liệu thống kê hay bắt chước ai đó khác. Boesky hành động hoàn toàn theo bản năng và cảm tính, theo kinh nghiệm và bị thôi thúc bởi tính tham lam mà Boesky đã “văn hóa” nó thành triết lý cuộc đời. Không biết có phải nhờ thế hay chỉ bởi may mà Boesky đầu cơ lần nào cũng thắng, trù tính chuyện gì cũng thành công. Trong những tháng năm ấy, Boesky được coi như sát thủ của các hãng yếu thế. Boesky thâu tóm công ty rồi lại bán chúng đi, bất kể việc đó ảnh hưởng xấu như thế nào tới đời sống của người lao động. Số phận của những con người liên quan không có ý nghĩa gì đối với các quyết định của Boesky. Và biệt danh “Ivan Bạo chúa” có nguồn gốc từ đó.

Tham thì thâm

Nếu tham lam giúp cho Boesky giàu có thì trên thế gian này lại còn có câu “tham thì thâm”. Cũng chính động lực đó đã đưa Boesky đến với Dennis Levine, một cư dân của thế giới đầu cơ mà có thể coi như là tri kỷ của Boesky với cùng chí hướng và nhân sinh quan, với cùng tham vọng và quyết tâm thực hiện tham vọng. Sự tương đồng đó đã dẫn dắt hai con người này đến với một kiểu liên minh ma quỷ, lúc đầu đem lại tiền của cho họ và cuối cùng đẩy họ vào nhà giam. Trong khi Boesky dựa vào khả năng dự báo của chính mình thì Levine dựa vào thông tin nội gián - vốn bị coi là bất hợp pháp trên thị trường chứng khoán. Levine xây dựng cả một mạng lưới nguồn tin đủ để ông ta có thể đi trước đối thủ cạnh tranh một bước. Sự thành đạt của Levine bị đồng nghiệp bắt chước và bị chính quyền theo dõi. Hợp tác với Boesky, Levine có được vỏ bọc hợp pháp và an toàn vì đầu cơ chứng khoán là chuyên môn của Boesky. Đồng thời, những thông tin nội gián lại giúp Boesky có được những phi vụ đầu cơ béo bẫm. Trong vòng có 14 tháng, Levine kiếm về được 12 triệu USD, còn Boesky được tận 50 triệu USD. Chính quyền theo dõi, nghi ngờ nhưng không có được bằng chứng gì bất lợi đối với cả hai người.

Vụ việc đổ bể khi có thư nặc danh từ thủ đô Caracas của Venezuela - nơi Levine có tài khoản bí mật - gửi cho hãng Merrill Lynch tố cáo ông này. Công ty này cho điều tra và phát hiện ra tài khoản bí mật của Levine, rồi chuyển thông tin tới Cơ quan kiểm soát chứng khoán Mỹ (SEC). Thế rồi chuyện lần ra mê cung của Levine và mối liên hệ làm ăn giữa Levine với Boesky trên cơ sở thông tin nội gián đã bị phát giác. Đó là vào giữa năm 1985.

Thị trường chứng khoán Mỹ lâm vào vụ bê bối lớn nhất từ trước tới đó. Levine và Boesky bị bắt. Cả hai chấp nhận khai báo để đổi lại hình phạt nhẹ. Levine bị kết án 2 năm tù và bị phạt 362.000 USD, Boesky phải bóc lịch 3 năm trong nhà giam và bị phạt 100 triệu USD. Trước đó, SEC đã để cho Boesky bán đi tất cả số cổ phiếu của mình trị giá tới 400 triệu USD, trước khi vụ việc được công khai - đủ để Boesky thắng lớn trong phi vụ đầu cơ lớn cuối cùng. Có người nói đi đêm lắm ắt phải có ngày gặp ma, có người mỉa mai rằng đã tham thì sẽ thâm. Nhưng dù nói thế nào thì vụ bê bối càng làm Boesky thêm nổi tiếng. Mà cái “tiếng” này vẫn khẳng định Boesky chiếm giữ địa vị chỉ rất ít kẻ khác bì kịp trong thế giới đầu cơ.

1nightdream
12-10-2012, 08:14 AM
Ivar Kreuger - Số phận bi tráng và hào hùng của một nhà đầu cơ

Đã có nhà đầu cơ nào sử dụng cả nhà nước, mà lại không chỉ ở một quốc gia, để đầu cơ? Đã có nhà đầu cơ nào được Giáo Hoàng - người đứng đầu Nhà thờ Thiên Chúa giáo - dùng làm ví dụ để răn dạy con chiên của Chúa? Có đấy, nhưng đó chỉ có thể là Ivar Kreuger.

http://www.doanhnhan.net/Resources/Data/News/huyenct/th%C3%A1ng%2011/27/U538719INP.png

Trong thế giới đầu cơ có không ít tráng ca và cũng đầy bi kịch. Số phận của nhà đầu cơ người Thụy Điển Ivar Kreuger hội tụ đủ cả hai phần ấy. Trong nhân gian, con người tự tìm đến cái chết bởi nhiều động cơ khác nhau. Trong trường hợp Ivar Kreuger thì nguyên cớ xô đẩy đến cái chết liên quan mật thiết đến đầu cơ tới mức có thể coi đó là chuyện sinh nghề, tử nghiệp.

Que diêm làm nên sự nghiệp

Ivar Kreuger sinh ngày 2.3.1880 ở Kalmar (Thụy Điển). Thật ra thì dòng họ Kreuger từ Mecklenburg (nước Đức ngày nay) di cư sang Thụy Điển từ thế kỷ 17. Cha của Ivar là chủ một hãng sản xuất diêm. Ivar Kreuger học rất giỏi và trở thành kỹ sư xây dựng năm mới có 20 tuổi. Chàng thanh niên này bôn ba gần như khắp thế giới để chứng tỏ tài năng với việc xây dựng nhiều công trình khách sạn, nhà ở và công xưởng ở Mỹ, Nam Phi, Anh, Ấn Độ và Mexico.

Khoảng cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ trước, Kreuger trở về Thụy Điển và cùng với người bạn là Paul Toll thành lập công ty xây dựng Kreuger & Toll. Năm 1913, Kreuger tiếp quản công ty của người cha. Sản xuất diêm khi ấy là một ngành rất phát triển. Cho tới thời điểm ấy, đầu cơ là khái niệm hoàn toàn xa lạ đối với anh chàng kỹ sư xây dựng này. Ivar Kreuger tiếp tục phát triển và bành trướng công ty sản xuất diêm của người cha. Nhưng nếu như chỉ có như vậy thôi thì Ivar Kreuger đâu có đến nỗi phải sinh nghề tử nghiệp.

Điều giúp Ivar Kreuger trở nên nổi tiếng thế giới và về sau cũng khiến con người này thân bại danh liệt là việc dấn thân vào thế giới tài chính. Không biết có phải vì tò mò hay bởi muốn thể hiện, không rõ có phải vì cầu danh hay cầu lợi mà Kreuger đã biến cuộc chơi trong thế giới tài chính thành cuộc chơi của cuộc đời mình. Mục tiêu của Kreuger rất rõ ràng: dùng tiền để mua về độc quyền sản xuất và tiêu thụ diêm ở các nước khác. Độc quyền đó sẽ đem lại cho Kreuger lợi nhuận khổng lồ, những mối quan hệ cần thiết phải có trong giới chính trị và kinh tế ở các nước khác để rồi tiền và quan hệ sẽ lại giúp củng cố độc quyền đã có. Nghe thì đơn giản như vậy, nhưng thực chất thì việc đó chẳng khác gì đầu cơ vào nhà nước, thao túng quyền lực của nhà nước. Bản chất toàn bộ hoạt động đầu cơ trong sự nghiệp của Ivar Kreuger là một cuộc chơi bạc với nhà nước. Xưa nay, chơi với nhà nước như vậy chẳng khác gì sử dụng con dao hai lưỡi và gần như chưa có khi nào thấy nhà nước bị thua. Không phải Kreuger không ý thức được điều đó, nhưng nhà đầu cơ này tin vào bản lĩnh của mình và dựa vào đánh giá của mình là nhà nước không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải dựa vào kế hoạch tài chính của Kreuger.

Không phải anh ta hoàn toàn không có lý. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các quốc gia ở Châu Âu rất thiếu tiền trong khi ở bên kia Đại Tây Dương lại dư giả rất nhiều tiền. Nhưng cung và cầu không gặp được nhau vì khoảng cách địa lý, thiếu thông tin và thiếu trung gian môi giới đáng tin cậy. Kreuger phát hiện ra điều đó và hình thành một chiến lược kinh doanh rất đơn giản: Kreuger đứng ra vay tiền ở Mỹ dưới dạng tiền hoặc trái phiếu - vì là một doanh nhân thành đạt nên các ngân hàng ở Mỹ rất tin tưởng – rồi sau đó cho chính phủ ở nhiều quốc gia Châu Âu vay. Đổi lại, các chính phủ này dành cho Kreuger độc quyền về sản xuất và tiêu thụ diêm. Cứ như vậy, Kreuger vay được rất nhiều tiền và giành được độc quyền về diêm ở nhiều quốc gia Châu Âu, chiếm lĩnh ba phần tư thị trường diêm thế giới. Tổng số tiền Kreuger cho chính phủ các nước vay lên tới 387 triệu USD ngày ấy, tương đương với 30 tỷ euro ngày nay - bằng số tiền mà cả EU đang huy động để cứu trợ Hy Lạp, trong đó có nước Đức với 125 triệu USD, Pháp 75 triệu USD, Hungari với 36 triệu USD và Ba Lan với 32,4 triệu USD. Ở thời đỉnh điểm, tập đoàn của Kreuger có tới 400 công ty con, không chỉ trong ngành sản xuất diêm, mà còn cả trong xây dựng, sản xuất giấy, luyện kim. Kreuger có rất nhiều bất động sản và thậm chí còn sở hữu cả ngân hàng.

Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên

Xưa nay “chơi bạc” với nhà nước chẳng khác gì sử dụng con dao hai lưỡi và gần như chưa có khi nào thấy nhà nước bị thua

Nhưng đúng ở đời này, người tính không bằng trời tính. Kreuger nắm bắt được nhu cầu cho vay tiền của các ngân hàng ở Mỹ và đầu cơ vào nhu cầu cần tiền của các chính phủ ở Châu Âu. Chiến lược của Kreuger tưởng rất hoàn hảo mà lại đầy rủi ro. Điều mà nhà đầu cơ này không tính được hết và không lường được trước là nhà nước rất muốn vay và có thể vay tiền bằng mọi giá nhưng nếu nhà nước không muốn trả lại hoặc không có khả năng trả lại thì Kreuger chẳng thể làm gì nhà nước được.

Cụ thể, các chính phủ muốn vay tiền, nhưng lại không muốn mua số trái phiếu mà Kreuger phát hành cho các ngân hàng ở Mỹ. Rồi cuộc đại khủng hoảng kinh tế trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20 cũng bất ngờ và rất tai hại. Trong bối cảnh ấy và dưới tác động của cuộc khủng hoảng ấy, độc quyền về sản xuất và tiêu thụ diêm mà Kreuger có được chẳng giúp Kreuger kiếm được nhiều lời lãi đến mức có thể trả được những khoản nợ mà lẽ ra các chính phủ phải trả.

Tình thế của Kreuger ngày càng thêm khó khăn. Kreuger buộc phải sử dụng phương cách cổ điển mà rất đắc dụng từ trước tới tận ngày nay để che giấu thua lỗ là gian lận sổ sách. Trong suốt thời gian khá dài, Kreuger đã lừa dối các chủ nợ của mình bằng cách ấy. Họ có chút nghi ngờ, nhưng chưa hẳn đã mất hết lòng tin vì dù sao ngành sản xuất diêm vẫn đang sinh lãi. Kreuger là khách hàng lớn của họ. Và Kreuger lại rất kín đáo và tế nhị, rất khôn khéo và biết cách thuyết phục. Một trong những triết lý kinh doanh của Kreuger mà ông ta biến thành câu cửa miệng là: “Im lặng, im lặng nhiều hơn, im lặng nhiều hơn nữa”. Nhưng nước dù có nhỏ từng giọt xuống thì rồi cũng sẽ đến lúc có giọt làm tràn cốc. Đầu tháng 3.1932, các chủ nợ của Kreuger tụ tập ở Paris và triệu Kreuger từ Mỹ sang Paris để làm rõ đen trắng mọi chuyện. Sáng ngày 12.3.1932, trong khi họ ngồi chờ Kreuger trong một khách sạn ở Paris thì người cộng sự thận cận nhất của Kreuger phát hiện ra Ivar Kreuger đã chết bởi một phát súng lục bắn từ dưới cằm lên. Khẩu súng còn ở ngay cạnh đó.

Kreuger tự tử hay bị sát hại - câu hỏi đó vẫn chưa ai trả lời nổi cả sau gần 80 năm. Nhiều giải thiết đã được đặt ra. Thị trường chứng khoán bị chấn động và dư luận đồn thổi đủ mọi chuyện khác nhau. Chỉ biết rằng khoản tiền mà Kreuger phải trả cho các chủ nợ ở thời điểm đó vào khoảng 1 tỷ USD. Những chính phủ nợ tiền của Kreuger đều im hơi lặng tiếng như thể chẳng dính líu gì. Tin tức về cái chết của Kreuger được bưng bít trong thời gian nửa ngày - đủ để đa số những cổ phiếu của tập đoàn này được bán đi trước khi chúng bị sụt giá thê thảm. Cái chết của Kreuger đồng nghĩa với sự sụp đổ của toàn bộ tập đoàn này. Con người được mệnh danh là “Vua diêm” hay “Nhà đầu cơ đánh bạc với nhà nước” này không có gia đình riêng, mất hết cả những gì người cha gây dựng nên được, lại còn bị tạp chí Time Magazine coi là “kẻ dối trá lớn nhất thế giới”. Trong một Enzyklika - tuyên cáo quan điểm và chính sách - , Giáo hoàng ngày ấy là Pius XI đã đề cập đến Ivar Kreuger với câu: “Tình yêu đồng tiền là gốc rễ của mọi cái xấu xa”. Không biết ở thế giới bên kia, nhà đầu cơ nổi tiếng và tai tiếng này ngẫm nghĩ như thế nào về câu đó.

xuanduongb2s
16-10-2012, 03:25 PM
Bài viết rất hay, nhưng liệu có áp dụng ở nước Việt Nam không ? Đó vẫn là một câu hỏi chưa có đáp án chính xác.
Ivar Kreuger - Số phận bi tráng và hào hùng của một nhà đầu cơ

Đã có nhà đầu cơ nào sử dụng cả nhà nước, mà lại không chỉ ở một quốc gia, để đầu cơ? Đã có nhà đầu cơ nào được Giáo Hoàng - người đứng đầu Nhà thờ Thiên Chúa giáo - dùng làm ví dụ để răn dạy con chiên của Chúa? Có đấy, nhưng đó chỉ có thể là Ivar Kreuger.

http://www.doanhnhan.net/Resources/Data/News/huyenct/th%C3%A1ng%2011/27/U538719INP.png

Trong thế giới đầu cơ có không ít tráng ca và cũng đầy bi kịch. Số phận của nhà đầu cơ người Thụy Điển Ivar Kreuger hội tụ đủ cả hai phần ấy. Trong nhân gian, con người tự tìm đến cái chết bởi nhiều động cơ khác nhau. Trong trường hợp Ivar Kreuger thì nguyên cớ xô đẩy đến cái chết liên quan mật thiết đến đầu cơ tới mức có thể coi đó là chuyện sinh nghề, tử nghiệp.

Que diêm làm nên sự nghiệp

Ivar Kreuger sinh ngày 2.3.1880 ở Kalmar (Thụy Điển). Thật ra thì dòng họ Kreuger từ Mecklenburg (nước Đức ngày nay) di cư sang Thụy Điển từ thế kỷ 17. Cha của Ivar là chủ một hãng sản xuất diêm. Ivar Kreuger học rất giỏi và trở thành kỹ sư xây dựng năm mới có 20 tuổi. Chàng thanh niên này bôn ba gần như khắp thế giới để chứng tỏ tài năng với việc xây dựng nhiều công trình khách sạn, nhà ở và công xưởng ở Mỹ, Nam Phi, Anh, Ấn Độ và Mexico.

Khoảng cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ trước, Kreuger trở về Thụy Điển và cùng với người bạn là Paul Toll thành lập công ty xây dựng Kreuger & Toll. Năm 1913, Kreuger tiếp quản công ty của người cha. Sản xuất diêm khi ấy là một ngành rất phát triển. Cho tới thời điểm ấy, đầu cơ là khái niệm hoàn toàn xa lạ đối với anh chàng kỹ sư xây dựng này. Ivar Kreuger tiếp tục phát triển và bành trướng công ty sản xuất diêm của người cha. Nhưng nếu như chỉ có như vậy thôi thì Ivar Kreuger đâu có đến nỗi phải sinh nghề tử nghiệp.

Điều giúp Ivar Kreuger trở nên nổi tiếng thế giới và về sau cũng khiến con người này thân bại danh liệt là việc dấn thân vào thế giới tài chính. Không biết có phải vì tò mò hay bởi muốn thể hiện, không rõ có phải vì cầu danh hay cầu lợi mà Kreuger đã biến cuộc chơi trong thế giới tài chính thành cuộc chơi của cuộc đời mình. Mục tiêu của Kreuger rất rõ ràng: dùng tiền để mua về độc quyền sản xuất và tiêu thụ diêm ở các nước khác. Độc quyền đó sẽ đem lại cho Kreuger lợi nhuận khổng lồ, những mối quan hệ cần thiết phải có trong giới chính trị và kinh tế ở các nước khác để rồi tiền và quan hệ sẽ lại giúp củng cố độc quyền đã có. Nghe thì đơn giản như vậy, nhưng thực chất thì việc đó chẳng khác gì đầu cơ vào nhà nước, thao túng quyền lực của nhà nước. Bản chất toàn bộ hoạt động đầu cơ trong sự nghiệp của Ivar Kreuger là một cuộc chơi bạc với nhà nước. Xưa nay, chơi với nhà nước như vậy chẳng khác gì sử dụng con dao hai lưỡi và gần như chưa có khi nào thấy nhà nước bị thua. Không phải Kreuger không ý thức được điều đó, nhưng nhà đầu cơ này tin vào bản lĩnh của mình và dựa vào đánh giá của mình là nhà nước không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải dựa vào kế hoạch tài chính của Kreuger.

Không phải anh ta hoàn toàn không có lý. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các quốc gia ở Châu Âu rất thiếu tiền trong khi ở bên kia Đại Tây Dương lại dư giả rất nhiều tiền. Nhưng cung và cầu không gặp được nhau vì khoảng cách địa lý, thiếu thông tin và thiếu trung gian môi giới đáng tin cậy. Kreuger phát hiện ra điều đó và hình thành một chiến lược kinh doanh rất đơn giản: Kreuger đứng ra vay tiền ở Mỹ dưới dạng tiền hoặc trái phiếu - vì là một doanh nhân thành đạt nên các ngân hàng ở Mỹ rất tin tưởng – rồi sau đó cho chính phủ ở nhiều quốc gia Châu Âu vay. Đổi lại, các chính phủ này dành cho Kreuger độc quyền về sản xuất và tiêu thụ diêm. Cứ như vậy, Kreuger vay được rất nhiều tiền và giành được độc quyền về diêm ở nhiều quốc gia Châu Âu, chiếm lĩnh ba phần tư thị trường diêm thế giới. Tổng số tiền Kreuger cho chính phủ các nước vay lên tới 387 triệu USD ngày ấy, tương đương với 30 tỷ euro ngày nay - bằng số tiền mà cả EU đang huy động để cứu trợ Hy Lạp, trong đó có nước Đức với 125 triệu USD, Pháp 75 triệu USD, Hungari với 36 triệu USD và Ba Lan với 32,4 triệu USD. Ở thời đỉnh điểm, tập đoàn của Kreuger có tới 400 công ty con, không chỉ trong ngành sản xuất diêm, mà còn cả trong xây dựng, sản xuất giấy, luyện kim. Kreuger có rất nhiều bất động sản và thậm chí còn sở hữu cả ngân hàng.

Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên

Xưa nay “chơi bạc” với nhà nước chẳng khác gì sử dụng con dao hai lưỡi và gần như chưa có khi nào thấy nhà nước bị thua

Nhưng đúng ở đời này, người tính không bằng trời tính. Kreuger nắm bắt được nhu cầu cho vay tiền của các ngân hàng ở Mỹ và đầu cơ vào nhu cầu cần tiền của các chính phủ ở Châu Âu. Chiến lược của Kreuger tưởng rất hoàn hảo mà lại đầy rủi ro. Điều mà nhà đầu cơ này không tính được hết và không lường được trước là nhà nước rất muốn vay và có thể vay tiền bằng mọi giá nhưng nếu nhà nước không muốn trả lại hoặc không có khả năng trả lại thì Kreuger chẳng thể làm gì nhà nước được.

Cụ thể, các chính phủ muốn vay tiền, nhưng lại không muốn mua số trái phiếu mà Kreuger phát hành cho các ngân hàng ở Mỹ. Rồi cuộc đại khủng hoảng kinh tế trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20 cũng bất ngờ và rất tai hại. Trong bối cảnh ấy và dưới tác động của cuộc khủng hoảng ấy, độc quyền về sản xuất và tiêu thụ diêm mà Kreuger có được chẳng giúp Kreuger kiếm được nhiều lời lãi đến mức có thể trả được những khoản nợ mà lẽ ra các chính phủ phải trả.

Tình thế của Kreuger ngày càng thêm khó khăn. Kreuger buộc phải sử dụng phương cách cổ điển mà rất đắc dụng từ trước tới tận ngày nay để che giấu thua lỗ là gian lận sổ sách. Trong suốt thời gian khá dài, Kreuger đã lừa dối các chủ nợ của mình bằng cách ấy. Họ có chút nghi ngờ, nhưng chưa hẳn đã mất hết lòng tin vì dù sao ngành sản xuất diêm vẫn đang sinh lãi. Kreuger là khách hàng lớn của họ. Và Kreuger lại rất kín đáo và tế nhị, rất khôn khéo và biết cách thuyết phục. Một trong những triết lý kinh doanh của Kreuger mà ông ta biến thành câu cửa miệng là: “Im lặng, im lặng nhiều hơn, im lặng nhiều hơn nữa”. Nhưng nước dù có nhỏ từng giọt xuống thì rồi cũng sẽ đến lúc có giọt làm tràn cốc. Đầu tháng 3.1932, các chủ nợ của Kreuger tụ tập ở Paris và triệu Kreuger từ Mỹ sang Paris để làm rõ đen trắng mọi chuyện. Sáng ngày 12.3.1932, trong khi họ ngồi chờ Kreuger trong một khách sạn ở Paris thì người cộng sự thận cận nhất của Kreuger phát hiện ra Ivar Kreuger đã chết bởi một phát súng lục bắn từ dưới cằm lên. Khẩu súng còn ở ngay cạnh đó.

Kreuger tự tử hay bị sát hại - câu hỏi đó vẫn chưa ai trả lời nổi cả sau gần 80 năm. Nhiều giải thiết đã được đặt ra. Thị trường chứng khoán bị chấn động và dư luận đồn thổi đủ mọi chuyện khác nhau. Chỉ biết rằng khoản tiền mà Kreuger phải trả cho các chủ nợ ở thời điểm đó vào khoảng 1 tỷ USD. Những chính phủ nợ tiền của Kreuger đều im hơi lặng tiếng như thể chẳng dính líu gì. Tin tức về cái chết của Kreuger được bưng bít trong thời gian nửa ngày - đủ để đa số những cổ phiếu của tập đoàn này được bán đi trước khi chúng bị sụt giá thê thảm. Cái chết của Kreuger đồng nghĩa với sự sụp đổ của toàn bộ tập đoàn này. Con người được mệnh danh là “Vua diêm” hay “Nhà đầu cơ đánh bạc với nhà nước” này không có gia đình riêng, mất hết cả những gì người cha gây dựng nên được, lại còn bị tạp chí Time Magazine coi là “kẻ dối trá lớn nhất thế giới”. Trong một Enzyklika - tuyên cáo quan điểm và chính sách - , Giáo hoàng ngày ấy là Pius XI đã đề cập đến Ivar Kreuger với câu: “Tình yêu đồng tiền là gốc rễ của mọi cái xấu xa”. Không biết ở thế giới bên kia, nhà đầu cơ nổi tiếng và tai tiếng này ngẫm nghĩ như thế nào về câu đó.

tradingpro8x
17-10-2012, 08:20 AM
Một điều chắc chắn là không thể áp dụng triệt để 100% được vì thể chế và luật pháp cũng như yếu tố lịch sử rất khác nhau. Tuy nhiên mình thấy có một ý hoàn toàn có thể học hỏi được ngay: Xưa nay “chơi bạc” với nhà nước chẳng khác gì sử dụng con dao hai lưỡi và gần như chưa có khi nào thấy nhà nước bị thua

Sự phá sản của nhiều doanh nghiệp bị chính quyền địa phương thiếu nợ nhưng không trả hiện nay là một thí dụ vô cùng điển hình

tradingpro8x
18-10-2012, 08:06 AM
Hetty Green - Mụ phù thủy Phố Wall

http://www.newyorksocialdiary.com/i/socialhistory/hettygreen/hetty_green-1.jpg

Thế giới đầu tư tài chính khắc nghiệt, đặc biệt là ở Phố Wall, dường như lâu nay chỉ dành cho đàn ông. Thế nhưng, có một phụ nữ đã ghi danh của mình tại đây từ rất sớm.
Thế giới đầu tư tài chính khắc nghiệt, đặc biệt là ở Phố Wall, dường như lâu nay chỉ dành cho đàn ông. Thế nhưng, có một phụ nữ đã ghi danh của mình tại đây từ rất sớm.

Hetty Green là người phụ nữ duy nhất trong hai trăm năm đầu tiên của lịch sử nước Mỹ thành đạt trong thế giới Phố Wall
Đầu thế kỷ 20, ở nước Mỹ có một bài hát rất được ưa chuộng về một người phụ nữ không được ưa chuộng. Đó là bài hát “If I were as rich as Hetty Green” (tạm dịch là: Giá tôi giàu như Hetty Green). Tên của bà không chỉ đơn thuần là Hetty Green, mà còn luôn đi cùng với một biệt danh. Biệt danh đó cũng độc nhất vô nhị: Mụ phù thủy Phố Wall. Ở Phố Wall, số người thành công và có cá tính không ít, nhưng chỉ có một phù thủy.

Bài hát ấy và cái biệt danh ấy đủ để khái quát toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp kinh doanh, đầu cơ của bà. Bà được coi là người phụ nữ giàu nhất thế giới và cũng bị ghét, bị ganh tỵ nhất thế giới. Bà nổi tiếng về tài đầu cơ, về khả năng kiếm tiền, nhưng đồng thời cũng cả về tính tiết kiệm đến keo kiệt bủn xỉn. Bà là hiện thân của khá nhiều nghịch lý ở nước Mỹ và trong thế giới đầu cơ thời đó. Ngày nay, ở nước Mỹ có không ít công trình công cộng và nhân đạo mang tên bà, cho dù cái biệt danh nói trên đã bị thời gian phủ bụi đến mức chỉ còn thoang thoảng như một giai thoại trong lịch sử Phố Wall.

Có thể nói, Hetty Green là người phụ nữ duy nhất trong hai trăm năm đầu tiên của lịch sử nước Mỹ thành đạt trong thế giới Phố Wall – nơi đến tận bây giờ vẫn được coi là chỉ dành cho đàn ông là chính. Cho dù mức độ giàu có ngày càng tăng, nhưng Hetty Green vẫn chỉ luôn vận bộ váy áo cũ, luôn ăn ở tiệm ăn rẻ tiền với món ăn rẻ tiền, ở thuê trong căn hộ thuộc loại xoàng xĩnh cho dù sở hữu không biết bao nhiêu bất động sản. Nét mặt bà luôn nghiêm nghị, khó chịu và rất hiếm khi thấy bà cười. Tạp chí Broadway Magazine bầu bà là “người phụ nữ ít hạnh phúc nhất”. Bà đam mê kiếm tiền và kiếm được rất nhiều tiền, nhưng gần như lại không sử dụng số tiền ấy cho chính mình. Tài kiếm tiền, tính tiết kiệm thái quá và diện mạo bề ngoài là gốc rễ của cái biệt danh nói trên.

Những gì hậu thế kể về bà đều giống như huyền thoại, không biết cái gì là thật và cái gì chỉ là lưu truyền. Thông tin về bà hiện tại không thống nhất, thậm chí còn có phần trái ngược nhau, làm cho chuyện về bà càng thêm bí hiểm. Chẳng hạn như việc bà có được hay không được thừa kế khoản tiền hơn 7 triệu USD của cha cũng chẳng bao giờ có thể được xác minh rõ.

Chỉ biết rằng Henrietta Howland Robinson Green, tên họ khai sinh là Robinson, tên gọi thân mật là Hetty sinh ngày 21-11-1834 ở New Bedford/Massachusetts, mất ngày 3-7-1916 ở New York City. Bố mẹ bà là chủ của một hạm đội tàu thuyền săn cá voi và là triệu phú. Năm lên sáu, Hetty đã đọc báo chí kinh tế và đã mở tài khoản riêng, năm 13 tuổi đã phụ trách toàn bộ mảng việc kế toán trong công ty của bố mẹ, hay nói cách khác, bà liên quan đến tiền và chứng khoán từ rất sớm. Bố bà mất năm 1846. Có người cho rằng bà được thừa kế tài sản của bố, có người lại bảo bà chỉ được hưởng khoản tiền hàng tháng nhất định. Điều chắc chắn là năm 1868, Hetty chuyển sang nước Anh và kết hôn với triệu phú Edward Green. Họ có với nhau một con trai và một con gái.

Nước Anh cũng là nơi bà thành công với phi vụ đầu cơ đầu tiên: mua trái phiếu chính phủ Mỹ. Thời đó, chính phủ Mỹ của tổng thống Abraham Lincoln trang trải tài chính cho cuộc nội chiến bằng phát hành trái phiếu chính phủ. Năm 1865, nội chiến kết thúc nhưng gần như tất cả - trừ Hetty Green - các nhà đầu tư và đầu cơ đều không tin rằng chính phủ tuy thắng trận nhưng không thể phục hồi được kinh tế và phát triển đất nước. Vì thế, giá trái phiếu tiếp tục giảm. Hetty dùng tất cả tiền bạc mua về tất cả trái phiếu có thể mua được bất chấp mọi can ngăn, cười chê và nhạo báng. Và rồi chuyện xảy ra đúng như dự đoán của Hetty. Nước Mỹ không chỉ tái thống nhất mà còn dần phục hồi. Trái phiếu chính phủ Mỹ lại tăng giá, giúp cho Hetty trong vòng không đầy một năm kiếm được 1,25 triệu USD. Thành công đó còn giúp Hetty tự tin đủ mức để trở lại Mỹ với mục đích chinh phục Phố Wall.

Vụ đầu cơ nổi tiếng thứ hai của Hetty là đầu tư vào các công ty xe lửa ở Mỹ. Hetty cho rằng sau chiến tranh, nhu cầu tái thiết cơ sở hạ tầng rất lớn và cấp thiết mà xe lửa sẽ được dành ưu tiên hàng đầu. Hetty tập trung mua cổ phần hoặc đầu tư trực tiếp vào tất cả các hãng xe lửa, dù đó là xây dựng các tuyến đường sắt hay vận hành mạng lưới xe lửa trên khắp nước Mỹ. Kết quả là chỉ trong vòng có vài năm, Hetty tăng được gấp bốn lần số vốn bỏ ra.

Từ sau vụ này, Hetty Green chuyên tâm vào đầu cơ chứng khoán ở Phố Wall. Hàng ngày, người ta thấy Hetty trong bộ váy áo thường màu đen, nhàu cũ, đi bằng phương tiện giao thông công cộng từ căn hộ ở thuê đến Ngân hàng Chemical National Bank ở bên cạnh Phố Wall. Khi mua hay bán, khi nghiên cứu hay biết tin thắng đậm, người ta đều thấy nét mặt bà vẫn đăm đăm cau có, ít nói, hiếm khi cười. Hetty Green không liên minh, liên kết với ai, không đánh bóng tên tuổi mình bằng các hoạt động xã hội hay từ thiện như nhiều nhà triệu phú khác. Các con bà sau này dùng tiền bà để lại để làm từ thiện và các công trình phục vụ lợi ích cộng đồng tại quê hương bà. Để bất cứ lúc nào cũng có thể thực hiện thành công các phi vụ đầu tư và đầu cơ quy mô lớn, Hetty Green luôn trữ sẵn hàng chục triệu USD tiền mặt hoặc bất động sản dễ bán. Thành công của Hetty Green ở Phố Wall được coi là bằng chứng sống động nhất - mà từ cách đây hơn một thế kỷ - là phụ nữ cũng có thể đầu tư và đầu cơ hiệu quả chẳng kém gì đàn ông ở Phố Wall, và thế giới đầu cơ không phải là thế giới của riêng đàn ông. Khi qua đời vì bị nhồi máu cơ tim, bà để lại tài sản ngang bằng với John D. Rockefeller và J.P. Morgan. Nếu tính về giá trị của đồng tiền thì với số tiền đó ở thời điểm bây giờ, Hetty Green còn giàu hơn cả Warren Buffett.

Nổi tiếng không kém tài kinh doanh là những mẩu chuyện về tính tiết kiệm đến keo kiệt bủn xỉn của bà. Chẳng hạn như còn lưu truyền câu chuyện về việc bà thức trắng cả đêm để tìm một cái tem 20 xu, về bà không cho đốt nến cắm trên bánh sinh nhật lần thứ 21 mà gỡ ra cất đi để dùng cho sinh nhật lần sau, về chỉ dùng 200 USD trong số tiền 1.200 USD bố cho để mua váy mặc trong lễ trưởng thành, về chỉ chi 30 xu cho một bữa ăn, về uống sữa lạnh để tiết kiệm tiền khí bếp. Nhưng nổi tiếng nhất là chuyện khi cậu con trai đi trượt tuyết bị tai nạn, bà không cho đi chữa chạy trong bệnh viện tốt nhất mà chỉ đến bệnh viện dành cho người nghèo để tiết kiệm, với kết quả là cậu ta bị nhiễm trùng tới mức phải cưa chân. Bà tự biện minh cho mình bằng lập luận rằng, ở nơi đó không mất tiền thật nhưng đâu phải vì thế mà việc chữa chạy không tốt. Người ta cũng còn kể lại câu chuyện có lần một cô gái lấy hết can đảm để hỏi bà làm thế nào để trở nên giàu có như bà. Hetty Green nhìn cô gái trẻ như quan tòa nhìn tội phạm rồi nói: “Bằng cách đừng bỏ nhiều tiền ra mua quần áo như cháu”. Cái biệt danh nổi tiếng “Mụ phù thủy Phố Wall” bao hàm sự nể phục và ganh tỵ, ghen ăn tức ở của các đồng nghiệp nhưng cũng còn bởi những cá tính của chính bà.

Không phải ai khác mà chính bà đã tổng kết bí quyết thành công của mình như sau: “Tôi mua vào khi chứng khoán rẻ và chẳng ai muốn mua chúng. Tôi giữ chúng lại cho tới khi giá chúng tăng cao và ai cũng muốn mua chúng”. Nghe thì thật đơn giản và đúng là bản chất của đầu cơ, nhưng mấy ai đã làm được như vậy. Chắc chắn chỉ có phù thủy thì mới làm lần nào thắng lần ấy - như Hetty Green.

tradingpro8x
20-10-2012, 06:05 PM
John Law: Cứu nhân hay tội đồ?

http://www.doanhnhan.net/Resources/Data/News/huyenct/th%C3%A1ng%2011/30/JohnLaw1.png

Nếu như vào năm 1997, George Soros được cho là gắn liền với sự điêu đứng của nhiều nền kinh tế châu Á, thì cách đó gần 300 năm, nước Pháp đã phải điêu đứng vì một tội đồ tài năng.
Nếu như vào năm 1997, George Soros được cho là gắn liền với sự điêu đứng của nhiều nền kinh tế châu Á, thì cách đó gần 300 năm, nước Pháp đã phải điêu đứng vì một tội đồ tài năng.

John Law với thân thế khá đặc biệt đã làm khuynh đảo cả nền kinh tế và hệ thống tài chính tiền tệ của nước Pháp trong thế kỷ 18

Trong thế kỷ 18, ở nước Pháp xảy ra chuyện có một không hai trong lịch sử: một người nước ngoài, mà lại là một tội phạm của nước Anh người Scotland, được tin dùng và có quyền thế tới mức làm khuynh đảo cả nền kinh tế và hệ thống tài chính tiền tệ của đất nước. Đó là John Law, một lý thuyết gia về tài chính tiền tệ, một trong những tác giả đầu tiên của đồng tiền giấy, một nhà phát minh ra nhiều sản phẩm tài chính và đồng thời là một nhà đầu cơ quy mô và liều lĩnh hiếm thấy so với không chỉ đương thời mà cả với hiện tại.

John Law sinh năm 1671, là con thứ năm trong một gia đình làm nghề kim hoàn và kinh doanh cho vay tiền ở Edingburgh. Năm 17 tuổi ông đã đến học ở London và ngay từ thời đó đã là một tay cờ bạc có tiếng. Nhờ khả năng tính toán và suy xét rất nhanh, quyết đoán, chịu khó nghiên cứu và quan sát tỷ mỷ, John Law tích lũy được từ rất sớm những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho các phi vụ đầu cơ sau này.

Đẹp trai, to cao (cao 1,80 m), khỏe mạnh, ăn vận sang trọng, cử chỉ và thái độ lịch thiệp, lại chơi bạc rất tài, John Law không chỉ giỏi chinh phục phụ nữ mà còn được phụ nữ rất ngưỡng mộ, nhiều mệnh phụ phu nhân theo đuổi, nhưng các đức ông chồng lại thù ghét và cánh đàn ông thì ganh tỵ. Một trong số những ông chồng bị cắm sừng là Beau Wilson đã thách thức John Law đấu kiếm và đã bị tử nạn. John Law bị buộc tội giết người và kết tội bị treo cổ. Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm trên cơ sở kháng án, John Law vượt ngục chạy sang châu Âu lục địa, bôn ba và học ở nhiều nước Châu Âu, sau đó trở về Scotland - lúc đó còn độc lập, và lại chạy sang châu Âu lục địa trước khi Scotland bị sáp nhập vào Anh để tránh bị trị tội.

Ngay từ năm 1705, Law đã công bố tác phẩm duy nhất và đồng thời cũng mang lại danh tiếng cho ông: “Quan sát tiền tệ và thương mại cùng với một khuyến nghị kiếm tiền cho quốc gia”. Law có nhiều quan điểm táo bạo và thức thời, nhưng đều không được các chính phủ sử dụng. Law là kẻ thù không đợi trời chung của đồng tiền kim loại quý được lưu hành (bằng bạc hoặc vàng) và là tín đồ của tiền giấy.

Law cho rằng, để phát triển kinh tế, quốc gia nào cũng cần tiền. Nhưng vì vàng và bạc đều thuộc loại hiếm, không thể là vô tận nên cần sử dụng loại tiền giấy. Law đề xướng một mô hình hệ thống tài chính, tín dụng và ngân hàng trên cơ sở đồng tiền giấy được đảm bảo bằng đất đai. Ngay từ thời đó, Law đã nhận ra được tầm quan trọng mang tính quyết định của hệ thống ngân hàng và tín dụng đối với sự phát triển kinh tế và kinh doanh của doanh nghiệp. Thế nhưng, phải mãi 200 năm sau mới có người tiếp tục phát triển ý tưởng đó của ông.

Paris là nơi phát tích của John Law. Nhờ tài đánh bạc, Law trở nên rất giàu, thậm chí còn được cho rằng là người giàu nhất thế giới. Nhưng đánh bạc chỉ là năng khiếu và công việc thường nhật, không phải tham vọng cuộc đời của Law. Ông muốn thực hiện những tư tưởng của mình và để đạt được mục tiêu đó thì cần phải có quyền lực, hoặc thân quen với thế lực có quyền lực. Nước Pháp thời ấy là nơi thích hợp hơn cả.

Vua Pháp Ludwig XVI (1638-1715) nổi tiếng về ăn chơi xa xỉ, sau khi qua đời để lại khoản nợ 2,8 tỷ Livres. Bá tước Orleans, người chấp chính thay cho vua mới, tìm cách giải quyết khoản nợ này không thành công. Đó chính là thời điểm Law được giới thiệu tiếp kiến bá tước Orleans. Có thể bá tước Orleans tin tưởng Law, cũng có thể ông ta không còn sự lựa chọn nào khác khi chấp nhận khuyến nghị của Law: “Tôi có một kế hoạch sẽ khiến cả Châu Âu phải ngạc nhiên. Nó sẽ làm thay đổi nước Pháp. Sự thay đổi này còn sâu sắc hơn cả việc phát hiện ra Châu Mỹ hay đưa vào sử dụng công cụ tài chính tín dụng”.

Đề nghị đầu tiên của Law là được thành lập một ngân hàng tư nhân nhưng có quyền phát hành tiền giấy, đó là ngân hàng Banque Generale, ngân hàng đầu tiên ở Pháp, sau này đổi tên thành Banque Royal sau khi được nhà nước mua lại. Tiền giấy do ngân hàng Banque Generale phát hành được đảm bảo bằng cam kết của nhà nước và được người Pháp tin dùng. Để hỗ trợ cho việc chấp nhận và sử dụng tiền giấy, Law thuyết phục được bá tước Oreans áp dụng biện pháp hành chính: không sử dụng tiền kim loại nữa mà thay thế bằng tiền giấy. 250 năm sau, chính phủ Mỹ cũng áp dụng đúng mô hình này khi quyết định hủy bỏ chế độ bản vị vàng của đồng đô-la Mỹ (năm 1973).

Đề nghị thứ hai của Law và cũng là thành phần thứ hai trong hệ thống tài chính của Law là thành lập Công ty Occident, một công ty thương mại có quyền quản lý và khai thác tài nguyên của vùng hạ lưu sông Mississipi (bang Louisiana ngày nay của Mỹ). Law cho rằng, ở đó có rất nhiều vàng cho dù không có trong tay bằng chứng xác thực và Law phát minh ra cái gọi là “cổ phiếu nhân dân”. Bất kể người dân Pháp nào cũng đều có thể mua cổ phiếu của Occident. Công ty phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho việc khai thác vàng ở Louisiana, như vậy triển vọng cổ tức rất sáng sủa. Mệnh giá cổ phiếu là 500 Livres.

Dân Pháp, từ người có học đến vô học, từ quý tộc đến gia nhân, từ chính trị gia đến nông dân, đổ xô đi mua cổ phiếu. Họ chẳng hề quan tâm đến một thực tế là, ở Louisiana khi đó chỉ có khoảng 500 người Pháp và 500 người da đỏ. Cổ phiếu này được ưa chuộng tới mức giá của nó có lúc lên tới 12.000 Livres/cổ phiếu. Law không chỉ lạm dụng lòng tin của triều đình mà còn khai thác triệt để tính hám lợi của con người. Law rất thành công trong việc khắc đậm vào đầu óc các nhà đầu tư rằng, có thể làm giàu không chỉ bằng lao động chăm chỉ mà còn cả bằng đầu cơ. Làn sóng đầu cơ này đã phá tan những xiềng xích xã hội ở Pháp và khơi dậy ước vọng kiếm được tiền, trở nên giàu có một cách nhanh chóng.

Khi biết ở Louisiana không có vàng, Law tìm cách trấn an cổ đông để kéo dài thời gian, trong đó có cách tập hợp người ăn mày, cho vác cuốc xẻng đi từ trung tâm Paris ra cảng La Roche - bến cảng đi sang Mỹ - để tạo ấn tượng công ty đang làm ăn phát đạt. Thế nhưng, cổ đông không thể chờ mãi. Họ thất vọng và giận dữ, tranh nhau bán tống bán tháo cổ phiếu. Tháng 2 năm 1720, hệ thống tài chính của Law bị sụp đổ, làn sóng đầu cơ cổ phiếu ở Pháp lắng xuống. Tháng 11 năm ấy, đồng tiền giấy và cả ngân hàng đều bị xóa sổ, nước Pháp đưa vào sử dụng lại đồng tiền kim loại. Cho tới cuối đời, Law vẫn tin vào học thuyết và hành động của mình, cho rằng mình là nạn nhân của các âm mưu lật đổ, chống đối của những kẻ ghen ăn tức ở. Law chạy trốn sang Venice (Italia), lại kiếm tiền bằng trò cờ bạc và chết tại đây vào tháng 2 - 1729 vì viêm phổi.

Law là bằng chứng đầu tiên về việc: người ta có thể kiếm được rất nhiều tiền, nhưng cũng có thể bị mất hết vì đầu cơ. Ông đã làm thay đổi xã hội Pháp đến mức thi hào Voltaire trong “Tùy bút về thương mại và xa xỉ” đã coi Law là “số phận của nước Pháp”. Cũng có không ít ý tưởng của Law mà mãi nhiều thế kỷ sau hậu bối mới thấy hết giá trị. Vì thế, cuộc tranh luận Law là cứu nhân hay lừa đảo ở nước Pháp thời ấy vẫn còn kéo dài đến ngày nay.

tradingpro8x
27-10-2012, 08:18 AM
Lý Gia Thành: Từ cậu bé mồ côi trở thành ‘siêu tỉ phú’

Lý Gia Thành - một cái tên không còn xa lạ, đặc biệt là đối với những người làm kinh doanh. Từ một người làm công cho công ty sản xuất đồng hồ, đến một nhân viên chào hàng cho nhà máy sản xuất đồ nhựa, Lý Gia Thành bằng tài năng “siêu nhân” cùng sự cố gắng không biết mệt mỏi, đã từng bước tạo dựng được cho mình một thương hiệu riêng biệt.
Lý Gia Thành - một cái tên không còn xa lạ, đặc biệt là đối với những người làm kinh doanh. Từ một người làm công cho công ty sản xuất đồng hồ, đến một nhân viên chào hàng cho nhà máy sản xuất đồ nhựa, Lý Gia Thành bằng tài năng “siêu nhân” cùng sự cố gắng không biết mệt mỏi, đã từng bước tạo dựng được cho mình một thương hiệu riêng biệt .

http://www.doanhnhan.net/Resources/Data/News/huyenct/th%C3%A1ng%2011/26/b28lygiathanh.png

“Siêu tỉ phú” là danh hiệu mà người hâm mộ dành cho Lý Gia Thành. Vậy bí quyết nào đã giúp ông đạt được những thành công như thế?
Có rất nhiều lí do tạo nên sự thành công trong sự nghiệp kinh doanh của vị doanh nhân kiệt xuất này, trong đó hoàn cảnh cũng là một yếu tố cần bàn đến. Lý Gia Thành sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cha mất sớm, là con trai trưởng trong nhà, năm 14 tuổi cậu bé Lý Gia Thành đã sớm phải từ bỏ nghiệp học để lao vào kiếm sống, tuy nhiên với tố chất thiên bẩm của một người làm nên nghiệp lớn, Lý Gia Thành luôn chứng tỏ được bản lĩnh và ý chí cầu tiến mãnh mẽ của mình.

Những năm lăn lộn làm thuê kiếm sống, Lý Gia Thành đã chiêm nghiệm và tích lũy được vốn kinh nghiệm đáng kể trong nghề kinh doanh, công việc chào hàng là cơ hội để ông tiếp xúc với nhiều người, nhiều môi trường khác nhau, điều đó đã giúp ông rèn giũa được một trực giác nhạy bén và một tầm nhìn quán chiếu.

Để có được những thành công như ngày hôm nay ông đã phải lăn lộn, vất vả, trải qua nhiều chặng đường gian khổ khó khăn, từng bước khẳng định tên tuổi và thương hiệu trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của mình. Ở bất kì lĩnh vực nào, Lý Gia Thành cũng cho thấy một con người đầy bản lĩnh và quyền lực. Là một người có tài, ông luôn biết mở ra con đường mới dựa trên khă năng của bản thân, không ngại dấn thân vào những khó khăn gian khổ, ngược lại luôn lấy đó làm mảnh đất tốt để rèn luyện trí lực và tầm nhìn.

Trong quan niệm kinh doanh của Lý Gia Thành, ông cho rằng : phải luôn chứng mình được mình “mạnh” – đó mới là cái gốc để có được những “bạn chơi” tốt. Biết cân bằng bản thân trong mọi trường hợp, đồng thời học cách “luyện gan” để đủ sức đương đầu với khó khăn và thực hiện những mục đích lớn.

Khả năng dùng người cũng là một thế mạnh của ông. Lý Gia Thành luôn ý thức sâu sắc tài năng chính là thứ vốn quý, người làm kinh doanh giỏi chính là người biết phát huy tốt nhất tài năng của người dưới quyền, trọng dụng và tạo điều kiện để họ thể hiện hết năng lực. Chân thành, tin tưởng khiến họ luôn cảm thấy yên tâm mà dốc sức cho mục đích của doanh nhân. Mất đi lòng tin của cấp dưới đồng nghĩa với việc tự mình chặn đứt con đường tương lai của mình.

Cái đạo dùng người của Lý Gia Thành còn thể hiện ở chỗ khiến cho họ tự biết cái giá của sự trung thành, người thành thực bao giờ cũng có cơm ăn. Với ông, chân thành trong ứng xử đối với mọi người luôn là yếu tố quan trọng để “đắc nhân tâm”, xem họ như người thân “cùng hưởng lợi nhuận”, “thà mình chịu thiệt, không để thiệt người”, không dồn người khác vào con đường chết, đó là phương châm trong cách đối nhân xử thế, cũng là quan niệm trong kinh doanh của ông.

Biến sự trải nghiệp thành kinh nghiệm cũng là bài học được ông đúc rút lại trong suốt cuộc đời làm kinh doanh. Lý Gia Thành chính là sự kết hợp tuyệt vời giữa khả năng phân tích thị trường nhạy bén của phương Tây và phong cách giao dịch mềm dẻo nhưng chắc chắn của phương Đông. Ông cũng nổi tiếng vì sự giản dị, trung thực và thẳng thắn, cẩn trọng nhưng cũng liều lĩnh, thông minh và đầy tham vọng. Theo ông, người lãnh đạo là người luôn biết học hỏi để tự bồi dưỡng khă năng gánh vác những trách nhiệm nặng nề. Phải luôn nhận thức được việc gì đúng, việc gì sai, việc gì nên làm, việc gì không nên. Chỉ có như vậy mới tránh khỏi rơi vào những sai lầm đôi khi nghiêm trọng tới mức hủy diệt.

Với ông, may mắn ko phải là yếu tố ngẫu nhiên, may mắn cũng là sản phẩm của trí tuệ, và người khôn ngoan là người luôn biết chú ý đến “khi nào” chứ không phải là “làm thế nào” và “tại sao”, biết chớp thời cơ và tận dụng triệt để nó. Luôn phải giữ “cá tính” cho thương hiệu, đi con đường do mình tạo ra, đồng thời khẳng định được cái “đúng” của mình trong suy nghĩ của người khác. Kiên trì, nhẫn nại, nghiên cứu nắm vững xu thế phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu từ đó khiến người khác từ “tâm phục” đi tới “phục tùng”.

Một điều tối kị đối với người làm kinh doanh đó là nóng vội, bất kể làm việc gì Lý Gia Thành cũng suy xét rất kĩ lưỡng. Ông luôn biết lắng nghe ý kiến người khác. “Thiện mưu sự, tất thành công”, chỉ khi nào nhận thấy sự phán đoán của mình là xác đáng, khi đó mới nên hành động. Ngoài ra ông còn cho rằng đối với người làm kinh doanh, can đảm chính là vốn quý, phải biết cách nắm vững chữ “ổn”, không chuẩn bị, tất không lâm trận.

Một bài học nữa trong “đạo” làm kinh doanh của Lý Gia Thành đó là, biết dùng tiền của người khác để làm giàu cho mình, “trong biến loạn, nổi cơ đồ”. Nhiều khi sự bất ổn của xã hội lại tạo ra cái “lợi” của cá nhân. Điều quan trọng là : xây dựng được những chiến lược đầu tư hoàn hảo, biết cách tạo ra những cỗ máy “tiền đẻ tiền”.

Sự thành công hôm nay của Lý Gia Thành chính là một “minh chứng” cho triết lí kinh doanh của ông. Lý Gia Thành cho rằng: “Chỉ khi nào bản thân nhận thức rõ việc kiếm tiền không phải là chuyện dễ, lúc đó chúng ta mới trở thành một người có trí tuệ, mới thực sự thành công trong lao động. Danh lợi không phải là điều quan trọng nhất; làm kinh tế không có chữ tín sẽ không thành; sống lương thiện mới là nguồn tài nguyên dồi dào; bền bỉ là pháp bảo của giàu sang…”.

Lấy tư tưởng của người theo đạo Nho để quản lý doanh nghiệp; Lấy lòng từ thiện của người theo đạo Phật để đối xử với nhân tài; Lấy trạng thái tâm lý ổn định để phát triển sự nghiệp; Lấy tâm hồn gần gũi đối xử với đối thủ. Đó chính là sự đúc rút ngắn gọn mà Lí Gia Thành đã chiêm nghiệm bằng cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp làm kinh doanh của ông.

Trở thành giám đốc từ khi tuổi đời còn rất trẻ, trải qua nhiều gian truôn và từng bước xây dựng sự nghiệp kinh doanh của mình đạt đến đỉnh cao vinh quang như ngày hôm nay, ông đã phải đổ không ít công sức mồ hôi, thậm chí cả máu và nước mắt. Nắm giữ chức vụ cao nhất tại hai hai tập đoàn lớn là Hòa Ký Hoàng Phố và Trường Giang Thực Nghiệm, tham gia hoạt động kinh doanh trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng ở vào tuổi 82 Lý Gia Thành vẫn khao khát được cống hiến hết mình như thời trai trẻ.

Năm 2001, ông được Tạp chí Asiaweek bầu chọn là nhân vật quyền lực nhất châu Á.

Năm 2006, tại Singapo, Tạp chí Forbes trao tặng ông giải thưởng “Thành tựu trọn đời”, đây là giải thưởng tôn vinh những nhà kinh doanh xuất sắc và có cống hiến cả đời cho ngành kinh doanh.

Năm 2007, tạp chí nổi tiếng Forbes của Mỹ đã bầu chọn Lý Gia Thành là nhân vật thứ 9 giàu có nhất trên thế giới, với giá trị tài sản khoảng 23 tỷ USD.

Theo xếp hạng của Forbes năm 2008, Lý Gia Thành đứng thứ 11 trong những người giàu nhất thế giới với khối tài sản 26,5 tỉ USD.

Vẫn giữ vững “phong độ” như thế đến năm 2009, Lý Gia Thành tiếp tục nằm trong top 10 của danh sách này.

Ông trùm tư bản Lý Gia Thành đã xây dựng một đế chế đặt nền móng cho ngành thương mại Hồng Kông và góp phần giúp nơi này hội nhập với thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông giống như một cuốn phim dài tập chưa có hồi kết mà mỗi tập phim vị tỷ phú Hồng Kông lại mang đến những điều bất ngờ thú vị - đó là những dự án bạc tỷ và triết lý kinh doanh đầy xúc cảm của mình.

Người dân Hồng Kông gọi ông là siêu nhân, còn giới doanh nhân thế giới gọi ông là người có năng lực tuyệt vời, tầm nhìn xa và thành tựu siêu phàm. Tuy nhiên dù với cách gọi như thế nào thì điều đó cũng là để khẳng định những gì mà Lý Gia Thành đã làm được. Những quan niệm về “đạo” trong kinh doanh của ông sẽ luôn là một pho tri thức quý giá đáng được nghiên cứu đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người đam mê và yêu thích kinh doanh.

tradingpro8x
31-10-2012, 08:22 AM
Wolfgang Foettl - kẻ gây ra bê bối tài chính lớn nhất trong lịch sử nước Áo

http://www.doanhnhan.net/Resources/Data/News/huyenct/th%C3%A1ng%2011/21/21112.png

Cái tên Wolfgang Floettl gắn liền với vụ bê bối tài chính lớn nhất trong lịch sử nước Áo, đồng thời cũng là vụ án kinh tế lớn nhất từ trước tới nay ở nước này.


Trong thế giới đầu tư tài chính có không ít nhà đầu tư ghi danh sử sách nhờ những thương vụ đầu tư xuất chúng. Thế nhưng, cũng có những kẻ lưu manh muôn thuở bởi những vụ bê bối làm rung chuyển kinh tế thế giới.

Wolfgang Floettl nổi danh nhờ cha cấp tiền, che đậy cho tình trạng làm ăn lãi giả, lỗ thật sau khi thành lập quỹ đầu tư Ross Capital Markets

Trong thế giới đầu cơ thịnh trị một nguyên tắc bất thành văn: kẻ thắng được tất và người thua mất hết. Kẻ thắng không chỉ được lợi và danh, được quyền giáo huấn đối thủ và đối tác, được tôn thờ và ngưỡng mộ, mà gần như câu nói nào cũng được coi như chân lý. Người thua không chỉ khuynh gia bại sản và tai tiếng, phải cắn răng ngậm miệng chấp nhận sự nhạo báng, chê bôi của mọi người. Trong thế giới ấy, ranh giới giữa thành công và thất bại rất mong manh, giữa nổi tiếng và tai tiếng cũng vậy, giữa tột đỉnh vinh quang và vòng lao lý cũng thế, giữa được coi là thiên tài và bị nhìn nhận là cũng chẳng khác. Wolfgang Floettl là một ví dụ điển hình. Nhà đầu cơ người Áo này thuộc diện trứ danh trong thế giới đầu cơ không phải nhờ thành công mà là thất bại.

Cha nào con nấy

Nó đi vào lịch sử nước Áo như một vết nhơ mà chắc chắn phải mất khá nhiều thời gian nữa mới có thể xóa nhòa được. Vụ bê bối này đặt người Áo trước những câu hỏi về luân lý, đạo đức và luật pháp mà không thể dễ dàng có được câu trả lời thỏa đáng.

Vụ việc xảy ra với Ngân hàng Lao động và Kinh tế Áo (Bawag). Cái tên này có từ năm 1963. Từ khi được thành lập vào năm 1922 đến khi đổi tên thành Bawag, nó mang tên gọi “Ngân hàng Công nhân”, chủ sở hữu là Liên hiệp công đoàn Áo, với tiêu chí hoạt động là “hậu thuẫn cuộc đấu tranh giải phóng của giới thợ”. Vậy mà rồi nó biến dạng thành nơi cung cấp tiền cho các hoạt động đầu cơ. Quá trình ấy và kết cục bi thảm của nó là sản phẩm của hai cha con Walter Floettl và Wolfgang Floettl.

Các công đoàn viên Áo góp tiền lập nên ngân hàng này và họ đặt ra ba nhiệm vụ cho ngân hàng: cấp tín dụng với lãi suất thấp cho công nhân; trả lãi cao cho tiền gửi của họ; và kinh doanh có lãi cao.

Những nhiệm vụ ấy rất nặng nề và thậm chí bất khả thi đối với đại đa số ngân hàng trên thế giới vì cái này triệt tiêu cái khác. Vậy mà Walter Floettl (người cha) trong suốt bao năm đứng mũi chịu sào ở Bawag lại sử dụng chính ngân hàng này làm tiền đề cho cuộc sống vương giả của mình.

Ông ta hiểu rằng, muốn duy trì được địa vị lãnh đạo ở ngân hàng để tiếp tục biến ngân hàng này thành con bò sữa thì chỉ có thể đầu cơ chứ chẳng có chiến lược kinh doanh nào khác giúp Bawag đạt được đồng thời cả ba mục tiêu nói trên. Muốn đầu cơ thì phải có người thân tín ở đúng thủ đô của thế giới đầu cơ đương thời là Phố Wall. Wolfgang Floettl được cử sang Mỹ du học chính là vì thế.

Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Wolfgang Floettl tốt nghiệp trường Đại học tổng hợp Howard và làm thuê cho ngân hàng đầu tư Kidder, Peabody & Co. Rồi anh này cưới được cô cháu gái của cựu tổng thống Mỹ D. Eisenhower. Năm 1987, Wolfgang Floettl thành lập quỹ đầu tư Ross Capital Markets và nhanh chóng nổi danh là doanh nhân trẻ thành đạt và nhà quản lý quỹ có năng khiếu kinh doanh bẩm sinh.

Mãi về sau, các nhà điều tra mới tìm ra bí quyết nổi danh của anh chàng này: người cha đã bí mật chuyển cho người con hơn 2 tỷ Euro (giá trị quy đổi vào thời điểm tiến hành điều tra vụ bê bối năm 2008).

Điều đó có nghĩa là Wolfgang kinh doanh bằng tiền của Bawag và được người cha che đậy cho hết tình trạng lãi giả, lỗ thật. Những mối quan hệ chính trị, tài chính và kinh tế mà nhà vợ đưa lại đã chứng tỏ là vô cùng quý giá đối với nhà đầu cơ đầy tham vọng và liều lĩnh này.

1,5 tỷ Euro là số tiền “bốc hơi” sau 3 thương vụ đầu tư bất thành của Wolfgang Foett

Các công cụ phái sinh mà Wolfgang thường dùng là quyền chọn (option) và hoán đổi (swap). Phương cách mà Wolfgang hay dùng là các thiên đường thuế và những công ty ma đăng ký ở vùng Ca-ri-bê. Triết lý kinh doanh mà Wolfgang thực thi là lấy đầu cơ nuôi đầu cơ. Số tiền lớn kể trên thật ra đã bị mất toi từ lâu, nhưng chúng vẫn tồn tại trên sổ sách của những công ty ma và từ đó hiện diện trong bảng cân đối tài sản của Bawag.

May hơn khôn

Tham lam và liều lĩnh đến như vậy mà điều kỳ lạ là gia đình Floettl vẫn gặp may. Người cha hạ cánh an toàn cho dù thất bại trong việc đưa người con thành người kế vị trong Bawag. Người kế nhiệm Walter Floettl là Helmut Elsner, không hiểu vì lý do hay động cơ gì, vẫn tiếp tục sử dụng Wolfgang Floettl và chiến lược kinh doanh của người tiền nhiệm. Ông ta vẫn tiếp tục cung cấp tiền cho Wolfgang Floettl đầu cơ. Sau này, Elsner đã phải cay đắng thú nhận rằng: “Sai lầm lớn nhất trong cuộc đời tôi là đã tin tưởng cha con Floettl”. Khi đó thì mọi chuyện đều đã quá muộn và ông này đã phải trả giá đắt với bản án tù 9 năm rưỡi.

Những năm tháng Helmut Elsner quản lý Bawag cũng là thời kỳ đưa Wolfgang Floettl đi vào lịch sử thế giới đầu cơ với phi vụ đầu cơ thất bại nổi tiếng nhất. Từ năm 1995 đến năm 2000, Wolfgang Floettl tiến hành ba phi vụ đầu cơ thì cả ba lần đều thất bại và biến 1,5 tỷ Euro (quy đổi giá trị năm 2008) thành mây khói.

Trong đó đáng kể nhất là phi vụ đầu cơ vào đồng yên Nhật. Trong 2 năm 1997 và 1998, Wolfgang Floettl đầu cơ tất cả tiền bạc có được vào khả năng đồng yên mất giá. Thực tế cho thấy không phải đồng yên mà là đồng đô la Mỹ mới bị mất giá và Wolfgang Floettl bị lỗ 638 triệu USD. Wolfgang Floettl phải bán gần hết tài sản của mình để bù lỗ một phần cho ngân hàng.

Ngay từ năm 2000, Bawag trên thực tế đã không còn khả năng thanh toán. Nhưng thực trạng đó được che đậy bằng mọi thủ thuật cho tới mãi năm 2005. Vụ bê bối được đưa ra ánh sáng bởi một mắt xích trong hệ thống che đậy của Bawag mà Wolfgang Floettl và Helmut Elsner dựng lên và hoạt động suốt bao năm bị đứt. Đó là công ty môi giới chứng khoán Refco ở Phố Wall.

Tháng 10/2005, Refco tuyên bố phá sản. Mấy ngày trước đó, Bawag còn cho công ty này vay 350 triệu USD. Trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản Refco người ta phát hiện ra việc công ty này làm giả sổ sách để phục vụ cho mục tiêu che đậy thua lỗ của Wolfgang Floettl. Cổ đông Refco khởi kiện Bawag. Ngày 5/6/2006, Bawag thỏa thuận trả cho các cổ đông của Refco gần 1 tỷ Euro để tránh bị đưa ra tòa. Đến lúc đó, chính phủ, dư luận và bộ máy tư pháp ở Áo không thể đứng ngoài cuộc được nữa. Số phận của Wolfgang Floettl và của cả Bawag đã được định đoạt. Sau 354 ngày xét xử, tòa án tuyên phạt bỏ tù Wolfgang Floettl 2 năm rưỡi.

Kể từ đó Wolfgang Floettl không còn cơ hội để trở lại thế giới đầu cơ nữa, nhưng dấu ấn và tiếng xấu vẫn còn được lưu lại trong lịch sử đầu cơ.

tigeran
05-08-2013, 03:32 PM
Chỉ có thể phán một câu: "Tai tiếng làm nên tên tuổi" :D:D:D

Ngheo Doi
05-08-2013, 03:52 PM
ôi giới PTKT cũng áp dụng cách như showbiz àhhhhhhhhhhhhhh:heo09::heo09::heo09:

IRONMAN
05-08-2013, 05:08 PM
Ở đâu có anh hùng
Ở đó co mấy tên khùng và điên.

Câu này hơi chuẩn. Mấy tay giàu cỡ bự này thì độ liều của mấy chả cũng được ví như mấy tên khùng đó chứ. Lúc ai không dám làm:roflmao::roflmao::roflmao::roflmao:, hắn sẽ đóng vai anh hùng, trở thành thằng khùng và sau đó là hênh quá, giàu to luôn... hớ hớ....

tigeran
06-08-2013, 08:13 AM
Đôi khi mấy tay Lỳ Liều Láo Lếu lại thành danh vì ... ít suy nghĩ còn mấy bác cứ phân tích kỹ thuật, phân tích cơ bản nhiều vào thì lạo nghèo đói suốt đời. Thế mới có câu "Có chí làm quan, có gan làm giàu" chứ :goku::goku::goku::goku:

tradingpro8x
06-08-2013, 08:16 AM
Thuật ngữ chuyên ngành tài chính gọi vụ này là "Hay không bằng hên" đó :cuoichemieng::gun_rifle:

tigeran
09-08-2013, 02:17 PM
Kinh nghiệm phân tích kỹ thuật Candlesticks cho các bác

"Chuồn chuồn (Dragonfly Doji) bay thấp thì mua, bay cao thì bán, bay vừa ngồi xem"

:big_grin::big_grin::big_grin::big_grin::big_grin: :plane::plane::plane::plane:

tradingpro8x
23-08-2013, 01:14 PM
Gửi các chuyên gia phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản cái hình sau làm kinh nghiệm :pipe1::pipe1::pipe1::pipe1::pipe1::pipe1::pipe1:

http://farm4.staticflickr.com/3758/9572772079_7492d5d5be_b.jpg

tigeran
03-09-2013, 01:50 PM
Sir John Templeton: Những câu nói nổi tiếng của nhà đầu tư chứng khoán vĩ đại nhất thế kỷ

Gửi các đại ca phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản tham khảo :goku::goku::goku::heo09::heo09::heo09:

http://www.entmoney.com/wp-content/uploads/2009/08/John-Templeton.jpg

Thị trường giá lên sinh ra trong bi quan, lớn lên trong nghi ngờ, trưởng thành trong lạc quan và chết đi trong sự thỏa mãn.

John Marks Templeton sinh ngày 29/11/1912 ở thị trấn Winchester thuộc bang Tennessee (Hoa Kỳ).

John Templeton bắt đầu sự nghiệp ở Wall Street vào năm 1937 và thành lập hệ thống các quỹ đầu tư thuộc dạng lớn nhất và thành công nhất trên thế giới. Năm 1992, ông bán công ty này cho tập đoàn Franklin Group với giá 440 triệu USD.

Tạp chí Money Magazine số tháng 01/1999 gọi John Templeton “có lẽ là nhà đầu tư cổ phiếu vĩ đại nhất thế kỷ” (arguably the greatest global stock picker of the century).

Là một công dân gốc Anh, John Templeton được Nữ hoàng Anh Elizabeth II phong tước hiệp sĩ (Knight Bachelor) vào năm 1987, vì những đóng góp thiện nguyện của ông, trong đó có việc hiến tặng cho Trung tâm Nghiên cứu Quản trị Oxford, nay là Trường Templeton thuộc Đại học Oxford, vào năm 1983.

Phần dưới đây sẽ cung cấp cho các bạn những câu nói nổi tiếng của Sir John Templeton, một góc nhìn về triết lý đầu tư và triết lý sống của nhà đầu tư huyền thoại này.

1. Xét về dài hạn, triển vọng của thị trường chứng khoán là tăng giá mạnh mẽ, nếu như bạn mua cổ phiếu để nắm giữ trong một thế kỷ.

For the long-term, the outlook is tremendously bullish if you buy stocks blindly to keep for a century.

2. Ý tưởng không đánh thuế thu nhập đối với người trên 65 tuổi thì sao? Lúc đó, họ sẽ tiếp tục làm việc, khỏe khoắn hơn và không phải làm người thừa trong xã hội. Và rồi họ sẽ có thêm thu nhập và đóng góp cho hoạt động từ thiện.

How about no income tax at all on people over 65? People would continue working, remain healthier, not be an economic and social drain on society. Then the elderly would also have more disposable income to help charitable activities.

3. Trong sự nghiệp 45 năm làm công việc tư vấn đầu tư, sự khiêm tốn khiến tôi cần phải đa dạng hóa hoạt động đầu tư trên toàn thế giới để giảm thiểu rủi ro. Công việc này cũng khiến tôi ngày càng trở nên khiêm tốn hơn, vì thống kê cho thấy nếu tôi khuyên khách hàng mua cổ phiếu này thay cho cổ phiếu kia thì họ sẽ có kết quả tốt hơn nêu phớt lờ lời khuyên của tôi đi. Ở khía cạnh khác, sự hiểu biết khiêm tốn của tôi khuyến khích tôi lắng nghe một cách cẩn trọng hơn và khôn ngoan hơn.

In my 45-year career as an investment counselor, humility did show me the need for worldwide diversification to reduce risk. That career did help me to become more and more humble because statistics showed that when I advised a client to buy one stock to replace another, about one-third of the time the client would have done better to ignore my advice. In other endeavors, humility about how little I know has encouraged me to listen more carefully and more wisely.

4. Hãy đa dạng hóa hoạt động đầu tư của bạn.

Diversify your investments.

5. Thị trường giá lên sinh ra trong bi quan, lớn lên trong nghi ngờ, trưởng thành trong lạc quan và chết đi trong sự thỏa mãn.

Bull-markets are born on pessimism, grow on skepticism, mature on optimism and die on euphoria.

6. Đạo đức và giáo lý là nền tảng của mọi thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.

High ethics and religious principles form the basis for success and happiness in every area of life.

7. Nếu chính phủ khuyến khích dân chúng sống cao cả hơn thì sẽ giúp giảm được chi phí y tế.

If governments encourage people to become more spiritual there will be a reduction in healthcare costs.

8. Tôi tin rằng con cháu chúng ta một, hai thế kỷ sau sẽ nhìn lại chúng ta với sự nuối tiếc tương tự như chúng ta nhìn về những nhà khoa học cách đây hai thế kỷ.

I'm really convinced that our descendants a century or two from now will look back at us with the same pity that we have toward the people in the field of science two centuries ago.

9. Ba đứa con của tôi là bác sỹ. Chúng hiểu biết về cơ thể người ít nhất là gấp 100 lần so với ông nội tôi, nhưng về tâm hồn thì không thể bằng.

Three of my children are medical doctors; they know at least a hundred times as much about your body as my grandfather knew, but they don't know much more about soul than he did.

10. Nói với độc giả là hãy sử dụng nó hoặc là sẽ mất nó. Nếu bạn không sử dụng cơ bắp thì nó sẽ yếu, còn không sử dụng não thì nó sẽ chết đi.

Tell your readers to use it or lose it. If you don't use your muscles, they get weak. If you don't use your mind it begins to fail.

11. Chỉ có duy nhất một thứ quan trọng hơn việc học hỏi kinh nghiệm từ quá khứ, đó là không học hỏi từ quá khứ.

Only one thing is more important than learning from experience, and that is not learning from experience.

TienTuoiThocThat
03-09-2013, 03:12 PM
hiện tại đang nằm ở đâu?
giữa giữa mất niền tin và nghi ngờ .....:D??

tigeran
04-09-2013, 08:41 AM
Mình nghĩ là các chuyên gia phân tích kỹ thuật và phân tích cơ bản mất niềm tin lun rùi bác ui chứ không còn nghi ngờ gì nữa :D:D:D

TienTuoiThocThat
04-09-2013, 08:51 AM
căng vậy???!!


Mình nghĩ là các chuyên gia phân tích kỹ thuật và phânt ích cơ bản mất niềm tin lun rùi bác ui chứ không còn nghi ngờ gì nữa :D:D:D

1nightdream
17-09-2013, 08:29 AM
Đây là người tìm ra nguồn tiền để duy trì cuộc cách mạng giải phóng nước Mỹ và cũng là người cứu rỗi nước Mỹ trong những ngày đầu khó khăn.

http://bfinance.vn/commup/upload/Nh%E1%BB%AFng%20%C4%91i%E1%BB%81u%20ch%C6%B0a%20bi %E1%BA%BFt%20v%E1%BB%81%20broker%20%C4%91%C3%A3%20 c%E1%BB%A9u%20s%E1%BB%91ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20M %E1%BB%B9%201.jpg

Bạn biết đến Hancock và Washington, Franklin và Jefferson. Tốt hơn nữa, bạn biết Greene và Knox, Henry và Hale. Tuy nhiên, cái tên sau đây có thể xa lạ đối với bạn: Haym Salomon.

Thế nhưng, đây lại chính là người đã sắp xếp nguồn tài chính để giữ cho Quân đội Lục địa (Continental Army) sống sót qua những ngày đen tối nhất. Đây là người tìm ra nguồn tiền để duy trì cuộc cách mạng khi rất nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận thất bại. Ông cũng là người cốt cán trong việc thành lập Bank of North America – ngân hàng quốc gia đầu tiên của nước Mỹ.

Mặc dù ít được nhắc đến, đóng góp của Salomon vào cuộc chiến và vào quá trình gây dựng nước Mỹ là cực kỳ quan trọng.

Haym Salomon sinh ra tại Ba Lan vào năm 1740, trong một gia đình người Do Thái. Ông đi du lịch vòng quanh các thủ đô ngân hàng và tài chính của Tây Âu, học hỏi nhiều điều bổ ích. Cuối cùng, Salomon đến New York trong tình trạng không xu dính túi.

Mặc dù vậy, những kiến thức về tiền bạc cùng với khả năng nói được nhiều thứ tiếng châu Âu khiến Salomon trở nên rất hữu ích đối với các nhà giao dịch nước ngoài. Ông trở thành nhân viên môi giới tài chính (financial broker) trong cộng đồng thương nhân ở New York.

Salomon cũng có mối quan hệ mật thiết với Alexander MacDougall. Là thương nhân hoạt động trên biển trong suốt thời kỳ chiến tranh Pháp và người da đỏ, MacDougall là thủ lĩnh của nhóm Sons of Liberty ở New York và ưa thích việc kết du với những người như Salomon.

Mùa hè năm 1776, Sons of Liberty cố gắng thiêu rụi New York City bởi không muốn thành phố này trở thành nơi ẩn nấp cho quân đội Anh đang đóng quân ở đây. Nhóm đã phá hủy khoảng 1/4 các nhà tòa trước khi bị hạ gục.

Tháng 9 năm đó, Salomon bị quân đội Anh bắt và giam giữ trong 18 tháng. Tuy nhiên, ông đã thuyết phục thành công rằng ông có thể giúp ích cho quân đội Anh với vai trò làm phiên dịch. Cuối cùng, Salomon trở thành người phụ trách liên lạc giữa quân đội Anh và bộ phận lính đánh thuê Hessian.

Salomon sử dụng vai trò này để thâm nhập vào hệ thống máy móc của kẻ địch và làm xói mòn sự trợ giúp của Đức dành cho Anh. Khi sự việc bị phát hiện, Salomon bị bắt một lần nữa. Lần này, ông lấy đồng tiền vàng được giấu kỹ trong quần áo ra hối lộ viên cai ngục và trốn thoát. Ông chạy tới Philadelphia. Một lần nữa, Salomon đến một thành phố của Mỹ trong tình trạng khánh kiệt và phải bắt đầu lại từ đầu.

Tuy nhiên, Salomon nhanh chóng gây dựng lại cơ đồ. Năm 1781, 3 năm sau khi đến Philadelphia, Salomon đã có được vị trí ở “trái tim tài chính” của cuộc cách mạng Mỹ. Chính phủ Pháp, Hà Lan và Tây Ban Nha sử dụng Salomon làm người môi giới cho các khoản vay.

Những khoản vay khổng lồ được thực hiện qua công ty môi giới của Salomon được chuyển đổi thành những đồng tiền hết sức cần thiết cho chính phủ và quân đội Mỹ. Mức phí mà Salomon đưa ra rất thấp, thậm chí gần như bằng 0. Hoạt động môi giới của Salomon phát triển tới qui mô lớn đến nỗi ông là người gửi tiền lớn nhất tại Bank of North America.

Salomon dàn xếp một số khoản vay quan trọng nhất cho cuộc chiến. Khi George Washington nhìn thấy cơ hội giăng bẫy và phá hủy Lord Cornwallis ở Yorktown, Salomon đã cung cấp số tiền cần thiết. Washington không thể bao vây Cornwallis bởi không có tiền để nuôi sống quân đội. Salomon lại trợ giúp 20.000 USD trong bối cảnh Kho bạc Mỹ trống rỗng.

Chỉ trong một ngày, quân đội Pháp và Anh với số tiền cần thiết đã đến và bao vây thành phố này. Cornwallis bị cắt nguồn viện trợ và ngay lập tức đầu hàng. Chiến tranh kết thúc, các thuộc địa đã giành chiến thắng.

http://bfinance.vn/commup/2013/Nh%E1%BB%AFng%20%C4%91i%E1%BB%81u%20ch%C6%B0a%20bi %E1%BA%BFt%20v%E1%BB%81%20broker%20%C4%91%C3%A3%20 c%E1%BB%A9u%20s%E1%BB%91ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20M %E1%BB%B9%202.jpg

Trong những năm 1780, nước Mỹ đã là một quốc gia độc lập nhưng một lần nữa lại lâm vào cảnh thiếu tiền. Mỹ đã vay mượn quá nhiều từ châu Âu và gần như toàn bộ các thương nhân nổi tiếng ở thuộc địa. Một lần nữa, Salomon là vị cứu tinh khi tìm kiếm nguồn tiền về cho nước Mỹ.

Truyền thuyết kể rằng sau chiến tranh, George Washington hỏi Haym Salomon ông muốn được đền đáp thứ gì cho những điều tuyệt vời mà ông đã làm. Salomon nói ông không muốn điều gì cho bản thân, chỉ muốn người Do Thái được nhìn nhận theo cách khác. Người ta cho rằng Washington đã sắp xếp 13 ngôi sao biểu trưng cho 13 cựu thuộc địa thành hình Lá chắn David – một biểu tượng của người Do Thái. Có thể quan sát điều này trên đồng bạc xanh:

http://bfinance.vn/commup/2013/Nh%E1%BB%AFng%20%C4%91i%E1%BB%81u%20ch%C6%B0a%20bi %E1%BA%BFt%20v%E1%BB%81%20broker%20%C4%91%C3%A3%20 c%E1%BB%A9u%20s%E1%BB%91ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20M %E1%BB%B9%203.jpg

Haym Salomon sẽ cố gắng xây dựng lại cơ đồ một lần nữa khi ông biết rằng khoản nợ mà ông cho nước Mỹ vay không thể được trả lại sớm. Tuy nhiên, năm 1785, ông qua đời vì bệnh lao ở tuổi 44. Tính đến thời điểm này, ông có tài sản trị giá 350.000 USD và khoản nợ chưa được trả trị giá khoảng 600.000 USD.

Không giống như phần lớn các anh hùng trong cuộc cách mạng đã đem lại độc lập cho nước Mỹ, Salomon không tới từ Anh hay các thuộc địa của Mỹ. Ông cũng không phải là một chính khách, một người lính hay một địa chủ sở hữu nhiều đất đai.

Tuy nhiên, nếu như không có Salomon cùng những kỹ năng môi giới tài ba của ông, quân đội của Washington đã không thể chiến đầu. Nước Mỹ cũng khó có thể tồn tại trong những ngày đầu thành lập.

Haym Salomon là nhà tài trợ khi nước Mỹ khánh kiệt. Ông chính là broker đã giải cứu nước Mỹ.

tigeran
20-09-2013, 08:26 AM
Tay môi giới này giỏi thật, đúng là người hùng thầm lặng của nước Mỹ

tradingpro8x
04-11-2013, 02:31 PM
Thế mới biết là người làm cho nghề trở nên cao sang, danh giá chứ không phải ngược lại :p

honghong2312
04-11-2013, 04:24 PM
người làm cho nghề cao quý

tradingpro8x
05-11-2013, 08:31 AM
Những con khỉ thông minh

Trong xã hội đôi khi người giàu lại không phải những kẻ làm nhiều mà lại là những người biết quan sát sự dịch chuyển của đồng tiền trong xã hội. Vì thế mới sinh ra tầng lớp đầu cơ như con khỉ. Tầng lớp Khỉ và Cáo luôn sở hữu đến 80% tài sản của XH. Tầng lớp làm thực sự là Cừu và Lừa thì họ lại sở hữu rất ít.

Có 4 loại tài sản chính để hình thành nên sự giàu có:
1/ BDS
2/Cổ phiếu
3/ vàng
4/ Tiền tệ

Dòng tiền trong XH luôn chảy vòng quanh 4 thứ này. Con khỉ thông minh sẽ biết tiền sắp chảy vào chỗ nào, cũng như tiền sắp rút đi khỏi chỗ nào (áp dụng phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật,...). Tiền chảy vào chỗ nào sẽ sinh ra tỷ phú, tiền rút đi khỏi đâu nơi đó sẽ đầy đại gia vỡ nợ.

Ví dụ những năm trước đây tiền đổ vào BDS sinh ra một loạt đại gia. Cách đây 2 năm tiền rút đi khỏi BDs thì vỡ nợ hàng loạt

tigeran
11-03-2016, 08:56 AM
Google DeepMind với phần mềm máy tính trí tuệ nhân tạo có tên AlphaGo đã lần dầu tiên trong lịch sử, đánh bại nhà vô địch thế giới môn cờ vây, Lee Se-dol vào sáng qua (9/3).

Sau gần 3 tiếng rưỡi đồng hồ, trí tuệ nhân tạo AlphaGo đã giành chiến thắng trước nhà vô địch thế giới môn cờ vây, Lee Se-dol vào sáng qua (9/3). AlphaGo và kỳ thủ người Hàn Quốc sẽ có 4 trận đấu nữa để phân định phần thắng chung cuộc.

Cờ vây là một hình thức chơi cờ có tuổi đời lâu của Trung Quốc và cũng là một thử thách mà trí tuệ nhân tạo chưa vượt qua được. Chiến thắng của AlphaGo được giới chuyên môn đánh giá cao hơn sự kiện máy tính IBM hạ gục nhà vô địch thế giới môn cờ vua Gary Kasparov hồi năm 1997.

=> Nó mà chế ra máy oánh CK thì anh em ta mệt :taz::taz::taz::taz:

tigeran
21-03-2016, 09:40 AM
Để hạn chế rủi ro khi đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư cần biết phân tích thông tin và đa dạng hóa danh mục đầu tư.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã kéo theo sự sụp đổ của nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới. Cổ phiếu của nhiều công ty lớn như CitiGroup, Tập đoàn Dịch vụ Bảo hiểm Mỹ AIG bị rớt giá mạnh, có lúc xuống dưới 1USD/cổ phiếu. Do đó, nhà đầu tư phải nhìn nhận vấn đề rủi ro một cách nghiêm túc hơn, đặc biệt là cần đánh giá mức độ rủi ro cũng như khả năng chấp nhận rủi ro khi tham gia thị trường chứng khoán.

Mức độ rủi ro

Nhìn chung, thị trường chứng khoán tồn tại những rủi ro cơ bản sau:

. Rủi ro thị trường: Cổ phiếu không bao giờ trụ mãi ở một mức giá mà sẽ luôn biến động. Điều này vừa tạo nên sức hấp dẫn cho thị trường chứng khoán nhưng cũng làm nảy sinh rủi ro. Hiện tại, diễn biến giá chứng khoán bị chi phối bởi nhiều yếu tố như kinh tế vĩ mô (lạm phát, lãi suất, tiền tệ), yếu tố bên ngoài (tình hình thế giới, thiên tai). Đặc biệt, rủi ro thị trường cũng biến động theo những kỳ vọng về khả năng sinh lời và tâm lý của nhà đầu tư. Do đó, rủi ro thị trường rất khó nắm bắt. Nhà đầu tư chỉ có thể tính toán và ước lượng rủi ro thị trường ở mức độ tương đối.
Ngoài những yếu tố kinh tế vĩ mô, rủi ro thị trường còn bị chi phối bởi những kỳ vọng về khả năng sinh lời và tâm lý của nhà đầu tư

. Rủi ro kinh doanh: Doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi sản phẩm, dịch vụ đã trở nên lỗi thời, không đáp ững được thị hiếu của người tiêu dùng. Hoặc công ty làm ăn sa sút vì chiến lược phát triển và đầu tư không phù hợp. Trong trường hợp đội ngũ quản trị của công ty non yếu, rủi ro kinh doanh càng cao. Trường hợp cổ phiếu BBT (Bông Bạch Tuyết) là một ví dụ. Những nhà đầu tư là nắm giữ cổ phiếu BBT đang "dở khóc dở cười" khi từ ngày 3.8, cổ phiếu này sẽ bị ngừng giao dịch trên sàn TP.HCM.

. Rủi ro thanh khoản: Đối với nhà đầu tư, thanh khoản là khả năng mua bán thuận lợi một cổ phiếu nào đó. Thanh khoản cổ phiếu thường phụ thuộc vào thanh khoản thị trường (lượng giao dịch trong ngày) và sự yêu thích dành cho cổ phiếu đó. Nhà đầu tư thường không mua bán khi thanh khoản trên thị trường kém. Họ cũng ít quan tâm đến những cổ phiếu có khối lượng niêm yết thấp.

. Rủi ro đặc trưng: Khi đầu tư chúng khoán, nhà đầu tư sẽ phải chịu thêm rủi ro từ ngành. Chẳng hạn, từ giữa năm 2008, thị trường bất động sản và nguyên vật liệu bắt đầu lao dốc do bị tác động mạnh bởi cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Kết quả là, giá các cổ phiếu thuộc các nhóm ngành này cùng bị "vạ lây", giảm hơn 80% so với đầu năm 2008. Chẳng hạn, cổ phiếu TDH (Công ty Phát triển Nhà Thủ Đức) đã giảm xuống còn 28.900 đồng (31.12.2008) từ mức 141.000 đồng/cổ phiếu.

tigeran
22-03-2016, 09:23 AM
Ứng phó

Xét cho cùng, ứng phó với rủi ro chính là việc cân nhắc giữa bảo vệ vốn với làm giàu. Cụ thể, nhà đầu tư cần cân nhắc giữa rủi ro với tiềm năng lợi nhuận thu về, khả năng đạt mục tiêu, đặc điểm thời kỳ đầu tư, khả năng tổn thất...Nhà đầu tư có thể sử dụng một số giải pháp sau:

* Xem xét hệ số beta (hệ số đo lường rủi ro cổ phiếu): Trong mô hình định giá tài sản vốn CAPM, nhà kinh tế học William Sharpe đã sử dụng hệ số beta để tính mức phí bù đắp rủi ro khi đầu tư vào một cổ phiếu. Theo ông, cổ phiếu có mức rủi ro trung bình là cổ phiếu có mức tăng giảm tương đồng với toàn thị trường. Khi đó, cổ phiếu có hệ số beta bằng 1. Nếu beta bằng 0,5 mức rủi ro cổ phiếu chi bằng 1/2 rủi ro thị trường. Tương tự, cổ phiếu có beta bằng 2 nghĩa là cổ phiếu đó có rủi ro gấp đôi rủi ro thị trường.

Beta = suất sinh lời của chứng khoán/suất sinh lời của thị trường

Do cách tính hệ số beta khá phức tạp, nên ở Mỹ có hẳn những công ty chuyên cung cấp dịch vụ thông tin về hệ số beta như Value Line Investment Survey, Standard & Poor's Stock Reports. Riêng ở Việt Nam, do thị trường chịu tác động từ cung cầu là chính nên hệ số beta không mang nhiều ý nghĩa. Dù vậy, beta vẫn được xem là chỉ số đáng tin cậy.

. Đa dạng hóa danh mục đầu tư: Để hạn chế rủi ro, nhà đầu tư nên đầu tư dàn trải. Chẳng hạn, nhà đầu tư có thể đầu tư vào trên dưới 5 cổ phiếu có các chỉ số cơ bản tốt và đang có thành tích cao trên thị trường. Đừng dồn toàn bộ vốn đầu tư vào một số cổ phiếu nào đó, cũng không nên chỉ tập trung đầu tư vào một ngành nghề.

. Phân tích thông tin: Điêu quan trọng giúp hạn chế rủi ro là thu thập nhiều thông tin, phát hiện “phần chìm" của "tảng băng". Những thông tin không chính thức có thể là cơ hội cho nhà đầu tư (nếu thông tin đó đúng sự thật), nhưng nhiều khi chi là "tin vịt". Do đó, nhà đầu tư cần phải biết "lọc" thông tin bằng cách kiểm tra lại, tìm hiểu tình hình kinh doanh của doanh nghiệp (chẳng hạn xem xét báo cáo lưu chuyển tiền tệ để tìm hiểu các dòng tiền và nguồn gốc lợi nhuận của doanh nghiệp). Ngoài ra, nhà đầu tư có thể xem xét yếu tố ngành nghề và điều tra xem liệu có tình trạng mua bán tay trong hay không. Các hệ số như P/E (giá trên thu nhập mỗi cổ phiếu), EPS (thu nhập trên mỗi cổ phiếu và ROE (lợi nhuận trên vốn) cũng là những căn cứ để nhà đầu tư đánh giá cổ phiếu.

sonnguyen2014
22-03-2016, 11:34 AM
Nếu beta bằng 0,5 mức rủi ro cổ phiếu chi bằng 1/2 rủi ro thị trường cũng cao nhỉ

tigeran
22-03-2016, 01:28 PM
Theo Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (Vafi): Cho vay đầu tư chứng khoán đã phát triển dưới nhiều hình thức nghiệp vụ khác nhau như cầm cố chứng khoán, nghiệp vụ repo cổ phiếu, mua khống T + 2, các nghiệp vụ bảo chứng, uỷ thác đầu tư... Đây là các nghiệp vụ sử dụng đòn bẩy tài chính.


Trong quá trình đầu tư chứng khoán dài hạn và ngắn hạn, nhà đầu tư dù không muốn sử dụng đòn bẩy tài chính, cũng cần phải nắm được tình hình cho vay đầu tư chứng khoán để làm căn cứ nhận định đúng tình hình thị trường, cũng như có thể xác định tổng quan quan hệ cung cầu của thị trường tại từng thời điểm.

tigeran
26-03-2016, 11:19 AM
Giới thiệu

Được John Bollinger phát triển, Bollinger Bands là một công cụ cho phép người sử dụng so sánh độ bất ổn định và các mức giá liên quan theo một khoảng thời gian. Công cụ này bao gồm 03 đường được thiết kế để bao quanh phần lớn hoạt động của giá một cổ phiếu.

Một đường trung bình ở giữa
Một đường bên trên (SMA cộng 2 standard deviations)
Một đường bên dưới (SMA trừ 2 standard deviations)

Standard deviation là một đơn vị đo lường thống kê cung cấp sự đánh giá độ bất ổn định của đồ thị giá. Sử dụng standard deviation đảm bảo các đường bollinger sẽ đáp ứng nhanh với các biến động giá và phản hồi độ bất ổn định cao hay thấp. Giá tăng hoặc giảm đột ngột sẽ tạo thành dãy băng rộng.

http://www.cophieu68.vn/document/images/bollinger.jpg

tigeran
31-03-2016, 08:57 AM
Giới thiệu

Được John Bollinger phát triển, Bollinger Bands là một công cụ cho phép người sử dụng so sánh độ bất ổn định và các mức giá liên quan theo một khoảng thời gian. Công cụ này bao gồm 03 đường được thiết kế để bao quanh phần lớn hoạt động của giá một cổ phiếu.

Một đường trung bình ở giữa
Một đường bên trên (SMA cộng 2 standard deviations)
Một đường bên dưới (SMA trừ 2 standard deviations)

Standard deviation là một đơn vị đo lường thống kê cung cấp sự đánh giá độ bất ổn định của đồ thị giá. Sử dụng standard deviation đảm bảo các đường bollinger sẽ đáp ứng nhanh với các biến động giá và phản hồi độ bất ổn định cao hay thấp. Giá tăng hoặc giảm đột ngột sẽ tạo thành dãy băng rộng.

http://www.cophieu68.vn/document/images/bollinger.jpg

Sử dụng

Ngoài việc xác định quan hệ giữa các mức giá và độ bất ổn định, đường Bollinger Bands có thể kết hợp với biến động giá và các công cụ khác để đưa ra tín hiệu và dự báo các biến động quan trọng.

Đường giá xuống dải Bollinger dưới: tín hiệu mua được hình thành khi đường giá xuống và chạm dải Bollinger dưới thì khả năng bật lên lại của đường giá sẽ có thể xuất hiện.

Đường giá lên dải Bollinger trên: tín hiệu bán được hình thành khi đường giá lên và chạm dải Bollinger trên thì khả năng bật xuống lại của đường giá sẽ có thể xuất hiện.

Double tín hiệu mua : một tín hiệu Double Bottom Buy được tạo thành khi giá vượt qua đường bollinger dưới và nằm bên trên đường bollinger dưới sau khi tạo tiếp mức giá thấp tiếp theo. Mức giá thấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với mức giá thấp trước đó. Điều quan trọng là mức thấp thứ hai phải nằm trên đường bollinger dưới. Giá chuyển sang xu hướng lên được xác định khi giá di chuyển lên trên đường bollinger giữa.

Double tín hiệu bán : Một tín hiệu Double Top Sell được tạo thành khi giá vượt qua đường bollinger trên và đỉnh của đợt tăng giá kế tiếp không vượt qua được đường bollinger trên. Giá chuyển sang xu hướng xuống được xác định khi giá di chuyển xuống bên dưới đường bollinger giữa.

Việc thay đổi giá đột ngột có thể xảy ra sau khi dãy bollinger thu hẹp lại và sự bất ổn định thấp. Trong ví dụ này, đường bollinger không đưa ra bất kỳ tín hiệu nào về xu hướng của giá trong thời gian tới. Xu hướng phải được xác định bằng cách sử dụng các công cụ phân tích kỹ thuật khác. Nhiều cổ phiếu chuyển sang biến động mạnh sau một khoảng thời gian biến động ít. Việc sử dụng đường bollinger có thể xác định mức độ biến động dễ dàng bằng quan sát đồ thị. Dãy băng hẹp cho biết thị trường ít biến động và dãy băng rộng cho biết thị trường biến động mạnh. Độ biến động có thể quan trọng với những người chơi “options” bởi vì giá của “options” sẽ rẻ hơn khi độ biến động thấp.

Dải Bollinger thu hẹp: dãy băng bollinger thu hẹp trước khi có biến động mạnh

Kết luận

Mặc dù đường Bollinger có thể giúp tạo các tín hiệu mua và bán, nhưng đường bollinger không được thiết kế để xác định xu hướng trong tương lai. Đường Bollinger được thiết kế để bổ sung cho việc phân tích kỹ thuật và các công cụ khác. Bản thân đường Bollinger đáp ứng 02 chức năng chính :

Xác định các khoảng thời gian độ biến động cao hoặc thấp
Xác định các khoảng thời gian giá đang ở mức kháng cự hay hỗ trợ.

Như đã đề cập ở trên, giá cổ phiếu có thể chuyển đổi qua lại giữa biến động mạnh và biến động thấp. Đường Bollinger có thể xác định khoảng thời gian biến động ít do đó có thể đáp ứng vai trò một công cụ cảnh báo động thái của giá cổ phiếu. Trong phân tích kỹ thuật, kết hợp cùng các công cụ khác, đường bollinger có thể giúp xác định chiều của một biến động mạnh.

Hãy nhớ rằng tín hiệu mua và bán không được đưa ra khi giá chạm đường bollinger trên và dưới. Các mức này chỉ cho biết giá đang ở mức cao hoặc thấp trên một nền tảng tương đối.

ducjason
25-04-2016, 03:26 PM
Đôi khi ngồi phân tích lại không đem lại kết quả những ngược lại. Nhiều khi thì cứ Dám là lại ăn

tigeran
09-05-2016, 02:30 PM
Sự biến động khá bất thường của thị trường đã khiến cho những nhà đầu tư “thụ động” cảm thấy khó thích nghi. Hy vọng bài viết này sẽ giúp nhà đầu tư tự tin hơn và duy trì "sự sống còn" trên thị trường chứng khoán.

“Lướt sóng” là gì?

“Lướt sóng” là một khái niệm khá bình dân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên, dư luận hầu như không mấy thiện cảm với những nhà đầu tư “lướt sóng”.

Trên thực tế, hoạt động lướt sóng ngắn hạn giúp tăng quy mô của dòng chảy vốn trên thị trường và tăng tính thanh khoản của cổ phiếu.

Với quan điểm đầu tư ngắn hạn, nhà đầu tư mua khi giá xuống và bán ngay khi giá lên cũng giúp thị trường thăng bằng tạm thời.

tigeran
10-05-2016, 01:22 PM
Sự biến động khá bất thường của thị trường đã khiến cho những nhà đầu tư “thụ động” cảm thấy khó thích nghi. Hy vọng bài viết này sẽ giúp nhà đầu tư tự tin hơn và duy trì "sự sống còn" trên thị trường chứng khoán.

“Lướt sóng” là gì?

“Lướt sóng” là một khái niệm khá bình dân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên, dư luận hầu như không mấy thiện cảm với những nhà đầu tư “lướt sóng”.

Trên thực tế, hoạt động lướt sóng ngắn hạn giúp tăng quy mô của dòng chảy vốn trên thị trường và tăng tính thanh khoản của cổ phiếu.

Với quan điểm đầu tư ngắn hạn, nhà đầu tư mua khi giá xuống và bán ngay khi giá lên cũng giúp thị trường thăng bằng tạm thời.

Một số chiến lược có thể áp dụng khi “lướt sóng”

Ăn theo khối ngoại. Khối ngoại có vẻ như đã thay đổi quan điểm đầu tư và liên tục lướt sóng trong khoảng 3 năm gần đây. Thực tế số liệu đã cho thấy họ giao dịch khá hiệu quả.

Do khối ngoại có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng của thị trường Việt Nam nên việc nhiều nhà đầu tư giao dịch theo khối ngoại cũng đem lại những kết quả khả quan.

Những cổ phiếu khối ngoại mua ròng liên tục thì cần đưa vào danh sách theo dõi. Trong khi đó, những cổ phiếu nào bị khối này bán ròng mạnh liên tục thì nhà đầu tư cần tránh xa để hạn chế thua lỗ bất ngờ.

“Buy on Bad news, Sell on Good news”. Nguyên tắc này cũng được áp dụng khá nhiều. Tuy nhiên, nhà đầu tư nên kết hợp nó với nhóm MA để gia tăng thêm tính hữu dụng.

Một cổ phiếu ra tin tốt nhưng giá đang nằm dưới đường MA dài hạn thì việc bán ra theo nguyên tắc “Sell on Good news” sẽ dễ thành công hơn là khi giá nằm trên MA dài hạn.

Tương tự, một cổ phiếu ra tin xấu nhưng giá đang nằm trên đường MA dài hạn thì việc mua vào theo nguyên tắc “Buy on Bad news” sẽ dễ thành công hơn là khi giá nằm dưới MA dài hạn.

Sử dụng vùng overbought/oversold. Nhà đầu tư thường có thói quen giao dịch là bán ra ngay khi các chỉ báo dao động vừa đi vào vùng quá mua (overbought) và mua vào ngay khi các chỉ báo dao động vừa đi vào vùng quá bán (oversold). Chiến lược giao dịch này chỉ có thể phát huy hiệu quả khi thị trường đi ngang (sideway), còn trong giai đoạn có biến động rất mạnh thì chiến lược này khó mang lại hiệu quả và lợi nhuận cao. Giao dịch theo chiến lược này, nhà đầu tư dễ rơi vào tình thế mua/bán quá sớm so với đáy/đỉnh thực sự của cổ phiếu.

Một cách tiếp cận khác tỏ ra có hiệu quả cao là đợi đến khi các chỉ báo dao động rơi khỏi vùng quá mua (overbought) mới bán ra và các chỉ báo dao động vượt lên trên vùng quá bán (oversold) thì mới mua vào.

Có thể lấy một ví dụ khá điển hình trong những năm qua là trường hợp của cổ phiếu VNM. Trong toàn bộ thời gian giao dịch từ giữa tháng 10/2015 đến tuần thứ ba của tháng 11/2015, VNM liên tục tăng trưởng mạnh và chỉ báo Stochastic Oscillator cũng duy trì liên tục trong vùng quá mua (overbought).

Nếu một nhà đầu tư mua vào theo tín hiệu mua của Stochastic Oscillator vào đầu tháng 10/2015 và lại bán ra ngay khi chỉ báo này vừa mới đi vào vùng overbought thì lợi nhuận thu được sẽ rất thấp (khoảng 10%). Nếu chờ đến khi Stochastic Oscillator rơi khỏi vùng overbought mới bán ra thì lợi nhuận sẽ lên đến 30%. Vì vậy, đây là một chiến lược đáng để học hỏi và sử dụng.

http://image.vietstock.vn/2016/04/21/Vietstock-Hinhphantichkythuat-1392.jpg

tigeran
20-05-2016, 09:46 AM
MACD là chỉ báo thị trường rất phổ biến khi sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật. Nó được cấu thành bởi 3 thành phần chính.

1. Đường MACD: EMA (12): Đường trung bình giá trong 12 phiên gần nhất Trừ EMA (26): Đường trung bình giá trong 26 phiên gần nhất
2. Đường tín hiệu MACD: là đường EMA (9) của đường MACD
3. Đường biểu đồ MACD: là MACD trừ đi đường tín hiệu MACD

http://www.cophieu68.vn/document/images/macd.png

tigeran
21-05-2016, 08:20 AM
MACD là chỉ báo thị trường rất phổ biến khi sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật. Nó được cấu thành bởi 3 thành phần chính.

1. Đường MACD: EMA (12): Đường trung bình giá trong 12 phiên gần nhất Trừ EMA (26): Đường trung bình giá trong 26 phiên gần nhất
2. Đường tín hiệu MACD: là đường EMA (9) của đường MACD
3. Đường biểu đồ MACD: là MACD trừ đi đường tín hiệu MACD

http://www.cophieu68.vn/document/images/macd.png

Chỉ báo MACD là công cụ rất có hiệu quả và nhiều tác dụng. Có 3 cách chính khi sử dụng chỉ báo MACD:

- Sự giao cắt của đường trung bình giá.
- Biểu đồ MACD
- Sự phân kỳ của MACD

MACD và sự giao cắt của đường trung bình giá (MA)

Phương pháp sử dụng đầu tiên này là sự nghiên cứu hiện tượng giao cắt của các đường trung bình giá.

- Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm trên đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với đường MACD cắt và nằm trên đường zero.

- Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm phía dưới đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với MACD cắt và nằm phía dưới đường zero.

Tín hiệu mua: Tín hiệu mua xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường zero.

Tín hiệu bán: Khi MACD cắt và nằm phía dưới đường zero thì tín hiệu bán xuất hiện

Những tín hiệu cảnh báo này thường xuất hiện rất trễ. Nếu sử dụng sự giao cắt của đường tín hiệu và đường MACD thì tín hiệu mua bán sẽ xuất hiện sớm và nhanh hơn.

Tín hiệu mua: Xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường tín hiệu của MACD.

Tín hiệu bán: xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía dưới đường tín hiệu của MACD.

MACD và sự giao cắt của các đường trung bình là một trong những cách sử dụng kỹ thuật chỉ báo MACD. Sử dụng biểu đồ MACD và sự phân kỳ của MACD là 2 phương pháp quan trọng để đưa ra những cảnh báo đảo chiều.

http://www.cophieu68.vn/document/images/macd.jpg

tigeran
03-05-2017, 09:29 AM
Bác nào chưa tự tin về trình độ của mình thì có thể vào đây để tự đánh giá này

Nếu lọt vào Top 10 cao thủ thì chứng tỏ trình độ thượng thừa rùi :teeth:

http://dautruong.vietstock.vn/

dhtax
30-12-2017, 09:17 AM
bài viết rất chính xác và đầy đủ

tradingpro8x
02-01-2018, 08:27 AM
Bác nào chưa tự tin về trình độ của mình thì có thể vào đây để tự đánh giá này

Nếu lọt vào Top 10 cao thủ thì chứng tỏ trình độ thượng thừa rùi :teeth:

http://dautruong.vietstock.vn/

Mình nghĩ nên coi dấu trường như chỗ để tử nghiệm phương pháp, chiến thuật đầu tư hơn là thể hiện trìn độ. Vì đây chỉ là chơi ảo nên sức ép tâm lý không lớn như khi chơi thật bác ạ. :D

tigeran
20-09-2018, 02:27 PM
Mình nghĩ nên coi dấu trường như chỗ để tử nghiệm phương pháp, chiến thuật đầu tư hơn là thể hiện trìn độ. Vì đây chỉ là chơi ảo nên sức ép tâm lý không lớn như khi chơi thật bác ạ. :D

Nhưng ít nhất cũng có cái thử chứ bác. Khi chạy xe máy người cũng phải chạy thử trong sân trước khi chạy ngoài đường mà :D