Bài viết đứng trên quan điểm là người viết nhận diện, đánh giá phần lớn các rủi ro của thị trường chứng khoán tại thời điểm này. Và giả định trong các trường hợp xấu nhất xảy ra thì có nên đầu tư vào cổ phiếu tại thời điểm này không? Và phương pháp đầu tư nào sẽ mang lại lợi nhuận với rủi ro thấp.
I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Vấn đề nợ công tại Châu Âu
- Diễn biến nợ công của Châu Âu theo chiều hướng ngày càng xấu. Điều này thấy rõ qua việc các nước cầu tiền như Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đồ Nha ngày càng cần nhiều các gói cứu trợ hơn, các nước cung tiền như Đức, Pháp, Phần Lan ngày càng gặp nhiều sự phản đối trong nước hơn khi dùng nguồn tiền trong nước để hỗ trợ nước khác. Trung Quốc đang trong quá trình đàm phán điều kiện với Italia để cung cấp một gói mua trái phiếu của nước này, giúp nước này vượt qua cuộc khủng hoảng nợ .
- Gần đây nhất là việc Moody’s hạ xếp hạng của 2 ngân hàng lớn của Pháp, và Phần Lan yêu cầu Hy Lạp phải có các bảo đảm khi nhận các khoản hỗ trợ của nước này.
- Nước Ý tuy chưa nối bước các nước khác xin hỗ trợ, tuy nhiên Moody’s đã cảnh báo sẽ hạ xếp hạng tín dụng của nước này trong tháng 10/2011. (Cách làm của các tổ chức xếp hạng là sẽ đưa ra cảnh báo trước cho thị trường đỡ sốc khi chính thức hạ, nên việc hạ gần chư chắc chắn).
- Trường hợp xấu hơn tiếp theo xảy ra là Hy Lạp sẽ vỡ nợ và rút khỏi liên minh Châu Âu, và hậu quả sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến hàng loạt các ngân hàng lớn đang cho chính phủ các nước này vay tiền, và khủng hoảng nợ công sẽ lan truyền trong khối EU sang Mỹ và trên phạm vi thế giới. Và mở rộng phạm vi từ khủng hoảng nợ công sang khủng hoảng tài chính do nợ xấu của khối ngân hàng sẽ tăng lên đáng kể khi khủng hoảng nợ công xảy ra.
2. Đà hồi phục của kinh tế Mỹ đang chậm lại, trì truệ và có dấu hiệu suy thoái trở lại
- Nền kinh tế Mỹ đang đối mặt với tình trạng kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp cao. Biện pháp giải quyết nổi bật là FED cung cấp các gói nới lỏng định lượng, duy trì mức lãi suất thấp để hỗ trợ cho nền kinh tế theo hướng kích cầu làm gia tăng sản xuất để có thể tạo ra việc làm.
- Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ duy trì ở mức cao 9,1% trong tháng 8/2011. Chỉ số sản xuất công nghiệp duy trì ở mức thấp, kế cận mức suy thoái.
- Ngày 20/9/2011 FED sẽ bắt đầu cuộc họp để đề ra biện pháp hỗ trợ nền kinh tế. Theo dự báo thì FED sẽ tung ra gói hỗ trợ việc làm 447tỷ USD. Gói hỗ trợ lần này khác các lần trước là không trực tiếp in tiền bơm ra lưu thông mà dùng tiền đáo hạn trái phiếu đã mua, các khoản mà các ngân hàng trả lại trong đợt hỗ trợ năm 2008-2009 để tiếp tục mua trái phiếu nhằm duy trì mức lãi suất thấp đến năm 2013.
- Nền kinh tế Mỹ là suy thoái, không phải khủng hoảng.
3. Tốc độ phục hồi của kinh tế thế giới đang chậm lại
- Tốc độ tăng trưởng của các nước tương đối tốt trong nửa cuối năm 2010 do tác dụng ngắn hạn của các gói kích thích kinh tế, và chậm trong quý 1 năm 2011 nhưng đến quý 2 năm 2011 thì thể hiện rõ tốc độ tăng trưởng của thế giới giảm đáng kể và sự tăng trưởng chậm chạp này sẽ còn kéo dài đến năm 2012, 2013.
- Tốc độ tăng trưởng quý 2/2011 của Châu Âu chỉ tăng 0,2% so với mức 0,8% của quý 1/2011. Liên minh châu Âu vừa giảm dự báo tăng trưởng nửa cuối năm, phản ánh cái nhìn bi quan hơn về khủng hoảng nợ và cảnh báo các nền kinh tế trong khu vực đồng euro có thể “gặp bế tắc vào cuối năm.” Khu vực châu Âu 17 nước sẽ tăng trưởng 0,2% trong quý 3/2011 và 0,1% trong quý 4/2011, giảm so với mức dự báo hồi tháng 3 là 0,4% mỗi quý.
- Kinh tế Mỹ cần phải tăng trưởng khoảng 2,5% hoặc cao hơn để có thể giảm được tỷ lệ thất nghiệp hiện ở mức khoảng 9,1%, nhưng chỉ tăng trưởng 1% trong quý 2/2011.
- Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay từ 4,3% xuống 4,2%. Triển vọng với năm 2012 cũng không sáng sủa hơn khi tốc độ tăng GDP được dự kiến ở mức 4,3%, thay vì dự báo 4,5% trước đó.
4. Đánh giá tác động đến Việt Nam
- Tác động của vấn đề nợ công của Châu Âu, sự trì truệ của kinh tế tại Mỹ Không gây ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến kinh tế Việt Nam nhưng có ảnh hưởng đến xuất khẩu và các luồng vốn bên ngoài vào vào Việt Nam.
a. Tác động đến nền kinh tế
- Xác định rõ vấn đề hiện tại là cuộc khủng hoảng nợ công và có thể dẫn dến cuộc khủng hoảng ngân hàng; Vấn đề tại Mỹ là vấn đề suy thoái kinh tế không phải khủng hoảng kinh tế. Biện pháp giải quyết vấn đề của các Chính phủ là tiếp tục bơm tiền thông qua các gói cứu trợ, hỗ trợ kinh tế, mà bản chất là kích cầu tiêu dùng để gia tăng sản xuất nhằm tạo ra nhiều việc làm.
- Việt Nam là một nước có mức hội nhập khá sâu với nền kinh tế thế giới, nhưng lĩnh vực ngân hàng thì vẫn còn độc lập, nên sẽ không bị tác động của cuộc khủng hoảng nợ.
- Việt Nam là nước xuất khẩu các sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp như cao su, gạo, cá tra, hồ tiêu, cà phê ... và một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt may ... Thì việc xuất khẩu sẽ không chịu tác động quá lớn, thậm chí còn có thêm ưu thế vì người tiêu dùng sẽ chuyển từ tiêu dùng cao cấp sang trung cấp.
- Lạm phát của Việt Nam ngoài tác động của chính sách tiền tệ thì có nguồn gốc từ nhập khẩu, nên nếu kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, khủng hoảng nợ công Châu Âu xảy ra dẫn đến giảm giá hàng hóa như dầu thô, hàng hóa cơ bản thì có lợi cho Việt Nam trong việc kiềm chế lạm phát,
- Việt Nam chỉ sẽ phải chịu tác động tiêu cực gián tiếp là giá vàng sẽ tăng mạnh nếu cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu xảy ra làm giảm giá các loại tài sản khác như cổ phiếu, và gây nên áp lực lên tỷ giá dẫn đến CPI tăng, từ đó dẫn đến bất ổn kinh tế lan rộng. Ngoài ra nguồn vốn FDI từ nước ngoài có thể bị giảm sút.
b. Tác động đến thị trường chứng khoán
- Thị trường chứng khoán Việt Nam tại thời điểm hiện tại tăng hay giảm chỉ phụ thuộc 20% vào thế giới, 80% còn lại phụ thuộc vào diễn biến của các yếu tố kinh tế và tiền tệ trong nước. Trong ngắn hạn mức độ sụt giảm cũng sẽ không quá mạnh nếu khủng hoảng nợ công Châu Âu xảy ra.
- Bắt đầu từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng năm 2008 đến nay, thị trường chứng khoán Mỹ và các nước đã tăng hơn 50%, chỉ số Dowjones từ mức 7.000 điểm tăng lên 12.800 điểm, và gần đây đang duy trì tại mức 11.000-12.000 điểm. Trong khi đó chỉ số VNindex nếu loại trừ sự điều chỉnh của các quỹ chỉ số thì đang ở khoảng 255 điểm từ mốc 450 điểm khi khủng hoảng. Cơ sở để so sánh 2 chỉ số có thể không đồng nhất, nhưng sự so sánh này chứng minh được thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở mức quá thấp, và không bị chi phối nhiều bởi thị trường chứng khoán thế giới.
- Nếu cuộc khủng hoảng Châu Âu xảy ra, thì trong ngắn hạn thị trường chứng khoán sẽ bị sụt giảm, nhưng đây là cơ hội để mua cổ phiếu giá rẻ chứ không phải là lúc bán tháo tài sản. Vì bản chất của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại là chịu tác động của các yếu tố trong nước, do đó nếu khủng hoảng Châu Âu xảy ra, thị trường chứng khoán giảm mạnh thì Chính phủ sẽ ngay lập tức hạ lãi suất, cung tiền ra lưu thông như năm 2009, sau đó thị trường chứng khoán sẽ tăng mạnh trở lại vì có dòng tiền lớn đổ vào.
II. KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM
1. Lạm phát cao
* Lạm phát của ta hiện nay có 4 nguyên nhân chính:
(1) Lạm phát do cầu kéo bắt nguồn từ chính sách tiền tệ, tín dụng những năm trước tăng tới 30-40%, dẫn đến lượng tiền lớn trong lưu thông gây nên lạm phát cao.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt bắt đầu từ tháng 2/2011 đang giải quyết được nguyên nhân tiền tệ của lạm phát. Và hiệu quả sau 6 tháng thì CPI tháng 8 đã tạo đỉnh và sẽ giảm dần trong các tháng tiếp theo. CPI tháng 9/2011 sẽ ở mức 0,5-0,7% thấp hơn mức 0,93% của tháng 8/2011.
(2) Lạm phát do chi phí đẩy, thời gian qua Chính phủ cho điều chỉnh tăng giá mạnh, cùng một lúc, như xăng dầu, điện, than, phân bón, cộng với tỷ giá nên làm cho chi đẩy rất nhanh, gây nên lạm phát.
- Nguyên nhân lạm phát do chi phí đẩy sẽ còn duy trì, vì giá các mặt hàng như điện, xăng dầu, tỷ giá ... sẽ còn có thể tiếp tục được điều chỉnh tăng.
(3) Lạm phát nhập khẩu, do sau cuộc khủng hoảng năm 2008, các nước trên thế giới đều tung ra các gói kích thích kinh tế nên giá cả hàng hóa đều tăng giá mạnh. Nước ta là nước nhập siêu nên đầu vào nhập khẩu của nước ta là đã có nhập khẩu lạm phát của nước ngoài.
- Nguyên nhân lạm phát do nhập khẩu thì sẽ khó kiểm soát, vì nước ta sẽ phải nhập siêu ít nhất đến năm 2015. Mà các nước Châu Âu, Mỹ tiếp tục tung ra các gói kích thích kinh tế thì giá cả hàng hóa sẽ tiếp tục tăng, tình trạng nhập khẩu, lạm phát của nước ta sẽ vẫn còn. Tuy nhiên, Trung Quốc là nước mà Việt Nam có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất thì lạm phát đang có dấu hiệu hạ nhiệt, và có dấu hiệu tạo đỉnh trong tháng 8.
(4) Lạm phát do hiệu quả đầu tư, nước ta đầu tư quá dàn trải và hiệu quả thấp làm cho hệ số ICOR nới ra. Trước đây nước ta đầu tư 2 đồng thì có 1 GDP, bây giờ bình quân là 6 - 7 đồng mới có 1 GDP. Khoảng chênh lệch này chứng tỏ đầu tư không hiệu quả và gây lạm phát.
- Để giải quyết nguyên nhân này thì cần có một thời gian dài, vì cần thời gian để chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn sang đầu tư tư nhân chiếm tỷ trọng lớn.
* Nhận xét: Lạm phát của Việt Nam đã tạo đỉnh trong tháng 8/2011, theo đúng quy luật kinh tế cả về tiền tệ lẫn cung cầu. Và dự báo CPI các tháng cuối năm sẽ duy trì ở mức thấp, CPI năm 2012 khoảng 12% như mục tiêu của Chính Phủ.
- Tuy nhiên, thời điểm này diễn biến kinh tế trong nước và thế giới hết sức phức tạp nên vẫn phải quan sát các rủi ro sau đây để có thể dừng đúng lúc:
+ Nếu Mỹ tiếp tục tung ra gói QE 3 với giá trị lớn và in tiền thêm thì thị trường chứng khoán thế giới, giá vàng, dầu, giá các loại hàng hóa cơ bản sẽ tăng mạnh. Lúc đó lạm phát sẽ sớm quay trở lại, thì nên tìm cách cách rút khỏi thị trường chứng khoán ngay sau khi sóng tăng theo thị trường chứng khoán thế giới.
+ Lạm phát nước ta mang tính mùa vụ cao, hay tăng mạnh vào các tháng cuối năm, nên nếu lạm phát có tháng tăng cao hơn mức 1% thì cũng nên rút, thì lãi suất sẽ tăng trở lại theo đà tăng của lạm phát.
2. Lãi suất cao
- Lãi suất giảm là thông tin nổi bật của thị trường tiền tệ gần đây. Mức lãi suất tiết kiệm được đưa về mức 14%, lãi suất cho vay sản xuất ở mức 17-19%, có một vài ngân hàng có mức lãi suất thấp nhất là 16%.
- Việc ngân hàng nhà nước tạm thời chưa áp dụng quy định chỉ được cho vay 80% vốn huy động, và quyết tâm thực hiện trần lãi suất huy động là 14% kết hợp với biện pháp bơm vốn trên thị trường mở cho các ngân hàng nhỏ để hỗ trợ thanh khoản là biện pháp đúng đắn trong hoàn cảnh hiện tại và thành công trong việc hạ lãi suất cho vay về mức 17-19%.
- Tuy nhiên với mức lãi suất 17-19% chỉ áp dụng cho một số đối tượng vay là doanh nghiệp xuất khẩu với cam kết bán lại ngoại tệ. Đa số các doanh nghiệp vẫn phải vay với mức lãi suất trên 20%.
- Các ngân hàng thương mại đang lách lãi suất huy động bằng cách huy động lãi suất ngày 14%, ngày thứ 2 được tính lãi suất đối với khoản vốn gốc và tiền lãi của ngày thứ nhất. Cho thấy tính thanh khoản của các ngân hàng vẫn đang hết sức khó khăn và hiệu quả của việc thực hiện trần huy động 14% còn phải đợi thời gian kiểm chứng tính thực thi.
- Với mức lãi suất như trên nhưng Ngân hàng nhà nước vẫn thắt chặt tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất, đặc biệt là lĩnh vực chứng khoán, nên dòng tiền từ các doanh nghiệp vay ngân hàng để đổ vào chứng khoán sẽ không nhiều.
3. Tỷ giá USD/VNĐ tăng, Nhập siêu, thâm hụt thương mại
- Ngày 11/2/2011 Ngân hàng nhà nước đã tăng tỷ giá USD/VNĐ lên 9,3%. Và chủ trương là tăng một lần mạnh rồi sau đó sẽ điều hành ổn định lại.
- Tỷ giá USD/VNĐ đến tháng 6/2011 có thể sẽ tiếp tục tăng nhưng tăng ở mức độ thấp khoảng 1%. Về dài hạn thì tỷ giá sẽ còn tiếp tục tăng trong các năm sau vì tỷ giá đã bị kìm nén trong các năm trước và lạm phát còn tiếp tục cao.
- Trong các tháng vừa qua Ngân hàng nhà nước đã mua ròng vào khoảng 6 tỷ USD, nâng mức dự trữ ngoại hối lên 18tỷ USD, với mức dự trữ này là chưa cao nhưng đủ sức can thiệp để thị trường ngoại hối ổn định.
- Lũy kế 8 tháng, nhập siêu là hơn 5,8 tỷ USD, giảm 26,7% so với cùng kì, chiếm 9,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Dự kiến cả năm nhập siêu sẽ thấp hơn mức 14 tỷ USD theo mục tiêu của Chính phủ đề ra.
- Cán cân tài khoản vãng lai năm 2011 sẽ dương khoảng 2,5-4,5tỷ USD.
* Áp lực tăng tỷ giá trong thời gian đến tháng 6/2011 là không lớn.
4. Nền kinh tế đang giai đoạn đầu của tái cấu trúc
- Kinh tế vĩ mô Việt Nam có thể thấy rõ việc Chính phủ đang thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế đồng bộ, không phải tái cơ cấu đơn lẻ một ngành hoặc lĩnh vực riêng biệt. Việc tái cơ cấu thực hiện theo 2 hướng chính: (1) Tái cơ cấu chính sách, định hướng, mục tiêu chính thông qua đó để điều chỉnh các doanh nghiệp phải tự tái cơ cấu để thích ứng với chính sách mới, môi trường mới, định hướng mới. Việc này thấy rất rõ ở việc đang tái cơ cấu thị trường tài chính bằng cách tái cơ cấu thị trường chứng khoán và ngân hàng, và một số ngành chủ chốt như điện, xăng dầu .... (2) Tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo hướng nâng dần tỷ trọng đóng góp của tư nhân, giảm dần tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế.
+ Tái cấu trúc các tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước thông qua việc cơ cấu, điều chỉnh lại hoạt động. Đối với các doanh nghiệp tư nhân thì chính sách lãi suất cao sẽ dần đào thải các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả.
+ Tái cấu trúc ngành ngân hàng: Các quy định về khống chế trần lãi suất, tái chiết khấu, hệ số rủi ro, quy định về cho vay bất động sản,… sẽ làm cho các ngân hàng nhỏ gặp khó khăn, vì khi huy động trần lãi suất huy động thì tiền gửi sẽ chuyển từ các ngân hàng nhỏ sang các ngân hàng lớn, và chỉ có các ngân hàng nhỏ thì tỷ trọng cho vay bất động sản mới chiếm tỷ lệ cao.
+ Tái cấu trúc thị trường bất động sản: Cắt giảm tín dụng bất động sản, hướng thị trường vào phân khúc nhu cầu thực, không để dòng tiền vào thị trường mang tính đầu cơ đẩy giá bất động sản tăng mạnh nhưng nhu cầu ảo.
+ Tái cơ cấu thị trường chứng khoán: Quy định và quản lý chắt chẽ nghiệp vụ ký quỹ với tỷ lệ ký quỹ cao hơn tỷ lệ ký quỹ cũ làm giảm cung tiền cho thị trường đáng kể, việc xử lý các hợp đồng vay cũ sẽ làm gia tăng đáng kể nguồn cung cổ phiếu, ảnh hưởng đến triển vọng của thị trường trong ngắn hạn nhưng sẽ ổn định dần trong trung và dài hạn.
5. Đánh giá chung
- Bản chất chính của vĩ mô Việt Nam vẫn chưa được giải quyết, gốc rễ của lạm phát cao, lãi suất cao vẫn chưa được giải quyết, nền kinh tế Việt Nam sẽ còn đối mặt với khó khăn ít nhất kéo dài đến nửa năm 2012. Cùng với việc tái cơ cấu nền kinh tế đang mới vào giai đoạn đầu, thì sắp tới có khả năng sẽ có nhiều doanh nghiệp, thậm chí là doanh nghiệp lớn đối mặt với với việc phá sản, đặc biệt là doanh nghiệp bất động sản, các doanh nghiệp có nợ vay nhiều.
- Hiện tại, có khoảng 30% doanh nghiệp đã ngừng sản xuất, thực chất là phá sản. Với mức lãi suất hạ về 17-19%, thực tế chỉ áp dụng cho các đối tượng vay quen thuộc và có điều kiện đi kèm theo như cam kết bán USD. Chỉ có một số ít doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn trên và là doanh nghiệp kinh doanh tốt, nên các doanh nghiệp đang gặp khó khăn chưa thể giải quyết được bài toán vốn.
- Tình hình lạm phát có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng vẫn duy trì ở mức cao, và lạm phát của Việt Nam có nguồn gốc từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân có nguồn gốc từ bản chất nền kinh tế trong các năm trước không thể giải quyết được trong thời gian ngắn, có nguyên nhân bắt nguồn từ thế giới nằm ngoài tầm kiểm soát của nước ta. Do đó khả năng lạm phát tăng mạnh trở lại vẫn còn cao, và khi lạm phát tăng trở lại thì sẽ càng khó khăn hơn để dập tắt vì các chính sách của ngân hàng nhà nước, của chính phủ đã sử dụng hầu hết nên sẽ đánh mất niềm tin của người dân.
III. DIỄN BIẾN VÀ DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Chuỗi tăng điểm kéo dài từ giữa tháng 8, và đang trong quá trình điều chỉnh trở lại
- Sau thời gian đi ngang theo xu hướng giảm nhẹ kéo dài, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có một đợt tăng mạnh trở lại từ giữa tháng 8 đến giữa tháng 9, với mức tăng của một số mã lên đến 30-40% so với mức giá thấp nhất. Nguyên nhân chính là lãi suất giảm và ngân hàng nhà nước nới lỏng tiền tệ thông qua việc tạm thời chưa áp dụng quy định cho vay tối đa 80% vốn huy động, và một số biện pháp khác làm tăng tiền trong lưu thông.
- Thị trường đang trong quá trình điều chỉnh trở lại sau chuỗi tăng điểm mạnh. Mức điều chỉnh hiện tại là 10-15%, và dự kiến còn điều chỉnh thêm 10-15% nữa.
2. Những điểm nổi bật của thị trường chứng khoán trong đợt tăng
- Tính thanh khoản tăng mạnh: Trong các phiên giao dịch gần đây, tính thanh khoản tăng gấp đôi so với trước đó, với giá trị giao dịch 2 sàn gần 2.000tỷ và khối lượng giao dịch đạt 100 triệu cổ phiếu.
- Nước ngoài tăng bán ra: Theo lộ trình thoái vốn thì năm 2012 sẽ năm bắt đầu rút vốn của các quỹ đầu tư với khoảng hơn 3.400 tỷ đồng, từ 2013 đến 2015, số vốn có thể bị rút khỏi thị trường lần lượt là 31.615 tỷ đồng, 20.608 tỷ đồng và 7.421 tỷ đồng.
+ Tốc độ và giá trị bán ròng của nước ngoài ngày càng mạnh theo nhịp tăng của thị trường. Khoảng 600tỷ trong nửa đầu tháng 9, khoảng 228tỷ trong tháng 8.
- Dòng tiền tập trung vào các mã cổ phiếu có cơ bản tốt: Đợt tăng giá mạnh có sự phân hóa rõ rệt, chỉ những cổ phiếu tốt, rủi ro thấp mới có tốc độ tăng giá mạnh vừa rồi. Còn những cổ phiếu có cơ bản không tốt, rủi ro cao thì dòng tiền không vào, và giao dịch vẫn rất thấp không có cải thiện.
3. Dự báo thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian sắp tới
- Kết hợp các thông tin phân tích về tình hình kinh tế thế giới, kinh tế vĩ mô Việt Nam thì thị trường sẽ chưa có mức tăng trưởng mạnh, tăng trưởng nhanh trong dài hạn.
- Chính sách tiền tệ và các vấn đề tài cấu trúc nên kinh tế trong nước, tái cấu trúc hệ thống ngân hang , tái cấu trúc thị trường bất động sản và tái cấu trúc thị trường chứng khoán gây ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán trong ngắn hạn và triển vọng trong trung dài hạn.
- Diễn biến thị trường sẽ theo đường hình Sin và sẽ xuất hiện nhiều sóng cỡ nhỏ, trung bình hơn, mỗi sóng biến động tăng giảm 15-30%, chứ không có trường hợp thị trường tăng thẳng đứng. Đặc biệt mức giá cổ phiếu sẽ càng ngày càng tăng, đáy sau cao hơn đáy trước, và về dài hạn thì vẫn tăng trưởng với tốc độ chậm nhưng bền vững và ổn định.
- Tuy nhiên trong ngắn hạn thị trường có thể sẽ có ngay một đợt sóng mới sau khi đợt giảm này, vì dòng tiền được khơi thông, lãi suất giảm, lạm phát giảm, nhưng lý do cao nhất là mức giá cổ phiếu đang thấp hơn quy luật chung, thấp hơn mức phù hợp với kinh tế vĩ mô hiện tại, nên phải tăng lên một mức ổn định cao hơn để phù hợp với quy luật chung, phù hợp với hoàn cảnh vĩ mô hiện tại. Lý do có mức giá thấp như vậy là do hiện tượng giải chấp cổ phiếu để thực hiện theo thông tư 74 của Ủy ban chứng khoán và quy định giảm dư nợ phi sản xuất về 22% vào ngày 30/6/2011 và giảm về 16% vào ngày 31/12/2011.
IV. ĐÁNH GIÁ TÍNH KHẢ THI VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐẦU TƯ
1. Đánh giá tính khả thi
2. Mục tiêu và Phương pháp đầu tư
3. Quản lý rủi ro
Xin vui lòng xem thông tin chi tiết tại: http://lehoangtam.com/ (http://lehoangtam.com/)hoặc gửi email về
[email protected]