Đăng nhập

View Full Version : Những bài học kinh nghiệm: Thất bại và Thành công của những NĐT?



stockpro
07-01-2009, 08:58 AM
Có nên đầu tư vào cổ phiếu có giá trị nhỏ hay không?Câu
hỏi này thường xảy ra khi thị trường có nhiều biết động mạnh, có rất
nhiều cách lý giải khác nhau để đưa ra câu trả lời thuyết phục nhất.
Với quan điểm cá nhân tôi cho là nên xem xét mua những cổ phiếu có giá
trị nhỏ (penny stocks) vì một số lý do sau:





Diễn biến tâm lý của nhà đầu tư hay đầu cơ khi nhìn về cổ phiếu có giá trị nhỏ:



1. Họ sẽ mua cổ phiếu giá 10.000 VND đó bởi vì không có ai khác mua nó.



2. Mỗi sáng sớm họ luôn tìm cổ phiếu mà ngày xưa nó có giá 50.000 VND
nhưng giờ chỉ còn 10.000 VND (hay thấp hơn), với giá này thì họ cho
rằng chỉ bằng bữa ăn sáng tạm bợ và họ mua nó rất nhiều vì cảm giác là
"người chiến thắng" sẽ đến với họ khi mua được những cổ phiếu này.



3. Những người mua trung bình giá xuống từ 50.000 VND còn 10.000 VND
thì họ sẽ mua rất nhiều ở giá 10.000 VND bởi vì họ cho rằng đây là mức
giá rẻ nhất. Tất nhiên cổ phiếu này cũng có thể xuống đấn 7.000 VND,
nhưng thiệt hại khi điều này xảy ra là nhỏ và họ quan niệm rằng đây là
vùng giá gần với đáy; rất ít người mua bán được ngay tại đáy.



4. Họ thích những cổ phiếu giá trị thấp nhưng khi giá tăng lên gấp đôi
hoặc giảm 1 nửa thì họ sẽ bán đi 1 nửa hay chẳng làm gì cả. Tuy nhiên
họ vẫn vui vẻ với những mưu mẹo của mình.



5. Họ luôn cần cù tìm kiếm các cổ phiếu, và một ngày nọ họ sẽ tìm ra 1
cổ phiếu ngày kinh tế nào đó mà họ vừa mua khối lượng lớn, công ty đó
có đặc điểm là tốn chi phí để tìm nguồn vốn ở nước ngoài nhiều hơn là
để phát triển sản phẩm của mình. Vì vậy họ đã bán tất cả ngay lập tức
các cổ phiếu của công ty đó khi mà giá của nó chỉ mới giảm 25% và họ
nghĩ rằng họ đã đi trước 1 bước trong trò chơi này. Cổ phiếu này đã
chia tách 5:1 và họ đã bán số ít ỏi còn lại với mức lỗ 75% thay vì 95%
ngay sau đó 1 tuần.



(còn tiếp)
QuaCauVang

giner
08-01-2009, 02:16 PM
các bác cho em hỏi vài câu


1.giá khớp được quyết định như thế nào,giá thấp nhất hay giá có nhiều người trao đổi nhất,ato tác động thế nào đến giá khớp


2.em có thể vừa mua vừa bán 1 loại cp trong ngày ko

stockpro
10-01-2009, 09:48 AM
Ai dễ bị lừa bịp vì cả tin?

Giáo sư Stephen Greenspan chuyên nghiên cứu về tính nhẹ dạ cả tin, dễ
bị lừa. Ông mới viết xong một cuốn sách về đề tài này, nhan đề là
“Annals of Gullibility”. Ông dạy môn Tâm Phân Học ở Đại học Colorado,
mới viết một bài trên mạng lưới Skeptic.com giải thích lý do tại sao
nhiều người rất khôn ngoan mà vẫn bị lừa đảo trong những vụ “Mẹo Ponzi”
như vụ Madoff mới được tiết lộ, với tiểu đề “Why Bernard Madoff Made
Off with My Money?” (Tại sao Madoff lấy được tiền của tôi?) Vì chính
Stephen Greenspan là một nạn nhân, cũng vì tính nhẹ dạ cả tin
(gullibility). Ông đã đem gửi cho quỹ đầu tư do ông Bernard Madoff quản
lý một phần ba số tiền tiết kiệm cả một đời làm việc, bây giờ chắc đã
mất gần hết! Bài này mới được nhật báo Wall Street Journal đăng lại
cuối tuần trước. Ngày 11 tháng 12 vừa qua ông Bernard Madoff bị bắt và
thú nhận đã lừa hàng ngàn người theo lối Mẹo Ponzi, tổng cộng khoảng 50
tỷ đô la Mỹ, bằng cách đem tiền người gửi sau trả cho người góp trước,
coi đó là tiền lời đầu tư!

Hoàn cảnh đẩy đưa

Một trong những lý do khiến nhiều người rất thông minh vẫn bị lừa vì
bổn tính cả tin, quá tin đâm ra khờ dại, là vì họ bị lừa trong những
hoàn cảnh đặc biệt không như lúc bình thường để mình có thể sử dụng trí
thông minh có sẵn. Thí dụ chính Giáo sư Stephen Greenspan (không họ
hàng gì với ông Alan Greenspan, cựu chủ tịch Hệ thống Dự trữ Liên bang
Hoa Kỳ), ông không hề nghe nói đến quỹ đầu tư của ông Madoff, nhưng đã
tin vào một chuyên gia đầu tư, một người bạn của cô em gái mình. Vì tin
nên góp tiền, cuối cùng tiền của ông được trao đến tay ông Madoff!
Greenspan làm quen được với vị “cố vấn đầu tư” đó trong chuyến đi thăm
vợ chồng cô em gái ở Boca Raton, một thị xã trong quận Palm Beach ở
tiểu bang Florida. Đây là một khu khá giả. Lợi tức của một gia đình mức
trung ở đây là 90,000 đô la một năm, trong số 75 ngàn dân phần lớn là
người Mỹ gốc Do Thái rất sắc sảo

Cô em gái đã giới thiệu giáo sư Greenspan với người bạn thân của mình.
Ông thấy có cảm tình ngay và tin cậy người bạn mới này. Vì thế ông bỏ
tiền vào quỹ đầu tư mang tên “Rye Prime Bond Fund,” một cái tên rất
hiền lành, gợi ý tiền trong quỹ sẽ dùng để mua trái khoán – chứ không
mua cổ phiếu nhiều rủi ro. Greenspan hoàn toàn tin tưởng; vì chính cô
em gái ông cũng đưa tiền cho người bạn đầu tư giúp. Và chính vị cố vấn
tài chánh chuyên nghiệp này cũng tự mình bỏ hết số vốn liếng rất lớn
của ông ta vào quỹ Rye nữa. Không những thế, ông bạn này còn đem cầm cố
ngôi nhà mình để vay thêm tiền đầu tư nữa. Ông Greenspan lại biết vợ
chồng cô em mình và người bạn của họ đã từng thành công trong việc đầu
tư suốt nhiều năm qua. Hỏi ai mà không tin tưởng?

Rye Prime Bond Fund là một trong nhiều quỹ đầu tư của công ty nổi tiếng
Tremont, và chính công ty này là của Mass Mutual Life, toàn là những
tên được tín nhiệm trong giới đầu tư ở Mỹ. Các cuộc điều tra sau này
cho biết có khoảng 15 công ty lớn và các chi nhánh của họ ở khắp thế
giới đóng vai “trung gian thu góp vốn” (feeder) cho ông Madoff. Những
tay feeders này có biết họ bị Madoff lừa hay không? Đây là một câu hỏi
mà ra tòa án luật sư của các nạn nhân sẽ hỏi họ!

Khi trở về Colorado nơi ông dậy tâm phân học ở một bệnh viện, Greenspan
gặp một người bạn tỏ ý nghi ngờ về ‘cơ hội’ đầu tư mới của ông. Nhưng
ông giáo sư tâm lý đã bỏ qua, vì nghĩ rằng người bạn đó hay nghi ngờ
quá đáng mặc dù rất khôn ngoan và thông thạo về các vấn đề tài chánh!
Người bạn đó nghi, cũng như nhiều người khác nghi ngờ khi thấy một quỹ
đầu tư đạt được lợi suất cao trên trung bình hết năm này sang năm khác,
trải qua nhiều chu kỳ thị trường lên xuống. Một thành tích như vậy khó
lòng đạt được! Ông bạn này giữ được tính nghi ngờ vì ông ta “đứng ngoài
cuộc”. Còn những người đứng trong cảnh chứng kiến thấy người chung
quanh mình đã từng góp vốn và đã từng kiếm lời nhiều năm, họ không nghi
ngờ được! Họ bị một thứ “áp lực xã hội” không thể cưỡng lại nên phải bỏ
tiền vào; lo rằng nếu bỏ lỡ cơ hội kiếm tiền dễ dàng này thì mình có vẻ
là người quá dè dặt và sẽ bị bạn bè, anh em chê cười là mình nhát nhúa
hoặc khờ khạo!

Đó là chưa kể mối liên hệ với những người cùng tôn giáo và sắc tộc. Ông
Greenspan cho rằng nhiều người gốc Do Thái đã bị mất tiền trong vụ lừa
đảo này chính vì Bernard Madoff là một người Do Thái nổi tiếng rất hào
phóng, ông ta đã đóng góp rất nhiều cho các quỹ từ thiện, văn hóa, xã
hội của người Do Thái để giúp nước Israel và những người Do Thái khác.
Nhiều người coi việc được gặp ông Madoff, được góp tiền với ông ta là
một điều vinh dự. Vì ông không đi mời chào ai cả, muốn đưa tiền cho ông
ấy rất khó.


Sáu
ngày trước khi bị bắt, Madoff còn “gia ân” cho một người Do Thái giầu
có ở Bronx, New York, khi bằng lòng nhận 10 triệu bạc của ông ta. Ông
Martin Rosenman đã nghe nhiều người quen cho biết góp cho quỹ Madoff có
lời trên 10% một năm hàng chục năm không thay đổi. Khi được Madoff trả
lời điện thoại vào đầu tháng 12, 2008, Rosenman lúc đầu còn bị từ chối,
vì Madoff nói ông ta đã khóa sổ, chỉ nhận các thân chủ mới góp vốn vào
đầu năm 2009 thôi. Ít bữa sau, một thư ký của ông Madoff điện cho
Rosenman cho biết ông ta có thể gửi tiền vào một trương mục của Madoff
trong ngân hàng J.P. Morgan Chase. Rosenman mừng rỡ chuyển ngay 10
triệu bằng điện thư ngày 5 tháng 12. Vài ngày sau, Rosenman nhận được
thư báo tin số tiền của ông ta đã được dùng trong việc “bán non” (short
sale) các công khố phiếu của chính phủ Mỹ – sau này coi sổ sách của
Madoff thì không hề thấy có vụ mua bán nào như vậy diễn ra cả. Đến ngày
11 thì Rosenman biết mình đã gặp tay đại bợm. Bây giờ luật sư của ông
ta đang lý luận rằng 10 triệu đô la của Rosenman vẫn chưa mất, vì chưa
được Madoff dùng, chúng vẫn nằm trong trương mục tại ngân hàng J.P.
Morgan, có thể đòi lại! Nhưng khi một kẻ trộm lấy tiền của nhiều người
bỏ túi, thì làm sao phân biệt được đồng tiền nào của ai, đồng nào bỏ vô
trước, đồng nào bỏ vô sau?


Không biết và không chịu hỏi

Trở lại bài báo của Giáo sư Stephen Greenspan. Ông đồng ý rằng những
người nhẹ dạ cả tin (và mất tiền như chính ông) có khi bị coi là khờ
dại (stupidity). Nói rành mạch theo lối phân tích của một nhà tâm lý
học, tính nhẹ dạ cả tin là do thiếu tin tức, thiếu hiểu biết về kẻ lừa
đảo và việc làm có tính cách lừa đảo của hắn. Ông không coi đây là một
vấn đề về trí thông minh (intelligence) mà là một vấn đề “tri thức”
(cognition). Một người rất thông minh (đã đậu Ph.D. và làm giáo sư đại
học nổi tiếng như Stephen Greenspan chẳng hạn), với chỉ số IQ cao,
nhưng vẫn có lúc nhẹ dạ cả tin và bị lừa. Greenspan nhắc tới cuốn sách
“Who Is rational” (Ai là người thuần lý) của giáo sư Keith Stanovich –
các vị giáo sư thường dẫn lời và ý của các vị giáo sư khác để tỏ ra
lương thiện, không nhận vơ ý của người làm của mình. Trong cuốn sách đó
tác giả đã phân biệt trí thông minh (intelligence, tức là có một khả
năng tri thức cao) và tính thuần lý (rationality, tức là khả năng sử
dụng đúng lúc đúng chỗ cái trí thông minh của mình). Một người có khi
hành động phi lý, (như những hành động vì nhẹ dạ cả tin chẳng hạn), vì
để cho tình tự (emotion) thúc đẩy, có khi làm một cách bốc đồng, không
suy tính, không dùng đến trí thông minh của mình nữa.

Ông Stephen Greenspan đã tự phân tích, thấy rằng khi đồng ý góp tiền
cho quỹ Rye, không biết rằng những người quản lý quỹ đó đã đem tiền góp
cho ông Madoff, chính Greenspan hoàn toàn không biết gì về thế giới tài
chánh và đầu tư cả. Không những thế, vị giáo sư chuyên nghiên cứu tâm
lý con người này lại mắc tật lười biếng, không muốn mất công tìm hiểu
nhiều hơn về thế giới mình không biết đó.

Nếu hành động một cách thuần lý, đáng lẽ Stephen Greenspan phải đặt câu
hỏi coi quỹ Rye mà ông bỏ tiền vô thì họ đem tiền đó đi làm những gì.
Khi biết rằng họ đem gửi cho ông Madoff thì đáng lẽ phải đi tìm hiểu
xem chính ông Madoff đã đem tiền đó đi đầu tư ở đâu trong suốt mười năm
qua mà sao năm nào kết quả cũng tốt như thế? Có nhiều nhà đầu tư đã làm
đúng như vậy. Và khi họ thấy không thể giải thích tại sao ông Madoff có
thể đạt được mức lời trên 10% một năm, không cao quá mà cũng không thấp
quá, hết năm này sang năm khác, họ đâm ra nghi ngờ và quyết định không
đưa tiền cho ông ta nữa! Các công ty đầu tư của Merrill Lynch và
Goldman Sachs đều đã tìm hiểu như vậy, và thấy cái quỹ của ông Madoff
nó khó hiểu đâm ra nghi ngờ như vậy. Cho nên họ đã khuyên thân chủ của
họ không bỏ tiền cho Madoff, mặc dù họ không thể nói cái quỹ đó có gì
khuất tất, vì thiếu bằng cớ! Rất nhiều người đã chịu khó đặt câu hỏi và
kết luận rằng không biết ông Madoff đã đạt được mức lời liên tục như
vậy bằng cách nào, mà chính ông ta thì nhất định giữ “bí mật gia
truyền” của mình, không chịu giải thích. Không biết, không hiểu nổi,
thì không bỏ tiền vô, thế là thoát nạn!

Stephen Greenspan đã tự lảng tránh, không đối đầu với sự khiếm khuyết
trong hiểu biết về thế giới tài chánh của mình, cũng như không thể bỏ
tính lười biếng không chịu tìm hiểu của mình, vị giáo sư thú nhận, ông
đã theo một phương pháp khác, là “dò dẫm và đi tắt” (heuristic) để bù
lại cho các khuyết điểm trên. Phương pháp đó là dùng khả năng tri thức
của mình để xác định những người có khả năng và kinh nghiệm trong thế
giới tài chánh, rồi tin vào những vị cố vấn đó mà hành động theo họ. Ở
đây, ông Greenspan đã tìm thấy ở cô em gái, chồng cô ta, và người bạn
thân của cô ta. Đó toàn là những người đầu tư đã thành công, và họ đã
bỏ vốn cho quỹ Rye; mình cứ làm theo họ là ăn chắc! Đây là một phương
pháp không thuần lý, nhưng tác giả thú nhận mình đã sử dụng phương pháp
đó nhiều lần trong đời và thấy ích lợi nên cứ thế dùng tiếp!

Cuối cùng ông Stephen Greenspan đã mất tiền. Ông may mắn vì chỉ nhẹ dạ
cả tin có một phần ba thôi, không đem hết tiền dành dụm đưa cho Madoff
mà không biết Madoff là ai!

Đỗ Quý Toàn

Huy_BMW
12-01-2009, 01:14 PM
Tôi chỉ muốn nói hai từ " Cảm ơn",cảm ơn Anh Stockpro, mong rằng sẽ có thêm nhiều người có những đóng góp chân thành và quý báu như anh.

stockpro
13-01-2009, 01:21 PM
Tôi chỉ muốn nói hai từ " Cảm ơn",cảm ơn Anh Stockpro, mong rằng sẽ có thêm nhiều người có những đóng góp chân thành và quý báu như anh.


Kiếm lợi từ... sự bất ổn của người khác
Nói kiếm lợi trên sự bất ổn của người khác nghe có vẻ không bình
thường, nhưng đừng vội, vì cách làm ăn đề cập trong bài này khá thân
thiện và đàng hoàng chứ không có gì bất chính. Trong thực tế người kiếm
lợi ở đây cần được hiểu là người tốt bụng nhận sự bất ổn thay cho người
khác...







Thời buổi lạm phát, một trong
những nỗi lo lớn của doanh nghiệp là lãi suất. Đối với các dự án dài
ngày thì ngoài gánh nặng lãi suất cao, sự biến động lãi suất cũng đáng
ngại không kém. Tại sao? Do việc hoạch định tài chính sẽ trở nên khó
khăn, đôi khi là không thể trong điều kiện bất ổn.


Thế nhưng, ngay trong thời buổi kinh tế
bình thường (không phải là thời kỳ lạm phát kéo dài), vấn đề biến động
lãi suất cũng vẫn thường xảy ra, và các nhà hoạch định vẫn luôn có nhu
cầu khóa yếu tố bất ổn này lại... Cho đến nay, có thể nói công cụ tốt
nhất được dùng trong kỹ thuật quản trị rủi ro về lãi suất là swap (hoán
vị).


Để minh họa, ta lấy trường hợp một doanh
nghiệp có kế hoạch đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất và chế biến
hàng gỗ gia dụng, có nhu cầu vay 50 tỉ đồng, thời hạn trả nợ vay là năm
năm. Là chỗ thân tín, doanh nghiệp đến gõ cửa ngân hàng và vay được
khoản tiền, nhưng lãi suất cũng chỉ có thể là thả nổi. Ví dụ, vào thời
điểm 5-2008, mức này là 18%, tức 1,5 lần lãi suất cơ bản (LSCB); nhưng
đến giữa 6-2008, do lãi suất cơ bản tăng lên 14% nên 1,5 lần LSCB sẽ là
21% (14% + 7%). Như vậy rõ là bất ổn.


Sự bất ổn này làm cho doanh nghiệp khó
dự liệu được phí lãi vay để tính toán hiệu quả dự án, từ lúc xây dựng
và trang bị nhà xưởng cho đến khi vận hành sản xuất, bán hàng và trả
nợ. Nói khác đi, rủi ro lãi suất gây trở ngại cho việc ra quyết định
đầu tư. Doanh nghiệp do đó rất cần một lãi suất cố định và khả thi. Giả
định lãi suất cố định mà doanh nghiệp có thể chấp nhận (5-2008) là 18%,
ta hãy xem doanh nghiệp có thể hóa giải khó khăn bằng cách nào.


Bằng việc sử dụng hợp đồng swap trên
khoản tiền sẽ vay cho dự án, doanh nghiệp có thể thương lượng với một
nhà kinh doanh tài chính nào đó, ví dụ quỹ đầu tư A, để chuyển sự bất
ổn của lãi suất thả nổi cho quỹ này. Đổi lại, doanh nghiệp sẽ trả cho
quỹ A lãi suất cố định trên cùng số tiền. Khi đạt được thỏa thuận như
vậy, doanh nghiệp có thể mạnh dạn tiến hành vay ngân hàng 50 tỉ đồng
với lãi suất thả nổi bằng 1,5 lần LSCB. Song song với việc vay vốn ngân
hàng, nhờ có thỏa thuận swap, doanh nghiệp sẽ đồng thời hoán vị lãi
suất với quỹ A dựa trên khoản tiền gốc 50 tỉ đồng, hiệu lực trong năm
năm. Theo đó, mỗi năm doanh nghiệp sẽ trả cho quỹ A lãi suất cố định là
18% trên 50 tỉ và quỹ A sẽ trả cho doanh nghiệp lãi suất thả nổi là 1,5
lần LSCB trên cùng 50 tỉ.


Cần nhận rõ, doanh nghiệp đang có hai
nghĩa vụ riêng biệt cùng lúc, đó là việc trả lãi vay (thả nổi) cho ngân
hàng và việc thanh toán (khoản cố định) theo cam kết swap. Nhưng theo
phép truyền, có thể xem quỹ A đã thay doanh nghiệp trả lãi vay (thả
nổi) cho ngân hàng. Như vậy là doanh nghiệp đã khử được yếu tố bất ổn
trên khoản lãi vay của mình.


Doanh nghiệp - LS cố định 18% - Quỹ A


Doanh nghiệp - 1,5 lần LSCB - Quỹ A


Doanh nghiệp - 1,5 lần LSCB - Ngân hàng


Có thể có câu hỏi tại sao các giao dịch
lại vòng vèo, đã ngân hàng lại còn quỹ A, tại sao không một mối cho
gọn?... Là do ngân hàng khi cho vay một khoản tiền lớn vào dự án thì họ
chỉ muốn chắc chứ không muốn bất ổn. Doanh nghiệp thì muốn được không
bất ổn để tính trước hiệu quả. Chẳng hạn, theo tính toán họ có thể chịu
lãi suất 18% để bẫy (leverage) lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu lên 30%.
Còn quỹ A, họ chấp nhận bất ổn để kiếm lợi thông qua swap. Với họ, rủi
ro mà doanh nghiệp muốn tránh là cơ hội để đầu tư (đầu cơ). Do có phán
đoán riêng, khi hành động như vậy họ tin rằng có thể chỉ sau một năm
lạm phát sẽ được ngăn chặn, và nếu LSCB lùi về càng nhỏ hơn 12% thì họ
càng có lợi. Tất nhiên, quỹ A cũng có dự liệu sẽ bị lỗ trong thời gian
đầu biến động, nhưng nếu dự đoán đúng thì ba hay hơn ba năm còn lại sẽ
là thời gian lời thuần.


Theo trải nghiệm từ nhiều hiện thực kinh
tế thì điều này chẳng phải viển vông. Cần biết, với swap lãi suất,
không có giao dịch thật trên khoản tiền gốc. Tiền gốc chỉ là vốn khái
niệm (notional principal), giao dịch thật là phần tiền lãi cam kết (gọi
là plain vanilla swap).


Trường hợp được giới thiệu ở đây chỉ là
một góc nhìn đơn giản trong bối cảnh vận động phức tạp của các kỹ thuật
tài chính. Do sự bất ổn muôn hình vạn trạng, việc kiếm lợi và các bài
toán quản trị rủi ro dựa trên công cụ phái sinh trong thị trường
futures, options, swaps... cũng cần lắm công phu.


HUY NAM - Chuyên viên kinh tế và chứng khoán


Theo VietStock

stockpro
14-01-2009, 02:36 PM
[table] 2009 kinh doanh gì? |





[img]http://www.tgvn.com.vn/Uploaded/lananh/idea.jpg" style="border: 1px solid rgb(204, 204, 204); margin: 0px 6px 6px 0pt;" width="250" align="left" border="0" height="249">

stockpro
16-01-2009, 11:00 AM
Bầu Đức, từ gã chăn trâu đến sở hữu máy bay

Cái thằng bé chăn trâu của 40 năm trước hay ngồi vắt
vẻo trên bờ tường sân bay Phù Cát (Bình Định) ngắm máy bay và thêu dệt
ước mơ làm phi công vừa sở hữu máy bay riêng…
Chúng tôi gặp ông bầu (http://www.ymoi.com/tag/bau/" class="st_tag internal_tag" rel="tag" title="Posts tagged with bầu)
nổi đình nổi đám ở phố núi, lúc nào cũng thấy ông mặc cái quần Jean sờn
gối bạc thếch, khi thì ngồi quán cóc bụi bặm, lúc lại chễm chệ trong
khách sạn năm sao bàn chuyện làm ăn với đối tác nước ngoài. Mới đây,
ông Đoàn Nguyên Đức bỏ tiền túi ra [url="http://www.ymoi.com/tag/mua/" class="st_tag internal_tag" rel="tag" title="Posts tagged with mua">mua chiếc máy bay làm tôi nhớ lại lúc ông ngậm ngùi kể mình ngồi giàu nhất Việt Nam[/b], hỏi thì ông chỉ cười cười: “Người ta thống kê tôi có 1.100 tỷ đồng mà mấy ai biết tôi… nợ đến 1.000 tỷ đồng rồi”. Không biết mua một chiếc chỉ để chở mình đi xem đá banh. Thế rồi ông mua chiếc Beechcraft King Air 350 có 12 chỗ ngồi với giá bảy triệu USD. Thật ra bầu Đức không phải chơi ngông còn vài giờ nữa thôi, sợ không kịp đến nhà… Nhìn em nằm thoi thóp, bầu Đức lặn lội sang Thái “săn” Kiatisak và hàng loạt thương vụ bầu Đức còn ấp ủ Việt Nam[/b] mà trông Đoàn Nguyên Đức giống dân chơi hơn là một ông chủ. Bận bịu thế mà khi nghe bạn bè rủ rê… đá banh, bầu Đức đánh Việt Nam hết gỗ rồi bây giờ bầu Đức lại chuyển hướng sang Lào”. Nghe thế ông chỉ cười trừ và nói: “Bên đó người ta nói Việt Nam giúp Lào tổ chức những công trình SEA Games chứ đâu nói xe ôm. Mãi sau này, Bầu Đức mới phì cười thú thật: “Mấy anh bảo vệ thấy tôi mặc cái áo khoác tuềnh toàng lại đi xe ôm nên không cho vào, tôi phải năn nỉ hết hơi. Thật sự, tôi không cố tình đi xe ôm đến nhưng ở sân bay Đà Nẵng đón taxi lâu quá tôi mới nhảy đại lên Bầu Đức chia sẻ: “Tôi tự hào là một trong những người Việt Nam đầu tiên biến ý tưởng thuê các chuyên gia nước ngoài về làm việc dưới tay mình thành hiện thực. Trước đây, tôi hay băn khoăn việc nhân công

giner
26-01-2009, 04:44 PM
Không có chiến lược đầu tưChỉ đầu tư vào những cổ phiếu cá thể thay vì có một danh mục đa dạng các loại chứng khoánĐầu tư vào cổ phiếu chứ không phải vào các công tyMua vào với giá cao và Bán ra với giá thấpLàm rối tung lên những đầu tư của bạnHành động dựa vào những “mẹo” thu thập đượcTrả quá nhiều cước phí và các khoản hoa hồngĐưa ra những quyết định nhằm tránh bị đánh thuếNhững mong đợi phi thực tếSao nhãng khi đầu tưĐầu tư vào công ty chứ không đầu tư vào cổ phiếuĐầu tư theo giá trị thựcChọn thời điểm muaKhông quan tâm- “Luật số 1: Đừng bao giờ thua lỗ. Luật số 2: Không được bao giờ quên luật số 1”. Nguyên tắc này khác hẳn với nguyên tắc cơ bản của các nhà kinh doanh cổ phiếu thành công: phải biết chấp nhận thắng và thua.

- “Giá là những gì chúng ta phải trả. Giá trị là những gì chúng ta nhận được”.

- “Nếu là nhà đầu tư bạn hãy tập trung vào việc công ty đó sẽ hoạt động kinh doanh như thế nào. Nếu là nhà đầu cơ, bạn hãy quan tâm đến giá thị trường của nó, và đó không phải là cách làm hay cuộc chơi của chúng tôi”.

- “Nguyên tắc để làm giàu: Hãy sợ hãi khi những người khác tham lam. Hãy tham lam khi những người khác sợ hãi”. (Theo ông khi số đông “tham lam” sẽ đẩy giá cổ phiếu lên quá cao, vượt qua giá trị thật. Còn khi số đông sợ hãi sẽ đẩy giá cổ phiếu xuống tạo ra những cổ phiếu có biên độ an toàn, và lợi nhuận trong tương lai cao).

“Thời gian là kẻ thù của những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và là bạn của doanh nghiệp đang ăn nên làm ra. Nếu doanh nghiệp bạn đầu tư có tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu 20-25%, thời gian là bạn của bạn. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp thấp hơn mức bạn mong muốn thì thời gian là kẻ thù của bạn”.
- Cẩn thận với đủ kiểu làm giá cổ phiếu

- Đừng mua những cổ phiếu đang là “điểm nóng”- Hãy là chủ sở hữu công ty, chứ không chỉ là chủ sở hữu của những cổ phiếu- Hãy đề phòng “Cái bẫy giá trị”- Hãy xác định giá trị thực của cổ phiếu- Đừng dựa vào sự tăng trưởng để quyết định mua cổ phiếu- Chỉ tiêu lợi nhuận- Lượng hàng bán (doanh thu)- Chỉ tiêu lợi nhuận/doanh thu- Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)Nên bán khi các chỉ số xấu điXác định mức giá bánGiới hạn tổn thấtKiểm tra bản thânQuan sát thị trườngSự thật của lượng dư muaBán cổ phiếu với giá sàn để tạo tâm lý hoảng loạnMua giá trần tạo tâm lý hưng phấnBán chặn giá trênMua chặn giá dướiMua theo kiểu rải đinh.Rải đinh" bán"Rải đinh" để khớp mua giá thấpHoả mù thông tin[/B]Vòi bạch tuộc trên thị trường chứng khoán ?[/B]Tính thanh khoản
+ Lên kế hoạch vốn, chiến lược, phương pháp, thời điểm, tỷ trọng cp/tiền mặt, tỷ trọng giữa các cp khi giải ngân.
+ Chọn Công ty CK đáp ứng đủ các tiêu chí: khớp lệnh tại sàn, qua đt, online, ứng nhanh, huỷ, chuyển tiền qua online hoặc đt. Luôn có 2TK.
+ Luyện cách đọc bảng giao dịch ở cấp độ cao.
+ Chỉ mua bình quân giá tăng, ko mua bình quân giá giảm. (Ko bắt dao rơi ngoại trừ hàng hot, hàng hiếm phải bắt dao rơi trong khoảng Target Price mua vào cho phép)
+ Nguyên tắc kỳ vọng LN (Target Price mua vào, bán ra)
+ Nguyên tắc cutloss.
+ Buy & hold khi tt uptrend, chỉ mua thêm vào phiên điều chỉnh, go long, ride trend. Nhớ nguyên tắc kỳ vọng LN tùy từng thời điểm. Trừ người có thời gian chuyên sâu giao dịch, thì cưỡi trend.
+ Bản lĩnh, vốn, kinh nghiệm cái nào quan trọng? =>BL
+ Mua khi tt sợ hãi dẫm đạp nhau chạy, bán khi tt tham lam vô độ dẫm đạp nhau tranh mua.
+ Triệt để, linh hoạt tuân thủ nguyên tắc đã đề ra.
+ Kiềm chế cảm xúc hưng phấn cũng như sợ hãi
+ Chọn thời điểm chứ ko phải chọn giá.
+ KO bán non cp khi đang uptrend.
+ Mua vào phiên điều chỉnh khi uptrend ko bao giờ muộn
+ Cutloss ko bao giờ muộn, bán bằng được ngay khi xu thế uptrend hụt hơi.
+ Thấy nghi là bán. (Đỡ mang hoang mang lo lắng trong đầu)
+ Chỉ mua bên tay phải vực thẳm.
+ Ko dàn trải danh mục khi vốn ít, tránh phân tán lực.
+ Lướt sóng T+ thêm trong xu thế uptrend hoặc tt dao động mạnh trong phiên.
+ PTKT, PTCB chỉ mang tính chất tham khảo.
+ Phân tích tâm lý đám đông, dòng tiền là tối quan trọng.
+ Tin tức trong ttck là tối tối quan trọng: Ktế, xh, ctrị, vhoá, nội bộ, ...
+ Mọi sai lầm đều trả giá bằng $.
+ Kiên nhẫn là đức tính quan trọng trong ttck.
+ No trend no chết (trade)
+ Cưỡi trend cùng BBs, thổi giá, làm giá.
Chuyển sàn làm tăng giáVòng xoáy [url="http://saga.vn/dictview.aspx?id=2433">thặng dư vốnSự liên kết giữa công ty và các nhà quản lý quỹNhững chiêu kích giá tạo nên [b]

stockpro
03-02-2009, 10:17 AM
“đầu cơ xuống giá” cổ phiếu: Ai được lợi?Khi
những đợt đầu cơ xuống giá bị sụt giảm trong tháng ba, một số người
trong cuộc đã tranh cãi rằng thật sai lầm khi đổ lỗi cho những dự đoán
rủi ro của công ty trong việc dùng cổ phiếu để thế chấp bởi họ đã có
một bị cáo khác: đó chính là những người giao dịch chứng khoán muốn
trục lợi đã cùng bàn nhau kiếm tiền bằng cách kéo giá cổ phiếu xuống
trong cái thế giới luôn chao đảo đó.
[/i]Không
một ai công khai thú nhận việc tổ chức một đợt “đầu cơ xuống giá” khi
việc chủ tâm thao túng thị trường giá cổ phiếu được coi là phạm pháp,
và trong khi chính Phố Wall vẫn tin rằng những đợt đầu cơ xuống giá
không chỉ có thể mà còn thường xảy ra liên tục. Tuy nhiên, vừa có một
số nghiên cứu từ các trường đại học nhằm giải thích động lực của việc
này. Hiên nay, có hai chuyên gia tài chính mới
đưa ra một số quan niệm dựa trên quá trình đó. Và theo lời giáo sư tài
chính Itay Goldstein thuộc trường Wharton thì: “Chúng tôi chủ yếu mô tả
một học thuyết của hành động thao túng đầu cơ xuống giá như thế nào.”
Ông cùng Alexander Guembel đến từ trường kinh doanh Said và trường cao đẳng Lincoln của đại học

Oxford đã mô tả thủ tục này trong bài báo của họ có tiêu đề là “[url="http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1067194">

stockpro
05-02-2009, 10:07 AM
Vì sao Phố Wall lại ghét vàng và bạc?

Phố
Wall phớt lờ vàng và bạc từ thập niên 70, thậm chí là căm ghét và coi
chúng như chưa hề tồn tại. Tôi không hề nhận được sự tôn trọng nào,
mặc dù ấn bản đầu tiên của cuốn sách tôi viết đã bán được 2,6-triệu bản
và đứng ở vị trí gần như cao nhất hoặc cao nhất trong danh danh sách
những cuốn sách bán chạy nhất của tờ The New York Times, tính cả sách
bìa cứng lẫn bìa mềm trong hai năm, và tên tôi đã được nhắc đến trên
tất cả các phương tiện truyền thông; trên Tuần báo Phố Wall, hai lần
trong chương trình của Oprah, ba lần trên Regis và Kathy Lee, vv và vv.
Các phương tiện truyền thông cũng thường có thái độ thù địch. Phố Wall
ít quan tâm đến vàng cho đến khi giá vàng đạt ngưỡng 650 USD, quá muộn
để họ có thể giúp khách hàng của mình có cơ hội kiếm tiền chắc chắn.Tại
sao họ lại có thái độ thù địch? Một phần là bởi vì họ tin vào những lời
hùng biện của mình! Trước đây, vì việc vàng tăng giá thường có nghĩa là
chứng khoán giảm giá hoặc thế giới gặp khó khăn, và họ tạo ra phần lớn
lợi nhuận trong thị trường chứng khoán nên họ phải duy trì tăng giá
chứng khoán và giảm giá vàng. Lời khuyên của họ về thị trường chứng
khoán tăng giá là cần thiết bởi vì những nhà đầu tư sẽ không mua chứng
khoán nếu nhà tư vấn của mình còn mơ hồ về thị trường tương lai. Họ chế
nhạo về nỗi lo lạm phát của chúng ta, những kẻ hâm mộ vàng bạc, và gọi
những người đầu tư vào vàng bằng giọng chế giễu là “những kẻ nghiện
vàng”. Hầu hết những tay hợm hĩnh it tuổi – những kẻ hiện đang kiểm
soát Phố Wall - chỉ chưng diện trong những bộ quần áo kẻ hình thoi cách
đây 25-30 trong thị trường vàng tăng giá vừa qua, vì vậy, họ chưa hề
trải qua cảnh vàng tăng giá và lạm phát gia tăng. Kết quả là, họ không
thể nhận thức được một thị trường vàng tăng giá khác.


Nghiên cứu môn khoa học về người có suy nghĩ lập dị


Một
trong những điều nực cười nhất từng xảy ra với tôi có thể minh họa cho
thái độ hoài nghi của những loại phương tiện truyền thông hiện đại khi
đề cập đến vàng và bạc. Vào năm 1978, tôi tham gia một chuyến xúc tiến
mang tầm quốc gia ở Detroit cho ấn bản đầu tiên của cuốn sách mình
viết. Lúc đó, tôi vội vàng đến đài truyền hình để tham dự một buổi
phỏng vấn đã được lập lế họach trước về buổi trình diễn quy mô vào buổi
sáng. Vừa khi tôi đến nơi, phát thanh viên đài truyền hình đã nhìn sang
camera và nói: “Hôm nay chúng ta sẽ nghiên cứu môn khoa học về người có
suy nghĩ lập dị, và tham gia cùng chúng ta ngày hôm nay là một người
lập dị đến từ California.” Và cuộc phỏng vấn tuột dốc từ đó khi anh ta
hùng hồn cho rằng bạc không phải là sự đầu tư thực tế cho hầu hết mọi
người, trừ phi bạn đủ giàu.


Một
năm sau đó, tôi lại có mặt ở trong chính trường quay này với chính tay
phát thanh viên cũ đang quảng bá về cuốn sách bìa mềm của tôi. Nhưng
lần này, khi đèn bật lên, anh ta nói, “Hôm nay, chúng ta có sự tham gia
của một trong những nhà tư vấn tài chính xuất sắc nhất của nước Mỹ” và
buổi phỏng vấn diễn ra tuyệt vời từ lúc đó.


Sau
buổi phỏng vấn, tôi nhắc anh ta về những điều anh ta đã nói trước đó,
và hỏi điều gì đã làm thay đổi suy nghĩ của anh ta. Anh ta ngượng ngùng
nói, “Tôi đã đọc cuốn sách của ông và mua bạc từ một người buôn tiền
trong vùng, và đã kiếm được số tiền gấp ba kể từ khi ông ở đây lần
trước.” Vì vậy, phương tiện truyền thông không phải lúc nào cũng chính
xác, mặc dù thường sai.


Bên trong Phố Wall


Phố Wall là một tổ chức văn hóa và cũng đồng thời là một tổ chức tài chính.


Phần
lớn những người môi giới trẻ tuổi, những người tạo ra lợi nhuận lớn
trên Phố Wall cũng đều là người, cũng mắc phải tất cả những lỗi sai về
thói quen, ứng xử và áp lực mà tất cả chúng ta phải chịu. Họ bị vây
quanh bởi lôi “tư duy theo nhóm.” Họ làm ra rất nhiều tiền. Tôi đã tới
thăm nhiều công ty ở Phố Wall với những phòng giao dịch chật kín nam nữ
ở độ tuổi 20 với thu nhập hàng năm được tính bằng hàng triệu USD – tất
cả là dựa trên tiền hoa hồng bán chứng khoán.
Chỉ một số ít công ty
lớn ở Phố Wall bán vàng bạc (ngay bây giờ tôi chưa thấy công ty nào như
thế), vì vậy, họ chỉ rút tiền ra khỏi túi khi những tay môi giới khéo
léo đề nghị khách hàng của mình bán một số chứng khoán và chuyển tiền
thành vàng bạc hoặc tiền đồng. Sự quan tâm đến kỳ hạn và khách hàng là
những điều khan hiếm ở Phố Wall.
Bẩm sinh họ là những kẻ biết cách làm tăng giá cổ phẩn trên thị trường chứng khoán, ví đó là nơi họ có thể kiếm kế sinh nhai.


Các cuộc triển lãm tài chính


Nhiều
người trong số các bạn đã nghe hoặc xem những cuộc triển lãm tài chính,
với sự tham gia của những người là điển hình của tư duy tài chính Phố
Wall hiện đại.
Nếu quan điểm về người môi giới của bạn quan tọng
đối với bạn, bạn có thể cảm thấy không thoải mái ở đây. Nếu bạn không
phải là người không theo quy tắc của tổ chức, bạn nên trở thành một
người như thế, và hãy giữ kín điều đó. Bạn sẽ phải rời xa đám đông, và
trong giây lát, đám đông của Merrill Lynch đã xuất hiện trên khắp Phố
Wall.


Sự khủng bố và những điều khác


Chúng ta hãy cùng xem xét chỉ một vài viễn cảnh có thể xảy ra.
Panama và đồng đô la
Khi
chúng tôi đàm phán để giành lại kênh đào Panama cho tổng thống
Torrijos, người đứng đầu nhà nước Panama, trưởng đoàn đàm phán của
chúng tôi là Sol Linowitz, một thành viên của ban Ngân hàng Hóa học ở
New York. Ông được bổ nhiệm trong thời gian sáu tháng kém một ngày, vì
vậy việc bổ nhiệm ông không lệ thuộc vào phê duyệt của Quốc hội, và một
điều đủ chắc chắn đó là vụ giao dịch bị bại lộ được ký một ngày trước
khi Linowitz mãn nhiệm.
Một phần quan trọng trong nhiệm vụ được thôi
thúc bởi chủ ngân hàng của Linowitz đó là Vùng Kênh đào sẽ là một “Vùng
không có hoạt động ngân hàng”, không lệ thuộc vào các quy định hay sự
giám sát nào. Thậm chí trước khi vụ giao dịch được ký, nhiều tòa nhà
ngân hàng còn mọc lên trên khắp Vùng Kênh đào. Mọi ngân hàng đa quốc
gia đều có mặt ở đó, và có vẻ như họ chuyển nhiều hệ thống tiền tệ quốc
tế của mình đến đó, mà không hề được giám sát hoặc quy định. Ai là
người quyết định sự an toàn và khả năng có thể bị tấn công của những
ngân hàng này? Không ai cả!
Nếu những kẻ tấn công khủng bố muốn đột
nhập vào những hệ thống máy tính của những ngân hàng này và làm cho
chúng nhiễm một loại vi rút phá hủy thì toàn bộ hệ thống tiền tệ dựa
vào đồng đô la sẽ biến mất trong nháy máy. Trong trường hợp đó, trên
thực tế, số tiền có thể dùng được còn sót lại sẽ là tiền đồng bằng vàng
hay bạc hoặc hoán vật.
Và điều gì sẽ xảy ra nếu chúng có thể nén gây
ra một cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân lên một con tàu và làm nổ nó
trên kênh đào? Một điều đã đủ tồi tệ đó là người Trung Quốc đang kiểm
soát các cảng trên cả hai đầu kênh. Hãy tưởng tượng tình trạng hỗn loạn
với những ngân hàng bị tắc nghẽn và hoạt động buôn bán bị tê liệt hoàn
toàn.
Những cảnh tượng này và vô số những cảnh tượng khác dường như
là không thể tin nổi, nhưng tôi thách bạn dám nói rằng chúng không thể
xảy ra.
Đây không phải là sự dự báo, mà chỉ là sự suy đoán về tình
huống xấu nhất có thể xảy ra, một viễn cảnh mà chúng ta hy vọng không
xảy ra.


Viễn cảnh siêu lạm phát


Điều
gì sẽ xảy ra nếu lạm phát tiền tệ gia tăng do nhu cầu tăng vọt đối với
chính phủ với thâm hụt tăng vụt, và lạm phát người tiêu dùng không thể
tránh được xảy ra sau đó bùng phát thành siêu lạm phát thực tế, với bộ
máy tiền tệ hiện đại hoạt động cả ngày lẫn đêm, giống như nước Đức
trong những năm 1920. Viễn cảnh này sẽ khiến tiền ngày càng mất giá và
những kim loại quý ngày càng trở nên quý giá. Lịch sử đã cho chúng ta
thấy rằng cảnh tượng này đã xảy ra lặp đi lặp lại, và chúng ta đang lặp
lại hầu hết những sai lầm chết người tương tự.
Chúng ta hãy vờ như
chúng ta được đưa đến một tương lai nơi mà nước Mỹ đang bị siêu lạm
phát tàn phá, và xem điều gì đang diễn ra.
Thế giới sẽ ở trong tình
trạng rối loạn đến kinh hoàng, và sự thịnh vượng, sung túc hiện đang
vây quanh bạn sẽ nằm trong những đống đổ nát. Bạn sẽ bị vây quanh bởi
những người chiến đấu để sống sót, chứ nói chi đến phát đạt, như trong
những năm 1930. Đó là những gì đã diễn ra ở Đức sau khi đồng Mác Đức bị
siêu lạm phát, và tình trạng chung là điều kiện thuận lợi làm sinh ra
kẻ độc tài Adolph Hitler. Nếu bạn đã phát đạt bằng cách giữ vàng và
bạc, bạn có thể mua được nhiều an toàn và an ninh.
Đây chỉ là một vài khả năng.


Tình huống khả quan nhất


Ngay
cả nếu chúng ta tiêu diệt hoặc trung lập hóa al Qaeda và hệ thống tiền
tệ liên kết với nhau, lạm phát tiền tệ đã được nấu thành bánh kinh tế
bởi Cục Dự trữ Liên bang và ngành công nghiệp tiền tệ, và tình hình
cung/cầu bạc cũng vậy. Thậm chí trong tình hình “khả quan nhất” này,
bạn sẽ thực hiện việc đầu tư nhạy cảm với lạm phát tiền tệ, ngay cả
trong một thế giới vẫn còn trật tự.


Nếu
không thể đạt được tất cả những thứ khác, bạn vẫn có thể hy vọng vào
Chế độ an sinh xã hội, Chăm sóc y tế và chương trình thuốc theo toa để
làm nổ ra một trận lũ hàng tỷ tỷ đô la “tiền giấy” và sự lạm phát tiền
tệ sau đó, được tiếp theo như ngày tiếp nối đêm với lạm phát giá cả
tăng vụt. Vì công chúng biết rõ là những chương trình này sẽ nhanh
chóng dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán, tỷ lệ lạm phát
người tiêu dùng và giá vàng, bạc sẽ tăng vọt.


Khi
những thực tế khốc liệt trở nên rõ ràng, Quốc hội sẽ bắt đầu tìm kiếm
giải pháp một cách tuyệt vọng, nhưng những giải pháp đó là gì?


Liệu
họ có tăng thuế và đứng nhìn thuế FICA (FICA-luật đóng góp bảo hiểm
liên bang) tăng vọt và người nộp thuế nổi loạn? Rất hiếm khi, nếu điều
đó xả ra! Liệu họ có cắt giảm phúc lợi hoặc tăng tuổi về hưu theo chế
độ an sinh xã hội? Có thể có một chút, nhưng không nhiều. Liệu họ có
dứt khoát không lùi bước và đào mồ chôn hệ thống loạn chức năng hiện
tại bằng cách in tiền? Bạn có thể coi đó là điều chắc chắc! Điều này sẽ
làm cơ sở cho lạm phát tàn hại, và giá vàng, bạc tăng mạnh hơn.


Trong
tình huống khả quan nhất này (tình huống có khả năng xảy ra nhiều nhất
– Tôi nghĩ, Tôi hy vọng, phải không?), ít nhất chúng ta sẽ chứng kiến
lạm phát gia tăng và suy thoái lạm phát (điều đã được ghi nhận trong
mối liên kết), và giá vàng, bạc cùng các kim loại và nguồn khai thác
của chúng sẽ tăng lên – có lẽ 5 đến 10 lần, hoặc nhiều hơn nữa.


Không
có viễn cảnh về tình huống khả quan nhất – hoặc tình huống xấu nhất mà
trong đó tôi có thể tưởng tượng vàng và bạc là những “kẻ thua cuộc”.
Bạn có thể cầm cố con mình và đánh cuộc trang trại!



Tác giả: Howard Ruff
Website: The Ruff Times
*****
Howard
J. Ruff, tác giả và nhà tư vấn tài chính huyền thoại, đã biên tập và
xuất bản lại cuốn sách bán siêu chạy của mình năm 1978, Làm thế nào để
phát đạt trong những năm tồi tệ sắp tới, hiện vẫn đang là cuốn sách về
tài chính bán chạy nhất trong lịch sử, với 2,6 triệu bản in. Ông là
người sáng lập và biên tập viên của nhà cung cấp dịch vụ Tin thư Tài
Chính The Ruff Times. Đây là bài viết trích từ The Ruff Times số ra
ngày 12/9/2008.
Bài tin thư này hoàn chỉnh hơn và giải quyết hàng
loạt những vấn đề tài chính của tầng lớp trung lưu và bao gồm một Thực
đơn Đầu tư mà từ đó bạn có thể xây dựng danh mục đầu tư cho mình. (Bạn
có thể tìm hiểu thêm tại đây). The Ruff Times đã phục vụ hơn 600.000
người đăng ký – nhiều hơn bất cứ nhà cung cấp dịch vụ tin thư tư vấn
tài chính nào trên thế giới. Cuốn sách mới của ông có bán tại hiệu sách
hoặc tại địa chỉ [url="http://www.rufftimes.com/">

stockpro
05-02-2009, 10:17 AM
Vòng tròn thịnh suy của thị trường vốn: Suy luận về bản chất của tài chính hiện đại




Người ta cho rằng, khủng hoảng là thời điểm
tốt nhất để suy nghĩ về sự bền vững. Vì sau đó, đơn giản là sẽ không có
đủ thời gian cho vấn đề này. Tác giả bài viết cho
rằng, bạn đọc không cần “phi như bay” trong việc tìm kiếm kẻ có lỗi đối
với cơn hoạn nạn này mà là cần cố gắng đào bới để tìm ra những nguyên
nhân thực sự của vấn đề tài chính trên thị trường vốn.









Chìm xuống vực sâu[/b]
Vào
tháng Chín năm 2008, cả thế giới rúng động bởi sự phá sản của một trong
những ngân hàng đầu tư lâu đời nhất nước Mỹ - Lehman Brothers và sự sáp
nhập của ngân hàng đầu tư Merrill Lynch vào ngân hàng thương mại lớn
nhất nước Mỹ là Bank of America. Tiếp theo là sự chuyển đổi của hai
ngân hàng đầu tư khổng lồ Goldman Sachs và Morgan Stanley thành mô hình
tập đoàn với quyền được phép sử dụng tiền gửi từ khách hàng cá nhân.



Những
nhà hoạch định chính sách tại Hoa Kỳ và châu Âu đã phản ứng bằng cách
lập tức rót ngay tiền vào thị trường tài chính và điều đó đã tạo ra kết
quả nhất thời. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đó, thị trường vốn lại chìm
sâu xuống đáy một lần nữa.



Dần dần, mọi việc đã trở nên rõ ràng, tương lai của tình trạng hỗn độn dài hạn rộng khắp toàn cầu trên thị trường vốn đã biến thành hiện thực khắc nghiệt.



Truy tìm nguyên nhân sâu xa[/b]




Báo
chí và truyền hình liên tục đưa ra những cáo buộc rằng các nhà tài
phiệt và đầu cơ là những kẻ tham lam, còn các chuyên gia điều chỉnh
luật pháp thì non nớt và không am hiểu vấn đề. Ngày hội đã đến với
những kẻ chống lại cơ chế thị trường và thị trường tài chính. Và cuối
cùng, sự cám dỗ cũng đã tăng lên đề đưa ra toa thuốc nhanh chóng nhằm
cải thiện tình hình và kết tội một ai đó – người phải nhận trách nhiệm
cho vụ việc đã xảy ra.




Khủng
hoảng là thời kỳ lý tưởng để đánh giá lại những cơ sở nền tảng của thị
trường vốn. Sự hiểu biết hiện nay về cơ cấu và chức năng của thị trường
tài chính được dựa trên những bài học của các cuộc khủng hoảng đã từng
xảy ra trước đây, bắt đầu từ khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929.



Tiếc rằng, những cố gắng để tìm ra giải giáp giản đơn cho vấn đề trên thị trường vốn toàn cầu đã dẫn tới những tổn thất to lớn.



Thị trường vốn hoàn hảo và thực tế[/b]
[/b]


Để
phân tích, chúng ta hãy nhớ lại lại hệ biến hóa của thị trường vốn hoàn
hảo (Perfect Capital Market, PCM). Một trong những yếu tố của PCM là
thiếu mất sự bất cân xứng về thông tin. Tất
nhiên, trong thế giới thực, PCM không tồn tại, vì sự bất cân xứng về
thông tin là phần không thể tách rời khỏi các hoạt động của môi trường
xung quanh. Chính sự bất cân xứng về thông tin làm nảy sinh ra những
vấn đề nghiêm trọng, mà bản chất của nó chính là cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu.



Sự bất cân xứng xảo trá
[/b]


Tất
cả những vấn đề gợi ra có thể đưa đến hai phạm trù: sự lựa chọn bất lợi
– (adverse selection) và hành vi thiếu trách nhiệm của nhà môi giới
(moral hazard). Bài báo đầu tiên đề cập đến việc nắm bắt vấn đề này một
cách hệ thống đã được George Akerlof (đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001) thực hiện dưới nhan đề “Thị trường Lemon – chất lượng không được xác định và cơ chế thị trường” ("The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism").



Sự lựa chọn bất lợi



George
Akerlof diễn giải vấn đề này bằng một tình huống tương tự trên thị
trường ô tô đã qua sử dụng. Rõ ràng, người bán hàng luôn luôn hiểu rõ
hơn về chiếc xe của mình so với khách hàng tiềm năng – anh ta đã bị khổ
sở vì hỏng hóc, thay bộ lọc, sửa chữa xe. Ai có thể biết được giá cả
thực sự của chiếc xe ngoài anh ta. Chúng ta cho rằng nó có giá thực là
10.000 USD. Nếu như không có nhu cầu khẩn cấp thì người bán không sẵn
sàng bán với giá thấp hơn giá này.



Ngược
lại, người mua lại nghi ngờ vào chất lượng của chiếc ô tô đang chào
bán. Anh ta hiểu rằng người bán sẽ không có lợi khi nói về các hỏng hóc
của xe. Nếu như không tin vào chất lượng xe, người mua sẽ đặt giá thấp,
ví dụ là 8.000 USD. Theo quan điểm của anh ta thì phần chênh lệch 2.000
USD sẽ bù cho những khiếm khuyết không nhìn thấy được.



Nếu
như không có khiếm khuyết thì người bán từ chối bán xe với mức chiết
khấu 2.000 USD, và người mua sẽ không mua được chiếc xe tốt. Nếu như
người bán đồng ý, điều đó có nghĩa là chiếc xe có giá thấp hơn 8.000
USD và người mua nhận được “vật vô dụng” (Lemon - tiếng lóng của người
Mỹ và được hiểu là “hàng kém chất lượng”).



Trong
cả hai trường hợp, việc định giá công bằng đã không xảy ra, và sự giảm
giá do người mua đưa ra đã dẫn tới việc là anh ta sẽ được đề nghị mua
các xe khác kém chất lượng hơn. Mâu thuẫn này – không
có khả năng sở hữu chiếc xe có chất lượng với giá công bằng khi không
có sự đánh giá khách quan (ví dụ, ý kiến của thợ cơ khí ô tô) - có tên
gọi là “sự lựa chọn bất lợi” (Adverse Selection).



Hậu quả là, trong tác phẩm của mình “Phân bổ tín dụng trong thị trường có thông tin không hoàn hảo” (1981), George Akerlof và đồng tác giả Andrew Weiss đã chỉ ra rằng, sự lựa chọn bất lợi có một vai trò rất tiêu cực trên thị trường vốn. Nó làm nảy sinh một vấn đề như thế này: mức
tăng của lãi suất tín dụng dẫn đến sự tăng trưởng về lợi nhuận của ngân
hàng đồng thời làm giảm chất lượng của người đi vay tín dụng.



Nhiều
nghiên cứu và khảo cứu thực tế kinh doanh cho phép mô tả những vấn đề
cốt yếu của sự lựa chọn bất lợi trên thị trường vốn như sau:





Không có khả năng cung cấp tài chính cho các dự án và công ty “tốt”
(nghĩa là có lợi nhuận cao và mức độ rủi ro chấp nhận được);

Phân bổ tín dụng hợp lý và thất bại thị trường (market failure) - không
có khả năng tạo ra giá trị và lãi suất công bằng. Hệ quả rõ ràng -
không có hiệu quả thị trường trong điều kiện thiếu thông tin. Kết quả
là xuất hiện một yêu cầu phải giám sát các tài khoản có (nghĩa là việc
vạch rõ chất lượng thực sự của chúng từ quan điểm của nhiều nguy cơ
khác nhau). Nói đúng ra thì vai trò chính yếu của ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác nằm trong việc giám sát này.



Hành
vi thiếu trách nhiệm của các đại lý môi giới. Trong ví dụ bảo hiểm có
thể chỉ ra vấn đề khác nảy sinh do sự bất cân xứng về thông tin. Giả
sử, bạn bảo hiểm toàn phần cho chiếc xe của bạn. Khi đó, sự cần thiết
để điều chỉnh mình một cách thận trọng hơn đã biến mất khỏi đầu bạn –
vì lúc này nếu có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa thì cũng được công ty
chi trả. Chừng nào không thể theo dõi liên tục hành vi của khách hàng,
thì chừng đó công ty còn phải đặt cược rủi ro vào giá trị bảo hiểm.



Điều
này có tên gọi là moral hazard. Thuật ngữ này thường được dịch là “rủi
ro hoặc là thiệt hại về mặt đạo đức”, khác xa với bản chất của hiện
tượng. Về thực chất, moral hazard được thể hiện trong các động cơ hành
vi gian dối của các đại lý. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, họ
nhận được lợi ích từ các bên đối lập, do phân bổ rủi ro không công
bằng. Hành vi như vậy rất duy lý – việc hiện diện của sự bất cân xứng
về thông tin “xô đẩy” những người bình thường đi đến quyết định mang
lại sự tổn hại cho phía đối tác.



Moral
hazard đặc biệt nguy hiểm trên thị trường vốn. Nếu như các dự án được
tài trợ vốn phần lớn là do đi vay, thì sẽ xảy ra những vấn đề không
bình thường. Việc sử dụng “tiền của người khác” sẽ dẫn tới khả năng là
nếu như kinh doanh tốt, tất cả lợi nhuận sẽ thuộc về công ty, còn nếu
kinh doanh tồi, người cho vay sẽ phải chịu phần lớn khoản lỗ.




nhiên, độc giả sẽ nói rằng: nào hãy từ từ đã, vì chính người cho vay
yêu cầu tài sản cầm cố, nghiên cứu tình hình và sẽ cố gắng không cho
phép những hành động rủi ro từ phía người vay tác động lên mình. Những
hành động này cho phép giảm bớt mức độ gay gắt của việc bất cân xứng
thông tin bằng cách yêu cầu người vay đặt những tài sản riêng có giá
trị (cái này được gọi là “bảo hiểm vay nợ”) hoặc là bằng việc giám sát
người vay tiền.






Một
ví dụ không kém phần đắt giá – hoạt động của các ngân hàng đầu tư Hoa
Kỳ trong những năm gần đây. Tốc độ phát triển mạnh mẽ của khối lượng
các thương vụ đầu tư mạo hiểm – trái phiếu tài sản cho vay cầm cố
(collateralized mortgage obligations - CMO) và các thị trường tín dụng
phái sinh dần dần sẽ dẫn tới sự phá sản của thị trường.

stockwizard
07-02-2009, 12:43 PM
Cảm ơn bác pro

Post những bài viết rất hay

stockpro
07-02-2009, 07:16 PM
Cảm ơn bác pro

Post những bài viết rất hay


Bí quyết thành công của nhà đầu tư dài hạnTrên
thị trường chứng khoán ngày nay, có một thực tế là bất kỳ quy luật nào
cũng có trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, vẫn có một vài nguyên tắc có tính chất
“bảo đảm” mà bất cứ nhà đầu tư nào muốn thành công nên quan tâm. Chúng
sẽ là công cụ giúp họ phân tích các xu hướng đầu tư dài hạn, cũng như
lựa chọn được phương thức đầu tư hiệu quả nhất.[/i]

Đó chính là chín nguyên tắc sau đây:


[/b]


1.Bán cổ phiếu mất giá và “tậu” cổ phiếu được giá[/b]





Thông
thường sau một thời gian nếu bạn tính toán thấy khoản đầu tư của mình
đã sinh lợi không nhỏ và chắc chắn những cổ phiếu này sẽ không có khả
năng tăng giá nữa, thì nên bán chúng đi. Tuy nhiên có một số nhà đầu tư
tiếp tục giữ lại những cổ phiếu được họ nuôi hy vọng là có khả năng
phục hồi.





Nếu
một nhà đầu tư không biết thời điểm nào cần “tống khứ” những cổ phiếu
vô vọng thì anh ta sẽ phải nhìn thấy cảnh cổ phiếu của mình xuống giá
đến mức chẳng còn giá trị gì nữa, bán cũng chẳng ai mua. Tất nhiên, ý
tưởng giữ lại các khoản đầu tư “chất lượng cao”, đồng thời bán đi những
cổ phiếu “chất lượng thấp” rất đúng về mặt lý thuyết, nhưng lại cực khó
khi thực hiện. Và những thông tin sau đây có thể giúp bạn:





Mua cổ phiếu đang lên[/i]. Peter
Lynch là người nổi tiếng với bài nói chuyện về “Làm thế nào để khoản
lợi nhuận có thể tăng gấp 10 lần khoản đầu tư”, trong đó đề cập đến
kinh nghiệm của chính bản thân ông.Trong bản danh mục đầu tư của ông,
bạn có thể thấy các khoản lợi nhuận cực lớn mà ông kiếm được từ số vốn
đầu tư cực nhỏ.





Nếu
bạn đưa ra chủ trương bán ngay những cổ phiếu lên giá, thì bạn sẽ không
bao giờ thu được lợi nhuận tối đa. Không ai trong lịch sử đầu tư với lý
thuyết “bán ngay sau khi thấy được lợi gấp ba lần số tiền đầu tư” lại
có thể trở nên giàu gấp 10 lần thời điểm ban đầu. Đừng khư khư “bám”
vào một nguyên tắc cá nhân cứng nhắc nào đó. Nếu bạn không thật hiểu
tiềm năng các khoản đầu tư, thì các nguyên tắc cá nhân cũng chỉ mang
tính tùy hứng và hạn chế mà thôi.





Bán đi những cổ phiếu mất giá[/i].
Không có gì bảo đảm rằng một cổ phiếu sẽ “bay cao” sau khi giảm giá
trong một thời gian dài. Nếu trước khi đầu tư, khả năng đánh giá đâu là
cổ phiếu có triển vọng là rất quan trọng, thì khi đã đầu tư một cái
nhìn chuẩn xác về các khoản đầu tư hiện tại cũng đóng vai trò quan
trọng không kém.





Thông
thường bạn rất khó nhận ra mình sẽ thua lỗ, vì đi cùng với nó là việc
“thừa nhận” mình mắc sai lầm. Vì vậy bạn phải rất thực tế và thành thật
với chính mình rằng cổ phiếu đã đầu tư sẽ không mang lại hiệu quả như
mong đợi. Đừng sợ điều đó ảnh hưởng đến lòng tự trọng của bạn, mà hãy
tìm cách “tống khứ” nó đi trước túi tiền của bạn bị thâm hụt nhiều hơn.





Trong
cả hai trường hợp, điểm cần chú ý nhất là nên đánh giá đúng tiềm năng
của các công ty thông qua nghiên cứu của chính bản thân. Trong mỗi
trường hợp, bạn vẫn sẽ phải tự quyết định “sự lựa chọn” đầu tư thế nào
vào tương lai. Chỉ có điều, hãy nhớ đừng để nỗi sợ hãi lấn át cơ hội
kiếm được nhiều lợi nhuận hoặc đừng quá tự tin vì nó rất có thể sẽ
khiến bạn thâm thủng ngân quỹ nhiều hơn.





2. Đừng mua những cổ phiếu đang là chủ đề “nóng”[/b]





Bất
kể anh em, họ hàng, hàng xóm hay thậm chí là chuyên gia tư vấn có nói
nhiều về chủ đề của một công ty nào đó thì cũng không có gì bảo đảm
rằng cổ phiếu của nó sẽ sinh ra lợi nhuận. Khi bạn đưa ra một quyết
định đầu tư, bạn phải biết rõ lý do tại sao. Bạn cần phải tự mình tiến
hành những nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng trước khi đầu tư một số
tiền lớn mà phải rất khó nhọc bạn mới kiếm được chúng.





Nếu
bạn lệ thuộc vào thông tin do người khác cung cấp, bạn sẽ rất dễ mắc
phải sai lầm. Tất nhiên, đôi khi nếu gặp may, cách này cũng mang lại ít
nhiều kết quả. Nhưng chắc chắn việc dựa vào nguồn thông tin này sẽ
không khiến bạn trở thành người đầu tư “chuyên nghiệp”, tức là sẽ trở
thành nhà đầu tư dài hạn thành công.





3. Đừng mất bình tĩnh khi cổ phiếu “rớt giá”[/b]





Trong
nguyên tắc một, chúng ta đã đề cập đến tầm quan trọng của quá trình
nhận biết khi nào thì khoản đầu tư sẽ không mang lại hiệu quả như mong
muốn. Và trong trường hợp này, bạn hãy bán nó đi càng nhanh càng tốt.
Tuy nhiên, bạn cần nhớ điều này chỉ áp dụng đối với những khoản đầu tư
ngắn hạn. Còn với tư cách là nhà đầu tư dài hạn, bạn không nên toát mồ
hôi khi những khoản đầu tư của bạn có lúc nào đó trở nên “chao đảo”.





Trong
mỗi hoạt động đầu tư, bạn nên chú ý đến bức tranh toàn cảnh. Bạn hãy
luôn tự tin vào chất lượng của các khoản đầu tư thay vì việc có những
lo lắng không đâu vì những lợi ích ngắn hạn.
Đồng thời, cũng đừng chỉ vì vài đồng trước mắt mà thay đổi thời gian
nắm giữ cổ phần, hoặc bán cổ phiếu ngay khi thấy giá của nó đang ở mức
có vẻ cao.





Nếu
những thương gia năng động thường xem xét giá giá cổ phiếu theo từng
ngày hay thậm chí là từng phút, thì suy nghĩ của các nhà đầu tư dài hạn
lại nắm bắt thông tin từ những chuyển động của thị trường (tức là họ
xem xét giá cổ phiếu trên cơ sở nhiều năm liền). Vì vậy, nếu muốn là
một nhà đầu tư dài hạn, bạn hãy học cách bình tĩnh với các khoản đầu tư
của mình.





4. [/b]Đừng coi trọng quá mức chỉ số P/E[/b]





Đa
số các nhà đầu tư thường coi trọng quá mức chỉ số P/E. Dù nó là một
công cụ chủ chốt trên thị trường chứng khoán, nhưng nếu chỉ sử dụng chỉ
số này để ra quyết định mua hay bán thì rất nguy hiểm và dễ dẫn đến
thua lỗ. Chỉ số P/E chỉ giúp ích cho bạn tốt nhất khi đặt nó vào trong
bức tranh toàn cảnh và kết hợp với những phương pháp phân tích khác. Do
vậy, một chỉ số P/E thấp không có nghĩa rằng mức độ an toàn của một cổ
phiếu dưới mức trung bình, hay ngược lại.





5. Cẩn thận với sức hấp dẫn của những cổ phiếu giá rẻ (penny stocks)[/b]





Thông
thường người ta hay nghĩ rằng sẽ ít bị thua lỗ hơn nếu đầu tư vào những
cổ phiếu có mức giá thấp. Nhưng dù bạn mua một cổ phiếu có giá năm đô
la thôi, trong khi giá trị thực của nó thấp hơn 1 đô la , thì thua lỗ
vẫn cứ là thua lỗ và thậm chí bạn còn mất đi 100% số tiền đầu tư của
mình. Trong thực tế, cổ phiếu giá rẻ mang tính rủi ro cao hơn cả những
cổ phiếu giá cao, do cổ phiếu giá cao được giao dịch thường xuyên hơn.



6.[/b] [/b]Đặt ra chiến lược và thực hiện theo[/b]





Những
người khác nhau sử dụng phương pháp khác nhau để lựa chọn cổ phiếu và
đạt được các mục tiêu đầu tư. Có nhiều con đường dẫn đến thành công và
không thể nói cách của ai tốt hơn.





Tuy
nhiên, khi đã tìm ra hướng đi và nguyên tắc cho mình, bạn hãy trung
thành với nó. Một nhà đầu tư cứ thay đổi liên tục chiến lược lựa chọn
cổ phiếu sẽ không thể đầu tư hiệu quả. Nếu bạn cứ đi theo một chiến
lược đầu tư vốn đã được chứng minh là hiệu quả, bạn sẽ trở thành một
nhà đầu tư luôn đi trước thị trường và tránh được thất bại mà hầu hết
những người khác sẽ gặp phải.





Đây
cũng chính là kinh nghiệm của Warren Buffett trong thời kỳ bong bóng
các công ty dot.com ở thập kỷ 90. Chiến lược đặt giá trị doanh nghiệp
lên hàng đầu của Buffett đã giúp ông tránh đầu tư vào các công ty công
nghệ mới thành lập (dù lúc đó đầu tư vào các công ty công nghệ đang là
“mốt”). Và mặc dù bị giới truyền thông chỉ trích khá nhiều, nhưng rõ
ràng chiến lược này đã được chứng minh là đúng. Buffett hầu như không
ảnh hưởng gì khi “quả bong bóng” dot.com tan vỡ.





7. Luôn nhìn về tương lai[/b]





Khó
khăn nhất trong việc ra quyết định đầu tư là bạn phải phán đoán được
những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Điều quan trọng là bạn phải học
cách phân tích những dữ liệu, biểu đồ, kết quả kinh doanh hiện tại, rồi
định hướng điều gì sẽ xảy ra, và không lung lay quyết định của mình.





Peter
Lynch đã miêu tả kinh nghiệm thành công của ông khi mua cổ phiếu của
Subaru như thế này: “Nếu tôi luôn lo lắng tự hỏi làm thế nào để cổ
phiếu mình mua có thể lên giá cao hơn, thì tôi sẽ không bao giờ mua cổ
phiếu của Subaru. Nhưng khi nhìn vào cơ sở dữ liệu của công ty này, tôi
nhận thấy cổ phiếu của nó hiện vẫn đang ở mức giá thấp hơn giá
trị thực của nó, vì vậy tôi đã quyết định mua nó. Số tiền đầu tư vào
Subaru giờ đã cho lợi nhuận gấp bảy lần”. Qua đây, bạn thấy việc đưa ra
quyết định đầu tư phải dựa trên tiềm năng lợi nhuận trong tương lai,
chứ không phải những gì diễn ra trong quá khứ.





8. Có tầm nhìn dài hạn[/b]





Chỉ
những ai mới tham gia thị trường mới chú ý nhiều đến lợi ích ngắn hạn.
Tuy nhiên, không phải nhà đầu tư nào (dù đã tham gia thị trường lâu
năm) cũng có thể có được tầm nhìn dài hạn và dễ dàng trút bỏ tâm lý
“mua vào, bán ra và kiếm nhiều tiền trong thời gian ngắn”.





Những nhà đầu tư dài
hạn thường chọn chiến lược “mua và giữ” (buy and hold), tức là thực
hiện chiến lược mua cổ phiếu và giữ chúng trong thời gian rất lâu, bất
chấp sự “chao đảo” (nếu có) của chúng trên thị trường chứng khoán.





Không
thể nói việc quan tâm đến tầm nhìn dài hạn tốt hơn là quan điểm ưu tiên
lợi nhuận ngắn hạn, hay ngược lại, song nếu bạn là người không có kinh
nghiệm, nguồn tài chính lại không dồi dào, hạn chế về khả năng phân
tích và thiếu sự đào tạo bài bản, và cũng không có niềm ham mê lắm, thì
tốt nhất bạn không nên là nhà đầu tư dài hạn. Đó cũng là lý do giải
thích tại sao hầu hết mọi người không phù hợp với ngành nghề đầu tư dài
hạn này.





9. Tạo suy nghĩ mở khi lựa chọn công ty[/b]





Các
công ty lớn thường sở hữu những cổ phiếu tốt nhưng lại không phải là
khoản đầu tư sinh lời nhiều. Có hàng ngàn các công ty nhỏ hiện tại
nhưng đầy tiềm năng sẽ trở thành những doanh nghiệp lớn trong tương
lai. Đi cùng với nó đương nhiên sẽ có rất nhiều cổ phiếu có triển vọng,
thuộc hàng blue-chip (cổ phiếu có giá).





Tất
nhiên, danh mục đầu tư của bạn không nhất thiết chỉ toàn những công ty
có số vốn nhỏ, nhưng hãy hiểu rằng: ngoài những cái tên nổi tiếng bạn
nghe thường ngày, vẫn còn những công ty ít được mọi người biết tới. Vậy
thì bạn hãy quan tâm đến chúng, vì chúng có thể sẽ cho bạn lợi nhuận
khổng lồ trong nay mai.





Tùy
theo hoàn cảnh của mình, bạn có thể áp dụng một hoặc tất cả các nguyên
tắc trên đây để tìm kiếm cơ hội thành công trong đầu tư trên thị trường
chứng khoán. Hy vọng rằng những nguyên tắc này sẽ giúp bạn có cái nhìn
sâu sắc hơn, đưa ra được các quyết định cẩn trọng hơn và sẽ trở thành
nhà đầu tư dài hạn thành công.

stockpro
07-02-2009, 07:24 PM
Bài học từ những nhà đầu tư giỏi nhấtKhi
nghiên cứu những bộ óc kiệt xuất trong lĩnh vực đầu tư, bạn sẽ nhận
thấy mỗi người trong số họ đều có ảnh hưởng to lớn đến cách thức đầu tư
trên toàn thế giới, và một nét tiêu biểu chung là họ đều nhìn thấy
trước các cơ hội. John Templeton đẩy mạnh đầu tư quốc tế trước khi xuất
hiện sự thoái trào. Warren Buffett mua hết nhẵn cổ phiếu của các công
ty chưa nổi danh trước rất lâukhi nó trở nênnổi tiếng khắp thế giới.[/i]


Rất
nhiều các nhà đầu tư hàng đầu thế giới chiếm lĩnh đỉnh cao bằng khả
năng của chính mình. Họ không đi theo dấu chân của người đi trước và
không copy phong cách đầu tư của những người khác. Ngay từ khi mới khởi
nghiệp, “Họ đã đặt mình ra ngoài đám đông,” ông Walter Gerasimowicz -
Chủ tịch và đồng thời là Giám đốc điều hành của Meditron Asset
Management nói.

Thường xuyên khó hiểu đối với thị trường

Nếu
bạn muốn tự đặt mình ra khỏi đám đông, thì trước hết bạn phải rất dũng
cảm, đặc biệt là thị trường tài chính, nơi con người hay bị chi phối
bởi tâm lý đám đông rất rõ rệt. John Merrill, Giám đốc điều hành của
Tanglewood Capital Management gọi đặc điểm này là “Sự toàn vẹn trí
tuệ”. Các nhà đầu tư hàng đầu luôn tự tư duy. “Họ không tuân theo các
câu nệ quy ước”, Merrill nói.

Có thể điều này lý giải tại sao
bất cứ một nhà đầu tư nào có tên trong danh sách những người xuất sắc
nhất cũng có nhiều câu nói nước đôi và những sở thích khác lạ. Những
người như Buffett hay ông vua tài chính Bill Gross có khả năng làm cho
hàng triệu triệu người thích thú theo dõi các quan điểm của họ.

Thỉnh
thoảng lời nói nước đôi của các đầu tư xuất sắc này khiến cho các nhà
đầu tư khác không biết phải đánh giá thế nào cho đúng. “Họ thường xuyên
lạc điệu với các trào lưu thị trường”, Merrill
nói. Các bộ óc lớn khéo léo tìm đường đi đúng cho riêng họ trên con
đường mà đám đông đang đi. Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương nhà quản lý
Ken Heebner, người đã từng mua cổ phiếu bất động sản khi nó không được
ưa chuộng và sau đó bán chúng khi giá của loại cổ phiếu này lên tới
đỉnh, chỉ ngay trước thời điểm giá bất động sản có dấu hiệu đi xuống.

Suy nghĩ cho dài hạn

Một
đặc điểm dễ nhận khác: phần lớn các nhà đầu tư đỉnh cao, mặc dù không
phải là tất cả, nhưng hầu như họ đều là những người suy nghĩ đầu tư
trong dài hạn. Họ tin tưởng chắc chắn rằng những danh mục đầu tư của họ
sẽ có giá trị trong tương lai, và họ quyết theo đuổi niềm tin ấy. “Họ
không bị dao động trước các tin tức khác nhau trên thị trường” Georges Yared, nhà hoạch định chính sách đầu tư tại Yared Investment Research nói.

Sự
tập trung trong dài hạn là rất quan trọng khi bạn đánh giá các hạng mục
đầu tư không chỉ cho vài tháng hay vài năm mà là cho vài thập kỷ.
(Chúng tôi chắc chắn các tên tuổi được liệt kê trong danh sách các nhà
đầu tư lớn trên thế giới luôn có sự theo đuổi các hạng mục đầu tư đến
vài thập kỷ). Những ngôi sao đầu tư ngắn hạn sẽ sớm đuối sức dần, và có
thể sẽ tắt ngúm chỉ ngay sau một đợt suy sụp kinh tế.

Merrill
chỉ ra rằng, trong khoảng thời gian đầu những năm 1970, danh tiếng của
các nhà quản lý quỹ đã từng bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng khi thị
trường cổ phiếu chao đảo. Rất nhiều nhà đầu tư đã mất trắng vốn đầu tư,
và họ đổ lỗi này cho các “gã găngxtơ” đang điều hành tại các quỹ quản
lý. Templeton, nhờ nhìn xa trông rộng áp dụng chiến lược tập trung
trong dài hạn và nhấn mạnh đa dạng hóa đầu tư ra nước ngoài, “đã cứu
danh dự cho các quỹ này”.

Các nhà đầu tư
hàng đầu thường chủ động đưa ra chiến lược đầu tư dài hạn có khi tới
vài thập kỷ. “ Và họ sẽ là những người sống sót qua mọi chu kỳ kinh tế,
Gerasimowicz nói. Họ đã sống sót qua các cuộc hỗn loạn kinh tế, chiến
tranh và sự đỏng đảnh của thị trường.

Thay đổi cùng với thời gian

[/b]Thực
ra, không phải tất các các nhà đầu tư thượng thặng đều kiếm ra tiền nhờ
việc mua và giữ các khoản đầu tư. Một số người, giống như nhà đầu cơ
George Soros, đã thu lợi nhuận nhờ việc buôn bán kỳ hạn. Nhưng điều đó
đòi hỏi phải là một người có đầu óc suy nghĩ độc lập. Soros phải là
người nắm rõ các quy tắc thông thường, nhưng ông cũng sẵn sàng đi ngược
lại chúng khi cần.

Vậy thì các nhà đầu
tư lớn kiên định tới mức nào? Họ có chọn ra được một triết lý đầu tư và
nhất quyết theo đuổi nó đến cùng không? Thật khó có thể trả lời được
câu hỏi này. Theo ông Gerasimowicz: “Mọi nhà đầu tư xuất chúng đã có
được thành công là vì họ hoạt động với triết lý đầu tư liền mạch”. Quan
trọng nhất là, “Họ áp dụng nó một cách kiên định đối với mọi danh mục
đầu tư của mình”, - ông nói - “Họ không bao giờ dao động”.

Điều
đó có thể đúng, nhưng chắc chắn rằng nhiều bộ óc lớn phải biết thay đổi
cùng với thời gian. Warren Buffett của năm 1964 không phải là Warren
Buffett của năm 2007, ngay cả khi một số quy tắc của ông ta vẫn như cũ.
Icahn đã điều chỉnh các sách lược của ông phù hợp với các luật lệ mới
và các quy tắc chung mới.

Tuy nhiên có một thứ không thay đổi:
đó là sự may mắn. Thậm chí người giỏi nhất trong số họ có thể đưa ra
một danh sách dài những sai lầm trong đầu tư của ông ta. Đôi khi ngay
cả nhà đầu tư xuất sắc nhất cũng ước ao có thể quay ngược đồng hồ thời
gian trở về quá khứ để sửa chữa những sai lầm ngớ ngẩn của chính mình.
Nhưng các bộ óc sáng giá nhất trong thế giới đầu tư đều biết thích
nghi, và biết rút kinh nghiệm từ các sai lầm đó để hoạch định các chiến
lược đầu tư tương lai.

Một nhà đầu tư bình thường có thể không
có được các kết quả như các nhà đầu tư lớn, nhưng bạn có thể thu được
lợi nhuận nhờ áp dụng các phương thức và các cách tiếp cận của các bộ
óc đã được “đóng dấu chất lượng cao”.

stockpro
12-02-2009, 01:49 PM
Bán cổ phiếu và những sai lầm cần tránh

Một
phần quan trọng trong bất cứ chiến lược đầu tư nào đó là xây dựng một
phương pháp hiệu quả nhất khi bán cổ phiếu. Thoạt nghe có vẻ dễ dàng
nhưng trên thực tế nhiều nhà đầu tư đã mắc phải các sai lầm khiến không
ít lợi nhuận của họ tan biến thành mây khói.Bán
cổ phiếu là một bước đi bắt buộc trong quy trình đầu tư để thu lợi
nhuận. Thật đáng tiếc, chúng ta không phải là những chiếc máy tính và
khả năng tư duy phân tích của chúng ta có thể làm cho kết quả bán cổ
phiếu tốt đẹp hơn hay tồi tệ hơn mức trung bình.


Sẽ
có không ít lần bạn bán cổ phiếu quá sớm hay bán quá muộn vì chờ giá
lên. Điều này cũng là bình thường khi các quyết định của bạn dựa trên
kinh nghiệm hay cảm tính. Thậm chí không ít trường hợp mọi thứ sẽ tồi
tệ hơn rất nhiều nếu các quyết định bán cổ phiếu bị nỗi sợ hãi của bạn
ảnh hưởng.


Trên
thực tế, rất nhiều nhà đầu tư đã bán cổ phiếu dựa nhiều trên yếu tố cảm
xúc và do vậy đã mắc các sai lầm đáng tiếc. Hãy phân tích các sai lầm
khi bán cổ phiếu dưới đây và chắc chắn bạn sẽ rút ra được nhiều bài học
bổ ích:





1. Tiếp tục găm giữ những cổ phiếu bắt đầu thua lỗ



Về
mặt tâm lý, sẽ rất khó cho các nhà đầu tư để bán cổ phiếu của mình khi
giá bắt đầu giảm xuống. Lúc này, họ thường mong muốn chờ đợi cho đến
khi giá cổ phiếu ít nhất quay trở lại với giá mua ban đầu để thu hồi
vốn. Các nhà đầu tư vẫn cứ khăng khăng mình đúng và không chịu bán để
giảm lỗ bởi trong suy nghĩ của họ một khi chưa bán thì chưa lỗ.





Tuy
nhiên, điều đó có thể không bao giờ xảy ra hay phải mất một thời gian
dài mới đạt được mục tiêu này. Rõ ràng, nạn không nên nắm giữ cổ phiếu
trong một thời gian dài nếu chúng đang trên đà giảm giá. Nếu bạn bỏ lỡ
mất mức giá tối đa, cổ phiếu sẽ chẳng mấy chốc rớt giá và bạn sẽ thua
lỗ nhiều.





Nếu
bạn cảm thấy rất chắc chắn về một cổ phiếu, bạn có thể giữ nó lâu hơn.
Nhưng chúng ta không biết được bạn chắc chắn đến mức nào. Một điều chắc
chắn duy nhất trên thị trường chính là sự bất ổn định.


Do
vậy, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào khoản đầu tư và quan tâm tới việc bán
cổ phiếu nếu bạn có thể tái đầu tư khoản tiền này cho những cổ phiếu
khác tốt hơn.



2.Tiếp tục găm giữ cổ phiếu để thu về nhiều lợi nhuận hơn



Khi
một cổ phiếu đột ngột tăng giá, bạn có thể lưỡng lự với việc bán nó,
thậm chí cả khi bạn cảm thấy mức giá đã tăng quá cao và quá nhanh.



Sẽ
luôn có khả năng rằng bạn bán cổ phiếu và sau đó giá tiếp tục tăng cao.
Nhưng cũng không ít trường hợp đây là việc làm tốt nhất để bảo vệ các
khoản lợi nhuận của bạn.



3. Không đặt ra các mục tiêu giá cả



Một
cách để loại bỏ yếu tố cảm xúc ra khỏi thời điểm bán cổ phiếu đó là đặt
ra các mục tiêu giá cao và giá thấp cho việc tái định giá khoản đầu tư.



Bạn
không nhất thiết phải bán cổ phiếu khi giá tăng lên đến mục tiêu trên,
nhưng ít nhất bạn nên xem xét lại cẩn thận khi đó. Việc tuân theo các
quy tắc cố định cho việc bán cổ phiếu khi giá giảm xuống đến một tỷ lệ
nhất định có thể giúp bạn ngăn ngừa những khoản thua lỗ đáng kể.



4.Cố gắng dự báo xu hướng thị trường



Rất
khó để dự đoán chính xác khi nào thị trường đi lên và khi nào thị
trường đi xuống, cũng như khi nào lên đến đỉnh và khi nào xuống đến
đáy.



Thậm
chí cả khi thị trường chứng khoán đi theo đúng những chiều hướng chung,
cũng sẽ có những ngày lên cao và những ngày xuống thấp. Việc nỗ lực bán
và mua cổ phiếu dựa trên những dự đoán về sự thay đổi từng ngày là vô
cùng khó khăn.



5.Lo lắng quá nhiều về các khoản thuế



Thuế
có thể lấy đi một lượng tiền đáng kể trong các khoản lợi nhuận của bạn.
Thậm chí nếu các khoản đầu tư của bạn là dài hạn, thông thường các quy
định về thuế thường ở mức 15% lợi nhuận thu về.



Tuy
nhiên, việc tránh các khoản thuế có thể không phải là lý do tốt để tiếp
tục giữ cổ phiếu trong danh mục đầu tư. Có nhiều chiến lược đầu tư phổ
biến có thể được sử dụng để tránh các gánh nặng về thuế, nhưng thực tế
không có nhiều việc bạn có thể làm nhằm loại bỏ hoàn toàn mức thuế phải
chịu.



Do vậy, nếu đã đến thời điểm bán cổ phiếu, bạn nên quyết tâm thực hiện và đừng quá lo lắng về các khoản thuế.



6.Không quan tâm nhiều tới các khoản đầu tư của bạn



Danh
mục đầu tư chứng khoán của bạn cần được đánh giá định kỳ theo những yếu
tố cơ bản nhằm đảm bảo rằng bạn không bỏ lỡ mất các dấu hiệu cho thấy
đã đến lúc để bán cổ phiếu. Một trong những lý do hợp lý để bán cổ
phiếu đó là khi xuất hiện những thông tin xấu về công ty phát hành.



Bạn
nên đánh giá lại khoản đầu tư của mình khi công ty thay đổi ban quản
lý, khi công ty tuyên bố sẽ sáp nhập hay mua lại một công ty khác, khi
các đối thủ cạnh tranh mạnh gia nhập thị trường và khi một vài nhà quản
trị cấp cao bán ra một số lượng lớn cổ phiếu.



Tóm
lại, dễ dàng thấy được những sai sót trên thị trường chứng khoán luôn
xảy ra mặc dù không phải khi nào cũng là những sai lầm ngớ ngẩn. Điều
quan trọng đối với một nhà đầu tư giỏi đó là phải biết loại bỏ yếu tâm
lý cùng cái tôi cá nhân ra khỏi quá trình mua bán cổ phiếu, phải định
trước mức giá bán để cứ thế mà thực hiện chứ không để tình cảm xen vào
làm hỏng mọi việc.

stockpro
12-02-2009, 01:53 PM
Sự hấp dẫn của những cổ phiếu an toàn và rẻNếu ước mơ “trở thành tỷ phú sau một đêm”, thì thị trường chứng khoán luôn là nơi thôi thúc sự mạo hiểm của các nhà đầu tư. Nhưng đôi khi, chính điều này đã làm cho họ trắng tay vào “buổi sáng hôm sau khi
thức giấc”. Để tránh sai lầm trongđầu tư chứng khoán,thì một trong
những phương pháp được đánh giá cao trong giai đoạn hiện nay là đầu tư
an toàn và cẩn trọng.


Hoạt động của các quỹ đầu tư quốc tế luôn dẫn đến những hoạt động đầu tư đại chúng của hàng nghìn các nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới. Kế từ khi thành lập vào năm 2001, Amit B. Wadhwaney, người quản lỹ quỹ Third Avenue International Value (TAIVF) đã dành thời gian nhiều năm liền để quan sát các công ty trước khi ra những quyết định đầu tư. TAIVF đã tăng trưởng tới trên 1 tỷ USD từ số vốn góp ban đầu là 140 triệu USD.

Trong những tháng đầu năm 2005, một lượng vốn lớn đã được rót vào quỹ từ rất nhiều nhà đầu tư trên toàn thế giới. Tại sao vậy? Câu trả lời là họ tin tưởng vào khả năng quản lý quỹ của Amit B. Wadhwaney. Ông cam kết rằng sẽ giúp số tiền này tăng gấp bội.

Amit
B. Wadhwaney không để tâm nhiều đến các con số lợi nhuận được các công
ty công bố định kỳ hàng quý hay hàng năm. Một trong những nguyên tắc
của ông là không cố gắng cân nhắc hay thậm chí tính toán các con số này với mục đích làm tiền đề cho các quyết định đầu tư của mình. Hơn thế nữa, Amit B. Wadhwaney cũng không bao giờ lưu ý đến
các dự đoán kinh tế vĩ mô, không sử dụng các manh mối hay thông tin nội
bộ của các công ty niêm yết. “Tôi không quan tâm đến những vấn đề này”,
- Amit B. Wadhwaney phát biểu như vậy trong một cuộc nói chuyện mới đây
tại văn phòng của ông ở Manhattan.

Trong các kế hoạch đầu tư
của mình, Amit B. Wadhwaney luôn thích thú với việc “phớt lờ” những
tính toán chuẩn mực tại phố Wall và điều đáng chú ý là những nguyên tắc
của Wadhwayney đã mang lại nhiều kết quả khả quan trong hoạt động kinh
doanh của TAIVF. Quỹ TAIVF đã tăng trưởng 26,7% trong năm 2004 dưới sự
quản lý và điều hành của Amit B. Wadhwaney . “Chúng tôi kiếm tiền dựa
trên những nguyên tắc rẻ và chắc chắc”, Amit B. Wadhwaney cho biết,
“Mặc dù vậy, các khoản lợi nhuận vẫn ngày càng một lớn hơn”.

Đúng như lời ông khẳng định, lợi nhuận của TAIVF luôn đạt hai con số phần lớn là nhờ những phương thức quản lý của người điều hành . Ông luôn quan sát các công ty một cách cầu kỳ trong khoảng thời gian 2 đến 3 năm trước khi mua. Amit B. Wadhwaney không bao giờ mua
cổ phiếu trừ khi ông bị thuyết phục về sự ổn định dài hạn của nó. Một
trong những sở thích của Amit B. Wadhwaney là giữ cổ phiếu trong thời
gian ít nhất từ hai đến năm năm và chỉ đến khi Amit B. Wadhwaney tin
rằng giá trị của cổ phiếu đạt lên đến đỉnh điểm, thì ông mới quyết định bán”.

Wadhawaney tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc đầu tư của mình”, William S. Rocco, một nhà phân tích cấp cao của Morningstar, cho biết, “nếu không có những dấu hiệu ổn định, thì TAIVF sẽ không bao giờ đầu tư”.

Việc
Amit B. Wadhwaney luôn coi trọng việc giữ các cổ phiếu trong thời gian
tương đối dài đồng nghĩa với việc vòng quay doanh thu của quỹ thấp, chỉ khoảng 10% một năm, trong khi con số này ở các quỹ
khác là khoảng 100%. Ngoài ra, điều này cũng có nghĩa là các khoản phí
sẽ ở dưới mức trung bình: tỷ lệ chi phí hàng năm của TAIVF chỉ chiếm
khoảng 1,45% giá trị quỹ, còn đối với các quỹ khác, con số này là 1,85%, - theo Standard & Poors.

Quỹ TAIVF cũng giữ một lượng cổ phiếu ít hơn so với số lượng cổ phiếu trung bình của các quỹ khác. Thông thường chỉ bằng khoảng một nửa so với số lượng trung bình của các quỹ tương tự TAIVF.

“Những tính cách trong đầu tư của Amit B. Wadhwaney đồng nghĩa với việc những nhà đầu tư nào thích những cổ phiếu có tín nhiệm cao, sẽ không thích quỹ của ông”, Rosanne Pane, giám đốc và nhà chiến lược quỹ đầu tư tại S&P, - nói - "Amit B. Wadhwaney luôn có những tiếp cận không như thông lệ và những nhà đầu tư vào quỹ của ông cần phải hiểu
rõ điều đó. Tại TAIVF, bạn sẽ thấy những cổ phiếu chưa từng bao giờ
nghe thấy và bạn cũng sẽ không thể có trong tay những cái tên nổi tiếng
như Sony. Thay vì đó, các nhà đầu tư sẽ chạm trán với những cổ phiếu từ
các khu vực như Nauy và New Zealand, hai quốc gia theo tính toán có số
lượng cổ phiếu chiếm đến gần 1/3 giá trị của TAIVF vào cuối tháng 1 năm
nay. Cổ phiếu nhiều nhất tại TAIVF là của hãng Toll NZ, một công ty vận tải lớn
của New Zealand và cổ phiếu của hãng Aker Kvaerner ASA, một công ty
dịch vụ dầu khí của Nauy. Tuy nhiên, lợi nhuận mà bạn bỏ ra vẫn tương
đương khi bạn sở hữu những cổ phiếu danh tiếng khác”.

Amit B. Wadhwaney ủng hộ nguyên tắc đầu tư an toàn và rẻ. Đối với ông, sự an toàn có nghĩa là công ty phải hội tụ ba điều kiện sau: người
chủ thông minh; hoạt động kinh doanh ổn định; và có tình hình tài chính
vững chắc. Còn rẻ có nghĩa là cổ phiếu đó đang được giao dịch không quá
50% giá trị thực của nó theo ước lượng của ông.

Amit B. Wadhwaney đã đọc cuốn "The Aggressive Conservative Investor" (tạm dịch: “Nhà đầu tư năng nổ bảo thủ”) ba lần trước khi nhận quản lý quỹ trong những năm 90 của thế kỷ trước. Theo
Amit B. Wadhwaney, những cuốn sách như vậy đã tạo ra một định hướng đầu
tư đúng đắn bởi nó đào sâu vào sự phân tích tính ổn định tài chính của
các công ty niêm yết trước khi ra những quyết định đầu tư.

Từ
những kinh nghiệm của các nhà đầu tư “tiền bối”, Amit B. Wadhwaney đã
học cách để tìm ra các công ty “khỏe mạnh” với giá hợp lý. “Phần lớn cổ
phiếu của những công ty chúng tôi mua đều đã và đang trải qua những khó
khăn nhất định. Nhưng điều quan trọng là bên cạnh đó, thì tình hình tài
chính và những kế hoạch dài hạn của công ty luôn vững chắc”, - Amit B.
Wadhwaney cho biết. Theo ông, thì trong đầu tư chứng khoán nên tránh
đầu tư vào những công ty mà có “bảng cân đối kế toán nghèo nàn, một
phương thức kinh doanh riêng biệt, hoạt động quản lý thiếu trung thực
và năng lực cạnh tranh kém trên thị trường”.

Việc đầu tư của
TAIVF vào cổ phiếu của Toll NZ đã cho thấy quá trình Amit B. Wadhwaney
tìm kiếm các cổ phiếu như thế nào. Ông chú ý đến công ty này vào đầu
những năm 90 của thế kỷ XX. Khi đó, Toll NZ còn là một công ty thuộc sở
hữu của nhà nước. Toll NZ hoạt động trên lĩnh vực chuyên chở khách hàng
và hàng hoá bằng đường sắt, dịch vụ bến phà và các hoạt động xe tải. “Hoạt
động của Toll NZ khi đó gần như là độc quyền hoàn toàn”, Wadhwaney cho
biết, “nhưng công ty vẫn chưa phát hành cổ phiếu cho các cổ đông”.

Vào
năm 2002, Toll NZ phát hành cổ phiếu,nhằm tăng vốn lưu động và cắt giảm
các chi phí của hãng. Cổ phiếu được giao dịch ước chừng 72 cent/cổ
phiếu và Amit B. Wadhwaney ước tính kế hoạch này sẽ tốn khoảng một phần
ba giá trị của TAIVF, thời điểm này quỹ của ông mới đi vào hoạt động. Và ông vẫn chưa quyết định đầu tư.

Sau
đó,, mùa hè năm 2003, cùng với những đợt nắng nóng khủng khiếp, hãng
Toll NZ, gặp nhiều khó khăn lớn đến nỗi ban lãnh đạo hãng hết sức lo
sợ, nhưng đây lại là thời điểm Amit B. Wadhwaney nhìn thấy cơ hội của mình.
“Vì thời tiết rất nóng nên các con bò của Austrailia sản xuất được ít
sữa hơn, ngành nông nghiệp gặp khó khăn”, Amit B. Wadhwaney giải thích,
“Kinh doanh vận chuyển đường biển chiếm vị trí quan trọng trong hoạt
động của hãng và khi sản xuất nông nghiệp ít đi cũng đồng nghĩa với
kinh doanh sa sút, công nhân đình công nhiều hơn”.

Vào thời
điểm tồi tệ nhất, giá cổ phiếu của Toll NZ giảm còn 22 cent/cổ phiếu.
Và lúc này, Amit Wadhwaney quyết định mua một số lượng lớn cổ phiếu
Toll NZ. "Mọi thứ đều rất công bằng, mùa hè rồi sẽ chuyển sang mùa đông
và các cuộc đình công sẽ chấm dứt. Nhưng điều quan trọng là cũng với số
vốn đầu tư chiếm 1/3 giá trị của TAIVF, nhưng trong hai thời điểm khác
nhau, chúng tôi đã mua được một số lượng cổ phiếu lớn hơn rất nhiều”,
Amit B. Wadhwaney nói.

Mọi thứ đúng như dự đoán của Amit Wadhwaney, doanh thu của Toll NZ vào mùa đông tăng mạnh trở lại. Cùng với điều này là cổ phiếu của Toll NZ tăng lên 2,2 USD/cổ phiếu, gấp hàng chục lần so với cùng kỳ năm ngoái.


lẽ, lúc này người mừng nhất là Amit B. Wadhwaney, bởi chính khoản lợi
nhuận kếch sù đã chứng minh nguyên tắc đầu tư của ông, “cưỡi trên lưng
những cổ phiếu xuống dốc trước khi chứng kiến nó hồi sinh mạnh mẽ. Amit
B. Wadhwaney không bao giờ nghi nhờ về chiến lược đầu tư của mình “Tôi
đặc biệt kiên định với những quyết định mua cổ phiếu an toàn và rẻ”.

stockpro
13-02-2009, 03:20 PM
Lợi ích từ thua lỗ.

Cách
đây chưa lâu, người ta thường tìm cách rũ bỏ những doanh nghiệp thua
lỗ, không hiếm khi còn trả thêm tiền cho người mua lại doanh nghiệp –
chỉ để sao cho nó khỏi bị phá sản. Còn hiện hay, đây chính chính là một
tài sản hữu ích. Nhờ có nó mà doanh nghiệp có thể tiết kiệm được thuế
lợi tức tới 1/3.



Vì sao những công ty phát đạt lại cần những khoản lỗ trong hạch
toán, về nguyên tắc, không có gì là bí mật. Bất cứ nhân viên tập sự nào
trong lĩnh vực tài chính cũng đều biết rõ khái niệm: “Lá bùa thuế” (tax
shield), hay còn gọi là “tài sản thuế” (theo như cách gọi của những
chuyên viên kiểm toán). Về bản chất, “là bùa” chính là bất cứ khoản chi
hay ưu đãi nào có thể làm giảm đi tiền lãi thuộc diện bị đánh thuế, còn
có nghĩa là giảm đi khoản thuế lợi tức mà doanh nghiệp phải trả. Giá
trị ban đầu của “lá bùa thuế” chính bằng khoản tiết kiệm thuế. Còn trên
thực tế, giá của là bùa còn tính đến yếu tố khấu hao.



Một trong những lá bùa hay được sử dụng trong thực tiễn tài chính
thế giới là quyền chuyển những khoản lỗ (doanh nghiệp có khoản lỗ từ
năm trước được phép khấu trừ vào phần lãi chịu thuế của năm hiện tại).
Ở Nga đã từng có những quy định tương tự, nhưng đã bị bỏ đi trong luật
thế lợi tức từ năm ngoái. Nó đã được sử dụng rất thuận tiện, ví dụ như
trong việc tổng hợp các dòng tiền trong doanh nghiệp: thu nhập của một
Holding đổ dồn vào một công ty thua lỗ cũng thuộc tập đoàn đó, và như
vậy, làm giảm được mức lợi nhuận cũng như thuế lợi tức mà cả tập đoàn
phải trả.


Để đạt được những mục đích trên, có thể mua lại những “vỏ bọc lỗ”
của người khác. Tuy nhiên, chuyển hoạt động kinh doanh từ một công ty
này sang một công ty khác không phải lúc nào cũng dể dàng, hơn nữa cũng
có khi không thể thực hiện được, đặc biệt, nếu như việc kinh doanh liên
quan đến bất động sản và những tài sản có giá trị hay liên quan giấy
phép hoạt động. Nhiều khi, việc “trao đổi” các dòng tiền lại “lẹm”
nhiều vào phần tiết kiệm được. Cũng vì lẽ đó mà “nhu cầu” đối với các
doanh nghiệp thua lỗ hầu như không có.

Những khả năng mới.



Tất cả đã thay đổi trong năm trước. Hiện nay, để thay thế cho việc
chuyển đổi kinh doanh một cách phức tạp vào “vỏ bọc lỗ”, có thể sử dụng
thủ tục đơn giản hơn nhiều là: tái hợp doanh nghiệp, có nghĩa là sát
nhập “vỏ bọc lỗ” vào một tập đoàn nhiều lợi nhuận.



Kết quả thu được cũng sẽ tương tự - mua lại những khoản lỗ có thể
khấu trừ. Một nhà sản xuất bia của Nga mua lại một nhà máy luyện kim cũ
ở đâu đó vùng Uran. Nếu cho rằng, người làm bia bằng cách đó muốn phát
triển kinh doanh cho mình thì hơi ngộ nghĩnh. Việc chuyển đổi hoạt động
không hề được nói đến. Hợp đồng sát nhập (M&A (http://bwportal.com.vn/?cid=6,4&txtid=116&txtword=M&A" target="_blank" class="dictionaryreplace" title="click vào để xem nghĩa của từ))
này chỉ có mục đích liên quan đến khoản lỗ 200 triệu USD do nhà máy có
nhiều vấn đề liên quan đến bán hàng và sử dụng thiết bị máy móc cũ.
Khoản tiền lỗ này, theo những số liệu không chính thức, “đủ dùng” cho
người làm bia trong nhiều năm. Về lý thuyết, phương án sử dụng lá bùa
thuế này đã được sử dụng cho đến trước năm ngoái. Nhưng đó chỉ là lý
thuyết. Trong các điều luật, những điều này không hề được nhắc trực
tiếp đến, và mức độ mạo hiểm cho kết quả tài chính của việc làm tương
tự là rất lớn.


Từ năm 2002, cùng với việc thi hành chương 25 Bộ luật thuế (điều
283, khoản 5), luật pháp quy định trực tiếp đến việc cho phép khấu trừ
đi những thua lỗ của cả hai doanh nghiệp trước khi tái hợp vào khoản
tiền lãi chịu thuế trong năm hiện tại.
Tuy nhiên, đồng thời cũng có một loạt các quy định hạn chế. Ví
dụ, khoản lỗ không thể làm giảm lãi chịu thuế đi quá 30% cho một năm
(trước đây có thể khấu trừ đi tới 50%, nhưng bằng cách tổng hợp tất cả
các ưu đãi, bao gồm cả khoản đầu tư rất lớn). Tuy nhiên, khả năng giảm
thuế suất lợi tức tới 1/3 (từ 24% xuống còn 16,8%) rất hấp dẫn. Thêm
vào đó, phụ thuộc vào tổng số lợi nhuận và thua lỗ, điều này có thể làm
trong vòng 10 năm (trước đây là 5 năm).



Rất thú vị khi thấy rằng, “sơ đồ lỗ” có thể thực hiện cho tất cả
các bên. Không chỉ những doanh nghiệp có lợi nhuận chú ý tới việc mua
những “vỏ bọc lỗ” để làm giảm thuế, mà những doanh nghiệp thua lỗ cũng
có thể mua những doanh nghiệp phát đạt – để thâm nhập vào lĩnh vực kinh
doanh phát đạt với ưu thế cạnh tranh là ‘lá bùa thuế” của chính mình.



Như vậy, bây giờ có thể kiếm tiền từ chính những khoản thua lỗ của
mình một cách an toàn và hoàn toàn hợp pháp. Theo như lời đại diện của
Tổng cục thuế LB Nga: “Nếu như luật pháp đã quy định rằng, doanh nghiệp
sau khi tái hợp có quyền khấu trừ những khoản lỗ có trước khi sát nhập
thì chúng tôi không có gì để phản đối. Bộ luật thuế, đó là những quy
định trực tiếp, còn chúng tôi thực hiện. Tất nhiên, tổng số thua lỗ do
doanh nghiệp đưa ra sẽ được nghiên cứu cặn kẽ. Cụ thể là, sẽ kiểm tra
sát sao việc thực hiện những hạn chế và quy định về việc chuyển lỗ,
trong đó có quy định về việc lưu trữ giấy tờ trong vòng 10 năm, ngay cả
trong trường hợp nếu như doanh nghiệp đã bị xóa tên trong danh sách của
phòng thuế.


Bây giờ chỉ còn lại việc tìm người mua sao cho thích hợp. Hiện tại
thì các bên vẫn phải tự đi tìm. Thế nhưng có lẽ đó chỉ là những khó
khăn tạm thời. Những tay thạo việc đã bắt đầu hấp hé mở ra những trung
tâm môi giới mua bán các doanh nghiệp thua lỗ.


Tuy nhiên, các chuyên viên trong ngành thuế sẽ không chịu ngồi
im.Trong kho tàng của cơ quan thuế ở các nước với hệ thống thuế phát
triển có sẵn những phương tiện đấu tranh với những kẻ chuyên đi săn tìm
“lá bùa thuế”. Ví dụ như cơ quan thuế vụ của Mỹ (Internal Revenue
Service), dựa vào nguyên tắc lợi coi trọng bản chất hơn hình thức
(substance over form principle), có thể bác bỏ việc khấu trừ lỗ vào
khoản thuế phải trả nếu như doanh nghiệp không chứng minh được rằng,
việc sát nhập được thực hiện với các mục đích kinh doanh hợp lý, chứ
không phải là vì để nhận được những lợi ích về thuế.



Các cơ quan thuế vụ ở Nga tạm thời không theo dõi những mục đích
của việc sát nhập. Một mặt, họ không có quyền làm như vậy – về hình
thức, việc làm những người trả thuế khi thực hiện việc tái hợp doanh
nghiệp theo “sơ đồ lỗ” là hoàn toàn hợp pháp. Hơn nữa, theo dõi mục
đích của việc sát nhập và xử phạt là những việc làm mà pháp luật hiện
hành không cho phép.


Evgenhi Timofeev, chuyên viên các vấn đề về thuế của văn phòng
Ernst&Young Moscow cho rằng “Khi chưa có những quy định thuế để
đánh giá tính hiện thực của hợp đồng này hay hợp đồng khác của các
doanh nghiệp, các cơ quan thuế vụ đôi khi sử dụng đến nhưng quy định
của luật dân sự”



Tuy nhiên, về mặt đối trọng thì những quy định về mặt luật pháp lại
không phù hợp. “Bằng chứng là phán xét của trọng tài kinh tế Liên bang
vùng Tây Bắc liên quan đến việc INCOMBANK kiện Cơ sở kỹ thuật của đội
tàu vùng Arkhangensk và SERGEOSINTES ngày 25 tháng 12 năm 2002 – tòa
chỉ ra rằng, việc ‘chứng minh ý định của các bên không phải là để thực
hiện hợp đồng mà là để nhận các ưu đãi về thuế’ không phải là cơ sở để
cho rằng hợp đồng là không hợp pháp”.



Mặt khác, người làm thuế hiện thời chưa đi vào những chi tiết như
vậy – họ còn phải giải quyết những vấn đề có thể thực hiện được và đơn
giản (như là tiến hành thanh tra thuế) hơn là đào bới vào cấu trúc và
thực tế những khoản lỗ của các doanh nghiệp khi sát nhập.



Constantin Mosiakin, trưởng phòng quản lý công tác của Cục thanh
tra thuế Liên bang Nga cho biết: “Đến bây giờ, trên thực tế thì chúng
tôi còn chưa động chạm đến sơ đồ tối ưu thuế bằng cách sát nhập các
doanh nghiệp thua lỗ. Để thực hiện việc giảm mức thuế, có thể vận dụng
theo quy định của chương 25 Bộ luật thuế. Nhưng bởi vì không có sự vi
phạm pháp luật, vì vậy vấn để này không phải là của chúng tôi mà là của
các đồng nghiệp ở Tổng cục thuế. Tuy nhiên, nếu tính đến yếu tố rằng,
Bộ luật vừa có hiệu lực và Tổng cục thuế còn liên tục góp ý, những nhận
xét chỉ có thể được đưa ra theo kết quả cuối năm, khi hình thành lãi
năm. Tuy nhiên, bây giờ tôi có thể nói rằng, chúng tôi cũng như cơ quan
bảo vệ pháp luật, trong tình hình này rất lưu ý sự thua lỗ thực tế. Để
hiểu được động lực của việc “găm” những khoản nợ vào mình, cần tiến
hành phân tích cấu trúc của các khoản lỗ và tài sản của doanh nghiệp bị
mua. Nếu như việc thua lỗ bị “thổi phồng” thì đó là trốn thuế. Và như
vậy sẽ có những hậu quả tất yếu của nó”.


Tuy nhiên, trước khi các cơ quan thuế vụ tiến hành kiểm tra thì những bên liên quan đến hợp đồng M&A đã tự mình kiểm tra rất kỹ.



Giá trị thua lỗ.



Những doanh nghiệp được đem ra bán trước đây đã từng hoạt động một
thời gian, vì vậy người mua thường muốn phải kiểm tra lại tính trong
sáng của doanh nghiệp này. Vì sao vậy? Ít ra là để không phải nhận
những “món quà” trong tương lai, như là: sự đòi hòi bất ngờ của các chủ
nợ, trong số đó, đôi khi lại là nhà nước. Thông thường, chính những
người bán cũng chú ý đến việc kiểm tra như vậy: mức mạo hiểm của hàng
hóa cao bao nhiêu thì giá trị của nó thấp bấy nhiêu. Trong thực tiễn
quốc tế thì trước khi thực hiện mua bán doanh nghiệp, cần tiến hành thủ
tục kiểm tra đặc biệt với sự trợ giúp của các công ty luật hoặc kiểm
toán (due diligence).



Nhưng tốt nhất đối với người bán là trước khi đem bán, ngoài due
diligence nên thực hiện việc thanh tra thuế để chứng minh rằng, mọi
việc đã được thanh toán xong với “thế giới bên ngoài” và cả với nhà
nước. Đánh tiếng cho việc này không khó – cơ quan thuế vụ rất “hào
hứng” kiểm tra doanh nghiệp trước khi đem bán, bởi vì xử phạt những
người chủ mới vì những lỗi lầm cũ của doanh nghiệp là điều không thể.


Khi chưa tìm được người mua, người bán cần bảo quản hàng hóa của
mình cho tốt, cụ thể là trả báo cáo tài chính không có nợ nần và tạo
điều kiện cho cơ quan thuế vụ tiếp xúc với doanh nghiệp. Nếu không,
“linh hồn chết” sẽ bị bắt buộc giải thể do liên tục vi phạm luật (điều
61 Bộ luật dân sự) hoặc vì không có “con nợ” (điều 177 Luật phá sản
doanh nghiệp). Và tất nhiên để không đánh mất “giá trị thua lỗ”, chủ
doanh nghiệp cần phải đăng ký lại ở phòng thuế (điều 26 luật “Về việc
đăng ký các pháp nhân”) trước ngày 01.01.2003.

Như vậy, không nên vội vã vứt bỏ những công ty cũ với thua lỗ
không ai cần tới. Và việc kinh doanh lụi bại bây giờ có thể bán lại rất
hời.

stockpro
15-02-2009, 07:03 PM
[img]http://www.quacauvang.com.vn/Portals/0/PortalImages/gioidtdihoithayboi.jpg" width="130">
Giới đầu tư đi hỏi Thầy BóiNgười
ở Sài Gòn đầu năm thường đến Lăng Ông “xin xâm” coi Đức Tả Quân báo cho
mình một dấu hiệu lành hay dữ trong năm tới. Ở Hà Nội thì đi xin Đức
Thánh ở Đền Ngọc Sơn hay Chùa Quan Thánh. Các nhà đầu tư ở trong nước,
hợp pháp hoặc không hợp pháp, đều tới góp vốn cho Bà Chúa Kho với hy
vọng Thánh sẽ ban cho một vốn bốn lời.





Còn
những nhà đầu tư quốc tế chuyên mua bán cổ phần trong thị trường chứng
khoán khắp thế giới thì họ hỏi ý kiến ai? Tất nhiên, họ có những cố vấn
tài chánh, các chuyên viên phân tích thị trường và các nhà quản lý quỹ
đầu tư thượng thặng.



Nhưng sau năm 2008 hãi hùng, các đại công ty cố vấn đầu tư như Lehman
Brothers, Merrill Lynch, Goldman Sachs đều phải đứng đầu đường ngửa tay
xin chính phủ cứu trợ, thì uy tín của các chuyên viên tài chánh cũng
không còn bao nhiêu nữa. Chính các ngân hàng cố vấn đầu tư cũng phải
theo thời cuộc; khuyên các thân chủ đi hỏi thầy bói!



Tổng thống Obama nên đội mũ Mickey Mouse



Đầu năm Kỷ Sửu, Ngân hàng ABN AMRO ở Hồng Kông đã mời 170 thân chủ tới
nghe ý kiến của một vị thầy bói nổi tiếng, người Trung Hoa gọi là Mệnh
Sư Chiêm Bốc, đó là ông Alion Yeo, được tôn là Thính Dương Thiên Mệnh.
Cuộc họp mặt của những người có vốn đầu tư từ một triệu mỹ kim trở lên
diễn ra trong khách sạn Tứ Quý Tửu Điếm, người Mỹ gọi là Four Seasons
Hotel. Mỗi năm báo chí ở Hương Cảng, Đài Loan và cả trong lục địa đều
đăng những lời tiên đoán vận mệnh thế giới của ông Yeo, ông là người đã
từng tiên đoán trước việc Bắc Hàn thử bom nguyên tử.



Một nhà đầu tư đã đặt câu hỏi: “Năm nay là năm Sửu, mà cả ông tổng
thống Mỹ lẫn ông bộ trưởng tài chánh đều tuổi Sửu, như vậy có phải là
một điềm xấu hay không?”



Chiêm bốc gia đã trả lời: “Đúng là không tốt. Hai người cùng tuổi Sửu
đứng ra điều khiển nền kinh tế thì không phải điềm lành. Hãy đứng ngoài
thị trường chứng khoán Mỹ cho tới đầu năm Dần mới nên bước vào.” Ông
bảo mọi người trong cử toạ hãy coi chừng những ngày từ mùng 6 tháng Sáu
đến mùng 7 tháng Bẩy năm 2009, sẽ có những biến động lớn về tài chánh ở
Mỹ, giống như một trận khủng bố!



ABN AMRO là một chi nhánh của ngân hàng Royal Bank of Scotland Group,
đã tổ chức cuộc tham khảo ý kiến tập thể nhà chiêm bốc này một cách
long trọng. Vị quản đốc về đầu tư của ngân hàng và nhà kinh tế trưởng
chuyên về đầu tư cổ phiếu của họ đã đứng ra giới thiệu diễn giả với các
thân chủ loại bự nhất, trước khi nhường lời cho ông Alion Yeo phát
biểu. Ông mới 45 tuổi, mang một bộ tóc dài, cho biết hồi Tháng Tám năm
ngoái ông đã bay sang Đài Loan để đi cầu khấn. Chuyến bay đã gặp một
trận bão bất ngờ, phải đáp khẩn cấp xuống một phi trường nhỏ. “Có phải
như vậy là một điềm xấu cho thấy thị trường chứng khoán lên xuống bất
thường hay không?” Ông báo cho thính chúng.



Có cách nào để Tổng thống Barack Obama thay đổi được vận mệnh nền kinh
tế Mỹ trong năm nay hay không? Alion Yeo khuyên ông Obama nên đeo trong
mình một cái hình con chuột, lấy tuổi Tý để giảm bớt ảnh hưởng xấu của
tuổi Sửu trong một năm Sửu. Ông Yeo nói: “Có ai đem tặng ông tổng thống
Mỹ một cái mũ có hình con Mickey Mouse hay không?”



Nên đầu tư vào hành Hoả và hành Mộc



Ông Lưu Hằng Lập (Raymond Lo) là một nhà tiên đoán sinh mệnh có tiếng
từ lâu năm trong giới chiêm bốc ở Hồng Kông. Đầu năm Kỷ Sửu này là thời
gian ông bận rộn nhất trong một phần tư thế kỷ nay, ông nói với phóng
viên nhật báo Wall Street, vì nhiều người đến xin coi số mệnh. Trong số
đó có những vị quản đốc ngân hàng và những người quản lý quỹ đầu tư tới
xin ông cố vấn.



Năm nay, số sách về bói toán, phong thuỷ của nhà xuất bản Nhất Thiên
Địa Tu Thư (Cosmos Books) bán rất chạy, cao hơn số bán năm ngoái 25%,
chắc cũng vì tình hình kinh tế suy thoái khiến nhiều người lo lắng
không biết số mệnh đồng tiền vốn mình sẽ ra sao. Hồng Kông là một xứ mà
kinh tế sống nhờ xuất cảng khắp thế giới và làm môi giới về thương mại
và tài chánh. Khi kinh tế cả hoàn cầu suy yếu thì Hồng Kông bị ảnh
hưởng đã tụt xuống sớm nhất.



Nhiều nhà đầu tư ở Hồng Kông đã tham khảo ý kiến các chuyên gia kinh
tế, tài chánh xong rồi, vẫn cảm thấy chưa đủ tin tưởng. Họ đã tới các
cửa đền xin thêm ý kiến khác, second opinions theo lối nói của người
Mỹ. Và cầu khấn các vị thần linh, không mất gì cả hoặc tốn kém rất ít,
mà chỉ hy vọng sẽ được lợi thêm mà thôi.



Giáo sư Lưu Kiều, chuyên nghiên cứu về Tài chánh theo phương pháp tâm
lý động thái (behavioral finance) nhận xét, “Bây giờ mọi người đã thấy
các nhà ngân hàng và chuyên gia tài chánh phạm những lỗi lầm *** ngốc
ghê gớm, cho nên họ đi xin ý kiến giới chiêm bốc gia, hoặc đi cầu khấn
và xin quẻ ở các đền thờ.” Các đền thờ ở Hồng Kông phần lớn không phải
là chùa Phật giáo mà theo Đạo Giáo, một tín ngưỡng bình dân rất phổ
thông ở Trung Quốc, thờ Ngọc Hoàng, cùng với Thái Thượng Lão Quân và
các vị thánh khác.



Các nhà đại gia ở Hồng Kông đã quen đi hỏi ý kiến các thầy bói từ nhiều
đời nay. Bà Nina Wang (Vương Như Tâm) qua đời năm 2007, đã làm giầu nhờ
đầu tư trong thị trường địa ốc tạo nên tài sản hàng tỷ mỹ kim. Trước
khi qua đời bà đã viết chúc thư để lại tất cả tài sản cho một vị thầy
bói; hiện nay con cháu bà còn thưa kiện vụ này ra trước toà.



Năm Kỷ Sửu là năm không có nhiều điềm lành. Người Trung Hoa đã lo lắng
vì mới trong tháng Giêng đã có một vụ nhật thực và một vụ nguyệt thực.
Thế rồi lại có cả điềm xấu ở ngôi đền mà ông Lưu Hoàng Phát (Lau Wong
Fat) đến xin sâm. Ông Lưu là một vị quan chức cao cấp của thành phố đã
tới ngôi đền lớn nhất này khấn vái và xin quẻ. Ông quỳ lạy rồi cầm cả
ống các quẻ sâm lắc lắc nhiều lần xin Thánh ban quẻ. Khi một thanh tre
bật ra rơi xuống, thì xem ra đó là quẻ xấu nhất trong 96 thanh tre
trong ống!



Có những nhà đầu tư đi xem quẻ ở ngôi đền này cho biết năm ngoái đã
theo lời Thánh dậy đem bán hết các cổ phần, đem tiền đi mua vàng. Họ sẽ
không đi hỏi ý kiến các chuyên viên ngân hàng nữa. “Hãy coi, chúng tôi
làm sao tin tưởng ở các ngân hàng được? Coi chuyện gì xẩy ra cho Lehman
Brothers thì biết!”



Cho nên đến các vị quản đốc ngân hàng cũng bắt đầu đi xem bói. Một công
ty cố vấn đầu tư là CLSA Asia-Pacific Markets đã mời một chiêm bốc gia
đến làm cố vấn, mặc dù vị này đã tuyên bố giải nghệ về hưu rồi. Họ in
những lời tiên đoán và ý kiến của ông trong bản tin về đầu tư của họ,
gửi cho các thân chủ gồm 5,000 người quản lý đầu tư và 1,200 công ty
đầu tư khác. Theo ý kiến của hai nhà chiêm bốc mà công ty này tham
khảo, thì Chỉ số thị trường Hằng Thịnh của Hồng Kông năm nay sẽ lên
được một thời gian vào đầu năm và vào tháng Tư dương lịch, sau đó sẽ
tụt mạnh vào tháng Tám, chờ đến mùa Thu sẽ lên trở lại.



Bà Simone Wheeler, phát ngôn viên của công ty CLSA nói rằng các thân
chủ của công ty rất hâm mộ những lối tiên đoán này. Trong lúc thị
trường cả thế giới đang trong tình trạng bất trắc, không ai còn đọc hay
tin vào những bài nghiên cứu kinh tế vĩ mô bằng những lời tiên tri của
các vị thầy bói.



Ngân hàng Trung Quốc, một trong 4 ngân hàng lớn nhất trong lục địa, có
một nhà chiêm tinh ngay trong ban tham mưu, ông Lawrence Lau, ông vốn
là một chuyên gia nghiên cứu về thị trường năng lượng nhưng cũng nghiên
cứu cả về phong thuỷ. Ông nói, “Nhiều người cho là những tín ngưỡng
bình dân cổ truyền không ích lợi gì trong việc đầu tư. Nhưng thử hỏi
xem những mô hình kinh tế tài chánh như Black-Scholes, những công thức
do các nhà tiến sĩ toán học đưa ra, những phương pháp nghiên cứu thị
trường có đưa tới kết quả nào tốt hơn hay không?”



Sau khi nghiên cứu tử vi đẩu số, ông Lau khuyên giới đầu tư năm nay nên
mua cổ phần của những công ty nào liên quan đến hai Hành Hoả và Hành
Mộc. Đó là những công ty hoạt động trong những lãnh vực như năng lượng,
điện tử, và nông nghiệp.



Đó là những thông tin nếu không hữu ích thì chắc cũng không có hại gì, mà nhật báo Wall Street mới trình bầy với độc giả của họ.
Đỗ Quý Toàn

stockpro
31-03-2009, 10:14 PM
Mối quan hệ giữa chứng khoán và lãi suất


Lãi suất


Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng
- giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới
hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Lãi suất có tác
động mạnh nhất đến các nhà đầu tư tài chính cũng như thị trường tài
chính là lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương. Lãi suất chiết
khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng
trung ương (Ngân hàng Nhà nước) đánh vào các khoản tiền cho các ngân
hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất
thường của các ngân hàng này.


Tác động của lãi suất chiết khấu


Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền
gửi (dự trữ của ngân hàng) để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và họ có
một tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi an toàn tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài
quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ
thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng thương mại và dự trữ của
ngân hàng thường lớn hơn dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy
định. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm
xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc có
tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được
từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng
có nhu cầu tiền mặt cao bất thường:
Nếu lãi suất chiết khấu bằng lãi suất thị trường thì ngân hàng
thương mại sẽ tiếp tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến
mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ ngân hàng
trung ương mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào. Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng
thương mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức
tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải
vay tiền từ ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn lãi suất thị
trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng.[/list]


Do vậy, với một tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất
chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, ngân hàng trung ương có thể
buộc các ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền mặt bổ sung khiến cho số
nhân tiền tệ giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm)
để làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, khi lãi suất chiết khấu giảm
xuống thì các ngân hàng thương mại có thể giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và
do vậy số nhân tiền tệ tăng lên dẫn đến tăng lượng cung tiền.


Thông qua lãi suất chiết khấu ngân hàng trung ương có thể kiểm soát
được lạm phát. Đây cũng là cách phổ biến mà ngân hàng trung ương các
nước sử dụng.


Nói một cách đơn giản, bằng cách tăng lãi suất chiết khấu, ngân hàng
trung ương làm giảm lượng cung tiền trong nền kinh tế bằng việc làm cho
chi phí vay trở nên đắt hơn.


Hiệu ứng của việc tăng lãi suất chiết khấu


Lãi suất chiết khấu tăng khiến cho việc vay tiền của ngân hàng
thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Tuy nhiên, sự gia
tăng lãi suất chiết khấu không chỉ dừng lại ở đó, nó còn tạo nên tác
động lan truyền ảnh hưởng đến hầu hết các cá nhân và doanh nghiệp.


Tác động gián tiếp đầu tiên của việc gia tăng lãi suất chiết khấu:
các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay đối với khách hàng. Khách hàng
cá nhân bị ảnh hưởng thông qua việc lãi suất tăng đối với thẻ tín dụng
và các khoản vay ngắn hạn khác. Điều này tác động lên các cá nhân người
tiêu dùng, họ sẽ có ít tiền hơn để chi tiêu. Sau cùng, mỗi tháng mọi
người đêù phải trả tiền cho các hoá đơn và khi các hoá đơn này trở nên
đắt hơn thì khoản thu nhập dự phòng của mỗi gia đình sẽ trở nên ít
hơn. Điều này có nghĩa là mọi người sẽ giảm tiêu cho các dịch vụ và
hàng hóa cao cấp, và điều này sẽ tác động đến doanh thu và lợi nhuận
của doanh nghiệp.


Thông qua việc thay đổi hành vi của người tiêu dùng, tăng lãi suất
chiết khấu sẽ tác động gián tiếp lên doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh
nghiệp cũng chịu sự tác động trực tiếp từ lãi suất chiết khấu. Doanh
nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động
và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt
hơn thì các doanh nghiệp sẽ hạn chế việc vay tiền từ ngân hàng. Doanh
nghiệp chi tiêu ít hơn sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp
và kết quả là lợi nhuận bị giảm sút.


Ảnh hưởng đến giá chứng khoán


Một trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất
cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy
giá trị của doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có
giá trị một cổ phần. Gíá chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác
nhau của nhà đầu tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà
đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau. Một khi
doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu tư
hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ
tăng cao hoặc là doanh thu sụt giảm do người tiêu dùng cắt giảm chi
tiêu thì dòng tiền tương được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ
phần của doanh nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên
TTCK có sự sụp giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị
trường chứng khoán sẽ giảm.


Đối với nhiều nhà đầu tư, thị trường đi xuống hoặc giá chứng khoán
sụt giảm là điều không hề mong muốn. Nhà đầu tư nào cũng kỳ vọng giá
trị khoản đầu tư của mình sẽ không ngừng tăng lên, có thể là ở dạng lãi
vốn, cổ tức hoặc cả hai. Nhưng với kỳ vọng về sự tăng trưởng trong
tương lai thấp hơn và dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp không
tốt như mong đợi, chắc chắn không nhà đầu tư thông minh nào tiếp tục
đánh giá cao doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ mong đợi ít hơn khi sở hữu các
cổ phần. Hơn nữa, đầu tư vào cổ phiếu có thể được xem là rủi ro hơn so
với việc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Do vậy khi giá chứng khoán sụt
giảm, các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán
để đầu tư vào các tài sản khác như trái phiếu, vàng, bất động sản…


Ta xem xét về việc điều chỉnh lãi suất của FED. Lãi suất mà FED điều
chỉnh là lãi suất qua đêm (FED Fund Rate). Đây là lãi suất các ngân
hàng tính cho nhau khi vay qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Quyết định nâng, giảm lãi suất chính ra là do Ủy ban Thị trường Mở Liên
bang (FEDeral Open Market Committee) đưa ra. Lãi suất này sẽ tác động
lên lãi suất chiết khấu.


Các biểu đồ sau cho thấy việc điểu chỉnh lãi suất của FED tác động đến S&P500.


Giai đoạn từ 13/7/1990 đến 4/9/1992: Lãi suất giảm từ 8% xuống 3% (bao gồm cả giai đoạn suy thoái 1990 - 1991)


http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/9092.jpg" alt="9092.jpg (http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/9092.jpg" title="9092.jpg)








Giai đoạn từ 1/2/1995 đến 17/11/1998: Lãi suất giảm từ 6% xuống 4.75%


http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/9598.jpg" alt="1995-1998 (http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/9598.jpg" title="1995-1998)





Giai đoạn từ 16/5/2000 đến 25/6/2003: Lãi suất giảm từ 6.50% xuống 1.00% (bao gồm cả đợt suy thoái năm 2001)


http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/0003.jpg" alt="2000-2003 (http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/0003.jpg" title="2000-2003)


Giai đoạn từ 29/6/2006 đến 30/1/2008 Lãi suất giảm từ 5.25% xuống 3%





Thông qua 4 giai đoạn ta có thể thấy, việc điểu chỉnh giảm lãi suất
cho vay qua đêm của FED không phải lúc nào cũng mang lại hiệu ứng tăng
giá chứng khoán, tiêu biểu là giai đoạn từ giữa năm 2000 đến giữa năm
2003.


http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/0608.jpg" alt="2006-2008 (http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/0608.jpg" title="2006-2008)


Ta tiếp tục xem xét việc tăng lãi suất chiết khấu ở Việt Nam trong năm 2005


Lãi suất chiết khấu |

4,5%/năm

|
1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005 |

01/12/2005

|



Lãi suất chiết khấu |

4,00%/năm

|
316/QĐ-NHNN ngày 25/3/2005 |

01/04/2005

|



Lãi suất chiết khấu |

3,5%/năm

|
20/QĐ-NHNN ngày 07/01/2005 |

15/01/2005

|








http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/vn.jpg" alt="vn.jpg (http://icedrakin.files.wordpress.com/2008/03/vn.jpg" title="vn.jpg)


Lãi suất chiết khấu đã lần lượt tăng từ 3% lên đến 4.5%, nhưng
VNIndex luôn liên tục tăng trong suốt năm 2005. Từ đó ta có thể nhận
định, lãi suất và giá chứng khoán không thực sự có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau.


Lãi suất ảnh hưởng nhưng không quyết định thị trường chứng khoán


Khi lãi suất chiết khấu gia tăng, hiệu ứng tổng thể là nó sẽ làm
giảm lượng cung tiền nhằm mục đích duy trì lạm phát ở mức thấp. Nó cũng
làm cho việc vay tiền của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên đắt hơn,
nó tác động đến hành vi tiêu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh
doanh của các doanh nghiệp, gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp,
khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng là nó có khuynh hướng làm cho
thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.


Tuy nhiên, lãi suất không phải là yếu tố có tính quyết định đối với
giá chứng khoán và có rất nhiều yếu tố đáng lưu tâm tác động lên giá
chứng khoán và khuynh hướng thị trường - một sự gia tăng trong lãi
suất chiết khấu chỉ là một trong những cách đó. Do vậy, không ai có thể
tự tin nói rằng một công bố gia tăng lãi suất chiết khấu của ngân hàng
trung ương có thể tạo nên ảnh hưởng xấu đến toàn bộ giá chứng khoán.

Dưới đây là biểu đồ diễn biến của mức lãi suất tái chiết khấu và chỉ số S&P500.


[img]http://icedrakin.wordpress.com/DOCUME%7E1/ICEDRA%7E1/LOCALS%7E1/Temp/moz-screenshot-1.jpg">

stockpro
09-04-2009, 11:00 AM
Nước Mỹ nợ những ai ?


















http://img1.vneconomy.vn/Images/Uploaded/Share/2009/03/26/GSchina.jpg" style="width: 310px; height: 265px; |





Quốc
kỳ Trung Quốc cạnh lá quốc kỳ của Mỹ tại trụ sở Ngân hàng Goldman Sachs
ở New York. Trung Quốc là quốc gia nắm giữ số lượng trái phiếu Chính
phủ Mỹ lớn nhất thế giới – Ảnh: Getty Images. |











|



|



|










Để xem được Video bạn cần phải cài
Flash Player





|






|










|

Video:
|



|




|




|










Chính
phủ Mỹ đã, đang và sẽ phải chi tiêu lớn để giúp ổn định nền kinh tế,
điều này có nghĩa là nước này sẽ phải có một lượng tiền mặt lớn để chi
trả cho các khoản đó.

Và việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một trong các công cụ huy động nguồn tiền cho nước này.

Đối
với các nhà đầu tư, kỳ phiếu, trái phiếu được xem là sản phẩm tài chính
an toàn với khoản lợi tức khi đến kỳ quyết toán. Việc phát hành trái
phiếu Chính phủ Mỹ đã khiến nước này nợ 11.009,25 tỷ USD, tương đương
77% GDP của Mỹ năm 2008 và số nợ trên vẫn tăng hàng ngày (từ trái tức).

Một câu hỏi được nhiều người quan tâm là những "ai" đang nắm giữ nhiều trái phiếu Chính phủ Mỹ nhất?

1. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi chủ nợ lớn nhất của nước Mỹ chính là nước Mỹ!

Hệ
thống ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và các tổ chức thuộc
Chính phủ nắm giữ số trái phiếu trị giá 4.806 tỷ USD. Trong một thông
báo mới đây, FED cho biết có thể sẽ tăng mức độ sở hữu thêm số trái
phiếu trị giá 1.000 tỷ USD.

Được biết, cách đây một thập kỷ, FED và các tổ chức thuộc Chính phủ “chỉ” nắm giữ số trái phiếu trị giá 2.500 tỷ USD.

2.
Theo số liệu của FED, các quỹ tương hỗ (mutual funds) hiện đang nắm giữ
số lượng trái phiếu Chính phủ Mỹ lớn thứ hai, với giá trị trái phiếu
nắm giữ lên đến 769,1 tỷ USD.

3.
Trung Quốc đại lục - chủ nợ lớn nhất và quan trọng nhất ngoài biên giới
nước Mỹ - đang sở hữu lượng trái phiếu Chính phủ Mỹ với giá trị 739,6
tỷ USD, trong đó riêng đặc khu Hồng Kông mua 71,7 tỷ USD. Từ tháng
9/2008 đến tháng 1/2009, Trung Quốc đã mua thêm trái phiếu với giá trị
120 tỷ USD.

4.
Nhật Bản không chỉ là một đối tác thương mại hàng đầu mà cũng là chủ nợ
quan trọng của Mỹ, với các khoản đầu tư 634,8 tỷ USD để nắm giữ trái
phiếu Chính phủ Mỹ. Tính đến trước tháng 1/2008, Nhật nắm giữ trái
phiếu của Mỹ nhiều nhất so với các nước khác, nhưng đến nay, Trung Quốc
đã chiếm vị trí này.

5.
Theo số liệu của FED, chính phủ các bang và chính phủ liên bang đang sở
hữu hơn 500 tỷ USD giá trị nợ của Chính phủ Mỹ. Trong 3 năm qua, mức
đầu tư dao động từ 516,9 tỷ USD đến 550,3 tỷ USD.

6.
Các quỹ hưu trí (pension funds) đang nắm giữ một lượng tiền lớn và
thường có chiến lược đầu tư vào danh mục đầu tư có tính an toàn cao.
Các quỹ hưu trí của tư nhân và Chính phủ đang nắm giữ số trái phiếu trị
giá 456,4 tỷ USD.

7.
Các nhà đầu tư cá nhân, các doanh nghiệp được Chính phủ đỡ đầu, nhà môi
giới, nhà buôn, các doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận đang nắm giữ
413,2 tỷ USD giá trị trái phiếu Chính phủ Mỹ.

8.
Các nước xuất khẩu dầu thô như Ecuador, Venezuela, Indonesia, Bahrain,
Iran, Iraq, Kuwait, Oman, Qatar, Saudi Arabia, Các tiểu vương quốc Arab
thống nhất, Algeria, Gabon, Libya và Nigeria đang nắm giữ tổng cộng
186,3 tỷ USD giá trị trái phiếu Chính phủ Mỹ, tăng 45,5 tỷ USD so với
một năm trước đó.

9.
Các định chế tài chính ở khu vực Caribbe như Bahamas, Bermuda, Cayman
Islands, Netherlands Antilles, Panama và British Virgin Islands đang
nắm giữ số trái phiếu Chính phủ Mỹ trị giá 176,6 tỷ USD, tăng 67,4 tỷ
USD so với tháng 1/2008.

10.
Brazil hiện đang nắm giữ 133,5 tỷ USD trái phiếu Chính phủ Mỹ. Trong
tháng 6/2008, nước này nắm giữ 158 tỷ USD trái phiếu, sau đó giảm mức
nắm giữ xuống 127 tỷ USD vào tháng 12/2008.

11.
Các công ty bảo hiểm - bao gồm công ty bảo hiểm tài sản và bảo hiểm
nhân thọ - trên toàn cầu hiện đang nắm giữ 126,4 tỷ USD trái phiếu
Chính phủ Mỹ.

12. Nước Anh hiện đang nắm giữ 124,2 tỷ USD giá trị trái phiếu Chính phủ Mỹ, giảm mạnh so với mức 279 tỷ USD trong năm 2008.

13.
Tính đến tháng 1/2009, Nga đã đầu tư nắm giữ các tài sản nợ của Chính
phủ Mỹ tổng cộng 119,6 tỷ USD, tăng 330% so với cùng kỳ năm 2008.

14.
Tính đến quý 4/2008, các tổ chức nhận tiền gửi như ngân hàng tiết kiệm,
ngân hàng thương mại và liên minh tín dụng đang nắm giữ 107,3 tỷ USD nợ
Chính phủ Mỹ.

15.
Luxembourg - một nước có diện tích và dân số nhỏ ở châu Âu - hiện cũng
đang nắm giữ 87,2 tỷ USD trái phiếu Chính phủ Mỹ. Trong 12 tháng qua,
nước này đã mua vào từ 66,1 - 104,7 tỷ USD giá trị trái phiếu.

*
Số liệu trong bài được trích nguồn từ Bộ Tài chính Mỹ, Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (FED), các cơ quan quản lý nợ của Chính phủ Mỹ và hãng tin CNBC.

joinrui
28-04-2009, 07:29 PM
nếu nói như bạn, thì chúng ta chỉ xem CK la 1 trò chơi.Nếu như thế thì làm sao mình có thể tập trung hết tinh thần được chứ

stockpro
12-05-2009, 01:48 PM
Các lý thuyết cấu trúc vốn hiện đại

Lý thuyết cấu trúc vốn hiện đại bắt đầu với bài viết của Modigliani và
Miller vào năm 1958 (gọi tắt là học thuyết MM). Theo học thuyết MM, sự
lựa chọn giữa VCSH và nợ không liên quan đến giá trị của công ty. Nói
một cách khác, học thuyết này chỉ ra một hướng là các giả thuyết về cấu
trúc vốn nên tốt hơn bằng cách nào, cho thấy dưới điều kiện nào thì cấu
trúc vốn không liên quan đến giá trị doanh nghiệp. Lý thuyết cấu trúc
vốn hiện đại được tiếp tục phát triển vào những năm sau đó, bao gồm
thuyết cân bằng, thuyết trật tự phân hạng, thuyết điều chỉnh thị
trường, thuyết cơ cấu quản lý...





Theo quan điểm truyền thống




Quan điểm về cấu trúc vốn truyền thống cho rằng khi một doanh nghiệp
bắt đầu vay mượn, thuận lợi vượt trội hơn bất lợi. Chi phí nợ thấp, kết
hợp với thuận lợi về thuế sẽ khiến WACC (Chi phí vốn bình quân gia
quyền) giảm khi nợ tăng.



Tuy nhiên, khi tỷ lệ giữa vốn nợ và vốn CSH tăng, tác động của tỷ lệ
vốn vay so với tổng vốn buộc các CSH tăng lợi tức yêu cầu của họ (nghĩa
là chi phí VCSH tăng). Ở mức tỷ lệ vốn nợ và VCSH cao, chi phí nợ cũng
tăng bởi vì khả năng doanh nghiệp không trả được nợ là cao hơn (nguy cơ
phá sản cao hơn). Vì vậy, ở mức tỷ số giữa vốn nợ và VCSH cao hơn, WACC
sẽ tăng.



Vấn đề chính của quan điểm truyền thống là không có một lý thuyết cơ
sở thể hiện chi phí VCSH nên tăng bao nhiêu do tỷ lệ giữa vốn nợ và
VCSH hay chi phí nợ nên tăng bao nhiêu do nguy cơ vỡ nợ.




Lý thuyết cấu trúc vốn của Modilligani và Miller (mô hình MM)



Trái với quan điểm truyền thống, Modilligani và Miller (1958) đã tìm
hiểu xem chi phí vốn tăng hay giảm khi một doanh nghiệp tăng hay giảm
vay mượn.



Để chứng minh một lý thuyết khả thi, Modilligani và Miller (MM) đã đưa
ra một số những giả định đơn giản hoá rất phổ biến trong lý thuyết về
tài chính: họ giả định là thị trường vốn là hoàn hảo, vì vậy sẽ không
có các chi phí giao dịch và tỷ lệ vay giống như tỷ lệ cho vay và bằng
với tỷ lệ vay miễn phí; việc đánh thuế được bỏ qua và nguy cơ được tính
hoàn toàn bằng tính không ổn định của các luồng tiền.



Nếu thị trường vốn là hoàn hảo, MM tranh luận rằng thế thì các doanh
nghiệp có nguy cơ kinh doanh giống nhau và tiền lãi mong đợi hàng năm
giống nhau phải có tổng giá trị giống nhau bất chấp cấu trúc vốn bởi vì
giá trị của một doanh nghiệp phải phụ thuộc vào giá trị hiện tại của
các hoạt động của nó, không phải dựa trên cách thức cấp vốn. Từ đây, có
thể rút ra rằng nếu tất cả những công ty như vậy có tiền lời mong đợi
giống nhau và giá trị giống nhau cũng phải có WACC giống nhau ở mọi mức
độ tỷ lệ giữa vốn nợ và VCSH.



Mặc dù những giả định về thị trường vốn hoàn hảo là không có thực,
tuy nhiên, có 2 giả thiết cần được nhấn mạnh và chúng có tác động đáng
kể đến kết quả



1. Giả định là không có việc đánh thuế: đây là vấn đề quan trọng và
một trong những thuận lợi then chốt của nợ là việc giảm nhẹ thuế cho
những chi tiêu tiền lãi.



2. Nguy cơ trong lý thuyết của MM được tính toán hoàn toàn bởi tính
biến đổi của các luồng tiền. Họ bỏ qua khả năng các luồng tiền có thể
dừng vì vỡ nợ. Đây là một vấn đề đáng kể khác với lý thuyết này nếu nợ
cao.



Đưa ra các giả định này có nghĩa chỉ có một thuận lợi của việc vay
tiền (nợ rẻ hơn và ít rủi ro cho nhà đầu tư) và một bất lợi (chi phí
VCSH tăng cùng với nợ vì tỷ lệ vốn vay so với tổng vốn)



Modigliani và Miler chỉ ra là những tác động này cân bằng một cách
chính xác. Việc sử dụng nợ mang đến cho CSH tỷ suất lợi tức cao hơn,
nhưng lợi tức cao hơn này chính xác là những gì họ bù đắp cho nguy cơ
tăng lên từ tỷ lệ vốn vay so với tổng vốn. Với các giả thuyết trên, dẫn
đến các phương trình cho lý thuyết của MM




Vg = Vu: Tổng giá trị của doanh nghiệp sử dụng nợ bằng tổng giá trị của doanh nghiệp không sử dụng nợ.



Năm 1963, Modilligani và Miller đưa ra một nghiên cứu tiếp theo với
việc loại bỏ giả thiết về thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo MM, với thuế
thu nhập doanh nghiệp, việc sử dụng nợ sẽ làm tăng giá trị của doanh
nghiệp. Vì chi phí lãi vay là chi phí hợp lý được khấu trừ khi tính
thuế thu nhập doanh nghiệp, do đó mà một phần thu nhập của doanh nghiệp
có sử dụng nợ được chuyển được chuyển cho các nhà đầu tư theo phương
trình: Vg = Vu + T.D: giá trị của doanh nghiệp sử dụng nợ bằng giá trị
của doanh nghiệp không sử dụng nợ cộng với khoản lợi từ việc sử dụng
nợ. Trong đó, D là tổng số nợ sử dụng, T là thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp, T.D là khoản lợi từ việc sử dụng nợ.



Như vậy, theo mô hình thuế MM (1963) cấu trúc vốn có liên quan đến
giá trị của doanh nghiệp. Sử dụng nợ càng cao thì giá trị doanh nghiệp
càng tăng và gia tăng đến tối đa khi doanh nghiệp được tài trợ 100% nợ.




Thuyết quan hệ trung gian



Kết cấu vốn có thể ảnh hưởng đến các vấn đề trung gian và các vấn đề
trung gian có lẽ cũng ảnh hưởng đến quyết định kết cấu vốn. Thuyết này
đưa ra hai giả thuyết có liên quan chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Đó là
kết cấu vốn ảnh hưởng như thế nào đến các vấn đề trung gian và ngược
lại, các vấn đề trung gian ảnh hưởng như thế nào đến kết cấu vốn.




Kết cấu vốn và các vấn đề trung gian



Giả thuyết rằng lưu lượng tiền mặt tự do gây nên vấn đề trung gian.
Chính vì thế, sự gia tăng trong mức độ vay mượn cho các doanh nghiệp
với lưu lượng tiền mặt tự do chắc chắn sẽ giảm đi các vấn đề trung gian
vì nó buộc ban quản trị phải xuất ra một khoản tiền mặt quá mức. Thuyết
quan hệ trung gian tạo ra lợi nhuận khác từ tiền cho vay ngoài khoản
trợ cấp do đánh thuế. Các doanh nghiệp với các vấn đề trung gian lớn
đầy tiềm năng (quyền sở hữu vốn đầu tư thấp bởi ban quản trị, sự đền bù
cố định cho ban quản trị, các công ty có tiền mặt thấp) sẽ tạo ra nhiều
lãi cho cổ đông bởi việc tăng tiền vay mượn. Chính vì vậy đã nảy sinh
mâu thuẫn giữa nhà quản lý và các cổ đông. Khi vay mượn để đầu tư có
hiệu quả thì các nhà quản lý không được hưởng toàn bộ lợi nhuận từ hoạt
động đó nhưng họ phải chịu toàn bộ chi phí cho hoạt động làm tăng lợi
nhuận này.



Dự báo: Tăng tiền cho vay sẽ làm giảm lưu lượng tiền mặt tự do.

Giảm lưu lượng tiền tự do sẽ giảm những sự đầu tư NPV (http://www.tapchiketoan.com/ngan-hang-tai-chinh/thi-truong-tai-chinh/cac-ly-thuyet-cau-truc-von-hie-3.html#_ftn1" class="" title="_ftnref1" name="_ftnref1) tiêu cực

Giảm những sự đầu tư NPV tiêu cực sẽ làm tăng giá trị
doanh nghiệp (đặc biệt đối với doanh nghiệp lớn có tiền mặt)



Điểm cốt yếu là các hoạt động liên quan đến vay mượn được xem như
điểm mấu chốt của hoạt động doanh nghiệp, nó đòi hỏi ban quản trị phải
điều hành doanh nghiệp có hiệu quả nhằm tránh những kết quả tiêu cực
không thể trả lãi các khoản nợ của doanh nghiệp, ngoài ra nó còn đòi
hỏi ban quản trị phải dốc túi vào lưu lượng tiền mặt tự do đó. Vì vậy,
nảy sinh mâu thuẫn giữa các nhà quản lý và chủ nợ khi các chủ nợ lo sợ
các khoản vốn cho vay của mình không thể thu hồi khi kết quả đầu tư
không hiệu quả do trách nhiệm hữu hạn của các khoản đầu tư. Do đó, họ
đưa ra các điều khoản hạn chế trong hợp đồng vay.




Bằng chứng thực nghiệm phù hợp với điểm thuyết này ở những điểm sau:

1.Tỷ suất hối đoái tăng (giảm) theo tác dụng đòn bẩy sẽ làm tăng (giảm) giá trị cổ phiếu.

2.Các doanh nghiệp có tiền mặt lớn sẽ có tỷ lệ D/A cao hơn (D/A: Nợ/Tài sản)




Vấn đề trung gian và kết cấu vốn





Giả thuyết của vấn đề này nằm trong quyền lợi tốt nhất của ban quản
trị đối với việc đẩy thấp tỷ suất vay nợ của doanh nghiệp nhằm giảm
thiểu khả năng phá sản bởi vị trí không đa dạng của họ.



Dự đoán: Các doanh nghiệp sẽ bị đẩy lùi xuống bởi vấn đề trung gian
và mức độ tác động của đòn bẩy sẽ bị ảnh hưởng bởi mức độ giám sát của
ban quản trị (các hội đồng quản trị tích cực/ độc lập, các nhà đầu tư
tích cực) và sự khuyến khích sẽ được tạo ra cho ban quản trị.



Bằng chứng thực nghiệm phù hợp với thuyết này ở điểm sau:

1. Nhìn chung, các doanh nghiệp có lực đòn bẩy thấp.

2. Tỷ giá hối đoái tăng (giảm) theo tác dụng đòn bẩy sẽ làm tăng (giảm) giá trị.




Mô hình cấu trúc vốn tối ưu (Lý thuyết cân bằng)




Tại thị trường hoàn hảo và hiệu quả, Modilligani và Miler (1958) chứng
minh rằng cấu trúc vốn là không thích hợp. Nhưng theo mô hình MM
(1963), việc đánh thuế cao hơn vào lợi tức cho thấy nợ nhiều hơn. Còn
DeAngelo và Masulis (1980) thì cho rằng bảo trợ thuế cao hơn cho thấy
nợ ít hơn.



Mô hình MM giả định tiền lãi mong đợi hàng năm không đổi nên giá trị
DN là như nhau bất chấp cấu trúc vốn. Nếu thực tế tiền lãi mong đợi
đang ở chiều hướng đi xuống thì việc sử dụng nợ sẽ có tác động ngược
lại và có thể dẫn DN đến chỗ phá sản. Trong quá trình phá sản sẽ phát
sinh các khoản chi phí như chi phí pháp lý và chi phí hành chính, và
các khoản thiệt hại của DN do thiếu sự vỡ nợ nên nợ lớn buộc các nhà
quản lý bỏ qua các các cơ hội đầu tư có lời (Myers, 1977).
Chi phí đó gọi là chi phí khánh tận tài chính. Các chi phí khánh tận
tài chính cao hơn cho thấy nhiều vốn cổ phần hơn trong cấu trúc vốn.



Thuyết chi phí trung gian thì cho thấy các vấn đề trung gian có thể là
nguyên nhân cho nhiều hay ít nợ hơn. Quá nhiều vốn cổ phần có thể dẫn
đến dòng tiền mặt tự do và mâu thuẫn về lãi, lợi ích giữa các nhà quản
lý và cổ đông (Jensen, 1986). Nợ quá nhiều có thể dẫn đến ký quỹ tài sản và mâu thuẫn về lãi, lợi ích giữa các nhà quản lý và trái chủ (Fama và Miller, 1972; Jensen và Meckling, 1976).
Đối với mâu thuẫn giữa nhà quản lý và cổ đông, mâu thuẫn phát sinh
người quản lý sở hữu ít hơn 100% VCSH. Khi đó, họ không được hưởng toàn
bộ lợi nhuận từ hoạt động đầu tư mà họ lại phải gánh chịu toàn bộ chi
phí từ hoạt động đầu tư đó. Vì vậy, đã phát sinh các chi phí trung gian
để giám sát hoạt động và hạn chế các hành vi không mong muốn. Đối với
mâu thuẫn giữa nhà quản lý và trái chủ phát sinh khi các trái chủ lo sợ
các khoản vốn cho vay của mình không thể thu hồi khi kết quả đầu tư
không hiệu quả do trách nhiệm hữu hạn của các khoản đầu tư. Vì vậy,
phát sinh các khoản chi phí trung gian của nhà quản lý dưới hình thức
chi phí nợ vay cao nhằm giám sát các DN phải tuân thủ các điều khoản
trong hợp đồng vay.

Ngoài ra, các điều khoản trong hợp đồng vay cũng hạn chế nhiều lợi ích của DN.




Thuyết cân bằng xác định kết cấu vốn tối ưu bằng cách cộng thêm vào mô
hình Modilligani và Miler (1958) các yếu tố phi hoàn hảo khác nhau, bao
gồm thuế, chi phí khánh tận tài chính và chi phí trung gian, song vẫn
không mất đi các giả định tính hiệu quả của thị trường và thông tin cân
bằng. Như vậy, tác động tổng hợp 3 yếu tố: thuế, chi phí khánh tận tài
chính và chi phí trung gian khi sử dụng nợ với những tác động ngược
chiều nhau hình thành lý thuyết cấu trúc tài chính tối ưuhttp://www.tapchiketoan.com/images/stories/hoa/t12/cau_truc_tai_chinh_toi_uu.jpg" alt="cau_truc_tai_chinh_toi_uu.jpg" title="cau_truc_tai_chinh_toi_uu.jpg" style="margin: 5px; float: left; width: 350px; height: 60px;" width="350" height="60



















Nhìn chung, việc đưa chi phí khánh tận tài chính và chi phí trung gian
vào mô hình MM và mô hình Modilligani và Miler (1958) dẫn đến lý
thuyết cân bằng về cấu trúc vốn. Những mô hình này đều thừa nhận một
cấu trúc vốn tối ưu.



Thuyết trật tự phân hạng (Thông tin bất cân xứng)




Thuyết trật tự phân hạng thị trường được nghiên cứu khởi đầu bởi Myers
và Majluf (1984) dự đoán không có cơ cấu nợ trên vốn cổ phần mục tiêu
rõ ràng.



Giả thuyết rằng ban quản trị cho biết về hoạt động tương lai của doanh
nghiệp nhiều hơn các nhà đầu tư bên ngoài (thông tin không cân xứng) và
việc quyết định tài chính có lẽ cho biết mức độ kiến thức của nhà quản
lý và sự không chắc chắn về lưu lượng tiền mặt tương lai.



Khi ban quản trị tin tưởng cổ phiếu được đánh giá cao hơn là đánh
giá thấp, họ có thể phát hành chứng khoán (nguồn tài chính bên ngoài).
Vì thế, khi doanh nghiệp đi theo thị trường vốn bên ngoài, những thị
trường này chấp nhận cổ phiếu được đánh giá cao hơn là đánh giá thấp,
và vì vậy, hoạt động này sẽ chuyển tải thông tin không thuận lợi cho
các nhà đầu tư. Kết quả là ban quản trị sẽ nỗ lực để tránh đi theo các
thị trường vốn (nguồn tài chính bên ngoài). Nếu ban quản trị đi theo
những thị trường vốn này, có khả năng họ phát sinh nợ nhiều hơn nếu như
họ tin là cổ phiếu của họ được đánh giá thấp và sẽ sinh ra vốn cổ phần
nếu như họ cho rằng cổ phiếu của họ được đánh giá cao.



Vì vậy, sự phát hành vốn cổ phần từ việc bán cổ phiếu sẽ chuyển tải
nhiều thông tin không thuận lợi hơn là sự phát hành tiền cho vay. Điều
này khiến các nhà quản trị quan tâm đến tiền cho vay hơn là vốn cổ phần
từ việc bán cổ phiếu.



Những quyết định về kết cấu vốn không dựa trên tỷ lệ Nợ/Tài sản tối
ưu mà được quyết định từ việc phân hạng thị trường. Trước hết, các nhà
quản trị sẽ dự định sử dụng nguồn tài chính nội bộ, tiếp đến có thể
phát hành tiền cho vay, và cuối cùng là phát hành vốn cổ phần.




Tiêu điểm của thuyết này không tập trung vào kết cấu vốn tối ưu nhưng tập trung vào sự quyết định tài chính hiện hành sắp tới.




Tỷ lệ Nợ/Tài sản = f {hoạt động kinh doanh, nhu cầu đầu tư}




Như vậy, Myers và Majluf cho rằng sẽ không có một cấu trúc vốn tối ưu với các doanh nghiệp.




Thuyết điều chỉnh thị trường



Thuyết điều chỉnh thị trường cho rằng thuyết cấu trúc vốn được dựa
trên điều chỉnh thị trường là lời giải thích tự nhiên nhất. Thuyết này
đơn giản là cấu trúc vốn phát triển như một kết quả liên tiếp của những
nỗ lực trước đây nhằm điều chỉnh thị trường cổ phiếu.



Có 2 mô hình điều chỉnh thị trường cổ phiếu dẫn đến mô hình cấu trúc
vốn. Thứ nhất là mô hình của Myers và Majluf (1984) với các nhà quản lý
và các nhà đầu tư đầy lý trí và các chi phí lựa chọn bất lợi khác nhau
giữa các doanh nghiệp và khoảng thời gian khác nhau. Lucas và McDonald
(1990) và Korajczyk, Lucas, và McDonald (1992) nghiên cứu lựa chọn bất
lợi khác nhau theo khoảng thời gian khác nhau. Phù hợp với những chuyện
này, Korajczyk và những người khác (1991) nhận thấy rằng các doanh
nghiệp có xu hướng thông báo việc phát hành cổ phiếu theo sau việc đăng
tin, như thế sẽ làm giảm đi tính phi đối xứng của thông tin. Hơn nữa,
Bayless và Chaplinsky (1996) nhận thấy việc phát hành cổ phiếu tập
trung vào giai đoạn ảnh hưởng của thông báo nhỏ hơn. Nếu các chi phí
phát sinh từ cấu trúc vốn tối ưu nhỏ so với dao động cuối cùng trong
chi phí phát hành, những dao động trước đây trong tỷ lệ giá cả thị
trường so với giá cả trên sổ sách sau đó có tác động lâu dài.



Mô hình thứ hai của điều chỉnh thị trường cổ phiếu có liên quan đến
các nhà đầu tư không đủ lý trí (hay các nhà quản lý) và định giá sai
trong các khoản thời gian khác nhau (hay sự am hiểu về định giá sai).
Các nhà quản lý phát hành cổ phiếu khi họ tin rằng giá trị của nó thấp
và mua lại cổ phiếu khi họ tin rằng giá trị của nó cao. Ngược lại giá
cả thị trường so với giá cả trên sổ sách được biết rất rõ là có quan hệ
với tiền lãi cổ phiếu tương lai, và các giá trị tuyệt đối của giá cả
thị trường so với giá cả trên sổ sách được liên kết với những mong đợi
quá xa của các nhà đầu tư. Nếu các nhà quản lý vẫn cố khai những mong
đợi quá xa như vậy, việc phát hành cổ phiếu thực tế sẽ có liên quan
tích cực với giá cả thị trường so với giá cả trên sổ sách, đây là một
trường hợp theo lối kinh nghiệm. Nếu không có cấu trúc vốn tối ưu, các
nhà quản lý sẽ không cần thay đổi quyết định khi mà các doanh nghiệp có
vẻ như được đánh giá đúng và giá trị cổ phiếu là bình thường, bỏ qua
các dao động tạm thời trong giá cả thị trường so với giá cả trên sổ
sách nhằm có những ảnh hưởng vĩnh viễn lên nợ. Mô hình điều chỉnh thị
trường thứ 2 không yêu cầu thị trường phải thực sự không hiệu quả. Nó
không đòi hỏi các nhà quản lý phải dự báo thành công lãi của cổ phiếu.
Đơn giản giả thuyết cho rằng các nhà quản lý tin rằng họ có thể điều
chỉnh được thị trường.



Theo thuyết này, các doanh nghiệp nợ thấp có xu hướng tăng nguồn vốn
khi giá trị tiền của họ cao, và ngược lại những doanh nghiệp nợ cao có
xu hướng tăng nguồn vốn khi giá trị tiền của họ thấp. Phần lớn cấu trúc
vốn là kết quả liên tiếp của những nỗ lực điều chỉnh thị trường cổ
phiếu. Trong thuyết này, không có cấu trúc vốn tối ưu, vì thế mà các
quyết định tài chính điều chỉnh thị trường chỉ nhiều lên thành kết quả
cấu trúc vốn theo thời gian.




Thuyết hệ thống quản lý



Trong thuyết cấu trúc vốn được dựa trên hệ thống quản lý của Zwiebel
(1996), giá trị tiền cao và cơ hội đầu tư thuận lợi tạo điều kiện dễ
dàng cho tài chính cổ phần, nhưng cũng vào lúc đó cho phép các nhà quản
lý trở nên cố thủ. Họ có thể từ chối tăng nợ để tạo tính cân bằng cho
các giai đoạn sau. Điều này có khả năng điều chỉnh thị trường chứ không
phải sự là sự phân tích thị trường khác biệt vì các nhà quản lý phát
hành cổ phiếu khi giá trị tiền cao và sau đó không cân bằng lại. Các
nhà quản lý vẫn không cố khai thác hết các nhà đầu tư mới. Đúng hơn, họ
chỉ khai thác các nhà đầu tư hiện có từ trước đến giờ mà không cân đối
lại.



Các nhà lý thuyết thuần túy thường bắt đầu bằng cách chứng minh từ
thị trường hoàn hảo nơi không có thuế và các chi phí rủi ro phá sản, sự
gia tăng của rủi ro lên VCSH được bù đắp bằng việc gia tăng tỷ suất
sinh lời kỳ vọng, do đó đòn bẩy tài chính không có ảnh hưởng gì đến giá
trị doanh nghiệp. Sau đó, các nhà kinh tế học sẽ bỏ bớt các giả định
không có thuế, không có chi phí phá sản để chứng minh rằng quyết định
cấu trúc vốn có liên quan nhất tới sự cân bằng giữa việc tận dụng lá
chắn thuế của nợ vay với việc gia tăng rủi ro phá sản. Ở mức thấp của
việc vay nợ chủ yếu là lợi ích từ lá chắn thuế. Nhưng khi quá lạm dụng
lá chắn thuế, sử dụng nợ vay nhiều thì nguy cơ phá sản gia tăng và giá
trị doanh nghiệp giảm.



Đến nay, các nhà nghiên cứu cấu trúc vốn đã rút ra 2 lợi ích: nó
giúp chúng ta có được cách hiểu thấu đáo hơn về quyết định tài chính,
và nó đã chứng tỏ sự hữu ích trong việc hiểu và diễn giải sự gia tăng
trong việc tái cấu trúc vốn.




(1) NPV (Net present value): giá trị hiện tại ròng

NPV = Giá trị hiện tại của dòng tiền vào – Giá trị hiện tại của dòng tiền ra


THS. Nguyễn Thị Thu Hà

Trường CĐ Kinh tế-Kế hoạch Đà Nẵng

LG-Stock
24-05-2009, 08:54 PM
|




|









7 sai lầm chết người trong đầu tư |









|







http://images.********.com/bjrgcwoi159715175large.jpg" id="UcNewsDetail1_Image1" style="border-width: 0px;



|





|










7 sai lầm thường gặp nhất và chúng được gọi là “sai lầm chết người”
trong lĩnh vực đầu tư. Trên con đường thành công của các nhà đầu tư bậc
thầy như Warren Buffett và George Soros không bao giờ xuất hiện những
sai lầm này. Nếu muốn loại bỏ nó, trước tiên chúng ta cần xét xem chúng
sai ở điểm nào.
|
|



|





|











Sai lầm thứ nhất: Tin rằng việc dự đoán động thái kế tiếp của thị trường chắc chắn sẽ mang về những khoản lợi nhuận khổng lồ.


Thực tế là các nhà đầu tư, kể cả những người thành công nhất, cũng không hề giỏi hơn bạn trong việc dự đoán thị trường.


Chắc hẳn bạn còn nhớ thời điểm một tháng trước vụ sụp đổ thị trường
chứng khoán New York vào tháng 10 năm 1987, ảnh của George Soros đã
xuất hiện trên bìa tạp chí Fortune với thông điệp sau: “Việc các loại
cổ phiếu của Mỹ liên tục tăng giá và vượt ra khỏi những ước tính cơ bản
về giá trị không có nghĩa là sau đó chúng phải tụt dốc nhanh chóng. Thị
trường được định giá quá cao không có nghĩa là không bền vững. Nếu muốn
biết cổ phiếu của Mỹ có thể được định giá cao đến mức nào, bạn hãy nhìn
vào nước Nhật”.


Trong khi vẫn đang nói về tình hình tăng giá các loại chứng khoán
của Mỹ, ông lại linh cảm về một sự sụp đổ sắp xảy ra… ở Nhật. Sau đó,
vào ngày 14/10/1987, ông còn nhắc lại quan điểm này trên tờ Financial
Times.


Chỉ một tuần sau thôi, Quỹ Quantum của Soros bị thiệt hại hơn 350
triệu đôla khi thị trường chứng khoán của Mỹ (chứ không phải của Nhật)
sụp đổ. Lợi nhuận cả năm đã lặng lẽ ra đi chỉ trong vài ngày. Qua sự
việc này, Soros đã thừa nhận: “Thành công về tài chính của tôi đối lập
hoàn toàn với khả năng của tôi trong việc dự đoán tình hình”.


Còn Buffett thì sao? Ông hoàn toàn không quan tâm đến việc thị
trường sẽ đi về đâu và cũng chẳng có chút hứng thú nào với các dự báo.
Đối với ông thì việc “dự báo trước có thể tiết lộ nhiều điều về người
dự báo, chứ không cho biết gì về tương lai sắp tới”.


Các nhà đầu tư thành công không bao giờ quyết định bỏ vốn nếu chỉ
dựa vào những thông tin dự báo về các động thái kế tiếp của thị trường.
Trên thực tế, Buffett và Soros là những người đầu tiên khẳng định rằng
nếu họ phụ thuộc vào các dự báo về thị trường, thì chắc chắn là họ đã
phá sản từ lâu rồi.


Không ít người cho rằng việc dự báo chẳng qua chỉ là trò kiếm cơm
của mấy tờ báo về đầu tư nhằm tiếp thị cho các quỹ tương hỗ, và chúng
không thể mang đến thành công cho các vụ đầu tư.


Sai lầm thứ 2: Đặt trọn niềm tin vào các “chuyên
gia tư vấn” do tuân theo suy nghĩ: “Nếu tôi không thể dự đoán được thị
trường thì sẽ có người làm được điều đó, và tôi chỉ cần tìm cho ra
người này”.


Thực tế là nếu thật sự bạn có thể dự đoán tương lai, liệu bạn có leo
lên nóc nhà và hét toáng lên cho mọi người biết về khả năng kỳ diệu đó
không? Hay bạn sẽ giữ kín thông tin đó để rồi mở một dịch vụ môi giới
nhằm kiếm được một số tiền kếch xù từ những gì mình biết được?


Khi đưa ra dự đoán về “một vụ sụp đổ sắp xảy ra trên thị trường
chứng khoán”, Elaine Garzarelli cũng chỉ là một trong số hàng ngàn
chuyên gia xử lý số liệu ở New York . Điều đáng nói là dự báo này được
đưa ra vào ngày 12 tháng 10 năm 1987, chỉ một tuần trước “Ngày thứ hai
đen tối” - ngày mà chỉ số của Sàn Giao dịch Chứng khoán New York giảm
hơn 22%.


Thế là chỉ trong phút chốc, Elaine Garzarelli trở thành một nhân vật
nổi tiếng và được nhắc đến liên tục trên các phương tiện truyền thông
đại chúng. Chỉ trong vài năm, bà đã có được một gia tài lớn nhờ tiếng
tăm của mình.


Phải chăng Elaine Garzarelli đã làm giàu bằng cách thực hiện các
thương vụ đầu tư theo đúng như những gì bà đã khuyên người khác? Không
phải đâu. Sau sự kiện kể trên, bà trở thành một trong những chuyên gia
tư vấn có mức lương cao nhất nước Mỹ (ước đoán khoảng 1.5 đến 2 triệu
đôla một năm). Tiền cứ thế đổ về Quỹ tương hỗ mà bà là một trong những
người tham gia đồng sáng lập và chưa đầy một năm, tổng số tiền đã lên
đến con số 700 triệu đôla. Mức quản lý phí 3%, tức 21 triệu đôla mỗi
năm, sau khi chia lại cho anh em nhà Shearson Lehman – những người đồng
sáng lập và các cộng sự, cũng giúp bà thu về một khoản tiền không nhỏ.
Ngoài ra, năm 1996, bà còn phát hành một bản tin đầu tư và ngay lập tức
có hơn 82.000 người đăng ký đặt mua dài hạn.


Vậy là những lợi ích kinh doanh từ địa vị của một chuyên gia tư vấn
đã giúp chính Elaine Garzarelli cũng như anh em nhà Shearson làm giàu,
chứ không hề giúp gì nhiều cho những người làm theo lời khuyên của bà.


Đến năm 1994, các cổ đông đã bỏ phiếu đồng ý giải thể Quỹ tương hỗ
của bà với lý do hiệu quả hoạt động của quỹ thấp đến mức không thể chấp
nhận được. Doanh thu trung bình trong suốt thời gian quỹ hoạt động chỉ
đạt 4,7% mỗi năm, so với con số 5,8% của S&P 500.


17 năm sau khi lọt vào tâm điểm chú ý của giới đầu tư, Elaine
Garzarelli vẫn duy trì được sự nổi tiếng của mình, thậm chí ngay cả khi
quỹ tương hỗ của bà đã ngừng hoạt động, bản tin của bà không còn ăn
khách nữa và những dự đoán của bà đã không còn giá trị.


Chẳng hạn vào ngày 21/7/1996, khi chỉ số Dow Jones đang ở mức 5.452,
bà lại tiên đoán nó có thể nhanh chóng tăng lên đến 6400. Vậy mà chỉ
hai ngày sau, bà lại tuyên bố những lời hoàn toàn trái ngược: “Thị
trường chứng khoán có thể rớt giá xuống từ 15% đến 25%”.


Đó chỉ là 2 trong số 14 lời dự đoán công khai của bà từ năm 1987 đến
năm 1996 được các tờ Wall Street Journal, Business Week và The New York
Times ghi chép lại. Trong số 14 dự đoán đó, chỉ có 5 dự đoán là chính
xác mà thôi.


5/14 - tỷ lệ thành công của Elaine Garzarelli là 36%. Nếu thế thì
bạn cũng có thể làm tốt hơn và kiếm được nhiều tiền hơn chỉ bằng cách
tung một đồng xu. Ít ra thì trong trường hợp đó, tỷ lệ thành công của
bạn sẽ là 50%. Và Elaine Garzarelli chỉ là một trong số hàng loạt những
chuyên gia phân tích thị trường tại Wall Street - đến rồi lại đi. Bạn
còn nhớ Joe Granville không? Vào đầu thập niên 1980, ông từng là người
rất được báo giới yêu mến. Chỉ sau khi chỉ số Dow Jones ở vào khoảng
800 điểm năm 1982, và ông khuyên mọi người nên bán bớt cổ phiếu đi,
thiện cảm đó mới thay đổi.


Năm 1982 là năm đánh dấu sự khởi sắc và tăng giá đều đặn của thị
trường chứng khoán kéo dài suốt nhiều năm ở thập niên 1980. Tuy nhiên,
Granville vẫn tiếp tục khuyến cáo mọi người hãy nhanh chóng bán bớt cổ
phiếu. Đến khi chỉ số tăng lên đến 1.200, Granville phải rút lui để
nhường chỗ cho Robert Prechter – người đã tiên đoán chính xác đà đi lên
của thị trường trong thời kỳ này.


Thế nhưng sau vụ sụp đổ năm 1987, thị trường đã chững lại và các
chuyên gia lại dự đoán rằng chỉ số Dow Jones sẽ ở vào khoảng 400 điểm
vào đầu thập niên 1990.


Sự bùng nổ của lĩnh vực thương mại điện tử vào thập niên 1990 đã làm
xuất hiện hàng loạt “nhà tiên tri” trên các phương tiện truyền thông
đại chúng. Tuy nhiên, hầu hết trong số họ đã không còn được nhắc đến
sau khi NASDAQ – sàn giao dịch chứng khoán của các công ty thương mại
điện tử – bắt đầu tụt dốc vào tháng 3/2000.


Nếu thật sự ai đó có thể dự đoán chính xác và nhất quán về thị
trường, thì có lẽ anh ta (hoặc cô ta) đã thoát khỏi sự săn đuổi gắt gao
của giới truyền thông trên thế giới. Một nhà hiền triết đã rất đúng khi
nói: “Rất khó dự đoán, đặc biệt là khi điều dự đoán đó liên quan đến
tương lai”.


Những chuyên gia tư vấn trên các phương tiện truyền thông kiếm tiền
thông qua các buổi nói chuyện về những vụ đầu tư, bán lời khuyên của
họ, hay nhờ vào phí dịch vụ quản lý tiền bạc cho khách hàng. Nhưng như
John Train đã đặt vấn đề trong cuốn sách The Midas Touch (Cái chạm tay
hóa vàng) thì “người khám phá ra cách biến chì thành vàng chưa chắc có
thể nói cho bạn bí quyết để làm ra được 100 đôla mỗi năm”.


Đó chính là lý do tại sao Buffett, Soros và những nhà đầu tư bậc
thầy khác biết biến các vụ đầu tư thành tiền bạc, nhưng hiếm khi họ nói
về những việc mình đang làm hoặc về những điều họ đang suy nghĩ về thị
trường. Thậm chí, họ còn rất hiếm khi nói cho các nhà đầu tư của mình
biết về những dự định và hành động của họ đối với số tiền của các nhà
đầu tư đó.


Sai lầm thứ 3: Tin rằng “thông tin nội gián” sẽ đem lại nhiều cơ hội thành công nhất.


Thực tế là: Cho đến nay, Warren Buffett được xem là nhà đầu tư giàu
nhất thế giới. Các bí quyết đầu tư của ông thường được công bố trong
các bản báo cáo hàng năm của công ty. Bất cứ nhà đầu tư nào cũng có thể
tiếp cận và tìm hiểu những bản báo cáo đó để tự giải đáp thắc mắc về
thành công của ông.


George Soros từng được mệnh danh là “Người phá sập ngân hàng Anh”
khi ông giành được chiến thắng trong vụ đầu tư trị giá 10 tỷ đôla vào
đồng bảng Anh.


Thật ra không phải chỉ có mình ông biết điều đó, và ông cũng không
phải là người duy nhất thu lãi lớn trong vụ đầu tư này. Bất cứ nhà đầu
tư nào biết xem xét và phân tích vấn đề đều sẽ nhận ra những dấu hiệu
chứng tỏ đồng bảng Anh sắp mất giá. Hàng trăm, nếu không muốn nói là
hàng ngàn doanh nhân khác cũng có thể kiếm được món tiền lớn như thế
khi đồng bảng Anh thật sự mất giá so với đồng đôla. Thế nhưng chỉ có
Soros biết nắm bắt cơ hội này và biến cơ hội đó thành 2 tỷ đôla lợi
nhuận.


Dựa vào danh tiếng và uy tín sẵn có mà hiện nay cả Buffet và Soros
đều dễ dàng tiếp cận với những người có địa vị cao trong giới tài
chính, kinh doanh và cả các nhân vật quan trọng trong xã hội. Tuy vậy,
khi mới bước chân vào lĩnh vực đầu tư, họ chỉ là những người bình
thường và không nhận được sự bất kỳ sự đón tiếp đặc biệt nào. Mặt khác,
tiền lãi đầu tư của cả Buffett và Soros vào thời điểm khi họ còn chưa
được nhiều người biết đến lại cao hơn hiện nay. Vì thế, việc trông chờ
vào nguồn thông tin nội gián dưới bất cứ hình thức nào đều không giúp
ích gì nhiều cho các nhà đầu tư.


Buffett cũng nói: “Với một triệu đôla và đầy đủ những thông tin nội
gián cần thiết, bạn có thể trở nên khánh kiệt chỉ trong vòng một năm”.


Sai lầm thứ tư: Đa dạng hóa danh mục đầu tư.


Thực tế là: Có thể nói rằng khối tài sản khổng lồ mà Warren Buffett
đang sở hữu hiện nay bắt nguồn từ việc xác định một vài công ty có tiềm
năng, rồi chỉ tập trung đầu tư vào những công ty ấy mà thôi.


Theo George Soros, điều quan trọng không phải là việc bạn hiểu đúng
hay sai về thị trường, mà chính là số tiền bạn có được khi thực hiện
suôn sẻ một thương vụ, và số tiền bạn mất đi khi tính toán sai. Nguồn
gốc thành công của Soros cũng giống như Buffett, nghĩa là lợi nhuận thu
được từ những vụ đầu tư sinh lời sẽ bù đắp số tiền bị thất thoát trong
các vụ đầu tư khác.


Trong khi đó, sự đa dạng hóa lại là một hành động trái ngược hoàn
toàn, bởi vì việc có nhiều cổ phần nhỏ, cho dù tỷ lệ lãi suất lớn, thì
tổng số vốn của bạn cũng chỉ có thể thay đổi rất ít.


Tất cả những nhà đầu tư thành công lớn đều sẽ bảo với bạn rằng đa
dạng hóa danh mục đầu tư là trò chơi dành cho những kẻ tầm thường và
nhút nhát. Nhưng chắc chắn đây lại không phải là thông điệp mà bạn có
thể nghe được từ các chuyên gia tư vấn tài chính của bạn.


Sai lầm thứ năm: Tin rằng phải chấp nhận rủi ro lớn mới thu được nhiều lợi nhuận.


Thực tế là: Giống như các doanh nhân vừa khởi nghiệp, những nhà đầu
tư thành công thường có tâm lý e ngại rủi ro, vì thế họ luôn cố gắng
làm đủ mọi cách để hạn chế rủi ro và giảm thiểu thất thoát.


Tại một hội thảo về vấn đề quản lý được tổ chức cách đây vài năm,
các học giả luân phiên nhau lên trình bày công trình nghiên cứu của
mình về “cá tính của những người đang khởi nghiệp”. Những bài phát biểu
chứa đựng khá nhiều quan điểm bất đồng với nhau, chỉ ngoại trừ một
điều: những người đang khởi nghiệp thường chấp nhận rủi ro, và trên
thực tế, đa số họ đều ưa thích mạo hiểm.


Cuối buổi hội thảo, một doanh nhân ở hàng ghế khán giả đứng dậy và
nói rằng anh ta vô cùng ngạc nhiên trước những gì mình vừa nghe được.
Anh nói, là một người mới khởi nghiệp, anh luôn tìm cách tránh xa mọi
rủi ro. Anh cũng có quen biết nhiều doanh nhân thành công khác và bảo
rằng thật là khó mà tìm được những người thận trọng hơn họ.


Những doanh nhân khởi nghiệp thành công là những người chống lại các
quyết định mang tính rủi ro, và các nhà đầu tư thành công cũng vậy.
Biết phòng tránh rủi ro là điều kiện cần thiết để tích lũy và nhân thêm
của cải. Lĩnh vực đầu tư không có chỗ cho ý tưởng hoang đường này của
các học giả. Thực tế đã chứng minh rằng nếu bạn chấp nhận rủi ro lớn,
thì nhiều khả năng bạn cũng đang tạo ra nguy cơ nhận lãnh những tổn
thất khổng lồ.


Cũng giống như các doanh nhân lúc khởi nghiệp, những nhà đầu tư
thành công hiểu rất rõ rằng mất tiền bao giờ cũng dễ hơn việc kiếm được
tiền. Đó là lý do tại sao họ lại chú trọng việc phòng tránh rủi ro hơn
là săn đuổi lợi nhuận.


Sai lầm thứ 6: Đặt trọn niềm tin vào “Hệ thống đánh
giá”, nghĩa là cho rằng phải dựa vào một số phương pháp để phân tích
chi tiết hay sơ bộ các dữ liệu để đảm bảo lợi nhuận đầu tư.


Thực tế đây là một hệ quả tất yếu của việc tin vào “các chuyên gia
tư vấn”. Nếu nhà đầu tư có thể thực hành theo hệ thống phân tích của
chuyên gia tư vấn, thì chắc hẳn anh ta sẽ thu được nhiều tiền như
chuyên gia này đã nói.


Căn nguyên của việc đặt niềm tin vào “chuyên gia tư vấn” và “hệ
thống phân tích” đều giống nhau ở chỗ nhà đầu tư luôn mong muốn có một
điều gì đó chắc chắn.


Warren Buffett từng trả lời câu hỏi liên quan đến một trong những
cuốn sách viết về ông như sau: “Các nhà đầu tư luôn tin tưởng vào hệ
thống phân tích bởi vì họ đang đi tìm một công thức để thành công”. Họ
hy vọng khi tìm ra công thức đúng, khi đó tất cả những gì họ cần làm
chỉ là cài đặt nó vào máy tính và theo dõi số tiền sinh sôi nảy nở từ
các vụ đầu tư.


Sai lầm thứ 7: Tin rằng bạn hoàn toàn biết rõ tương lai sẽ ra sao, và chắc chắn rằng thị trường sẽ phải tiến triển đúng như bạn dự đoán.


Thực tế đây là một đặc điểm thường gặp ở những người ham mê đầu tư.
Năm 1929, hầu như mọi người đều đồng ý với tuyên bố của Irving Fisher
rằng “các cổ phiếu đã đạt đến trạng thái bình ổn cao một cách lâu dài”,
vậy mà chỉ một vài tuần sau họ đã phải chứng kiến cảnh hỗn loạn khi thị
trường chứng khoán sụp đổ. Khi giá vàng tăng vọt vào thập niên 1970,
người ta đã dễ dàng tin rằng tình trạng lạm phát phi mã là điều không
thể tránh khỏi. Còn khi giá trị của Yahoo, Amazon.com, eBay, và hàng
trăm website khác tăng lên gần như mỗi ngày, thì thật khó để tranh cãi
với câu thần chú mà Wall Street đưa ra vào thập niên 1990: “Lợi nhuận
(trong việc đầu tư vào các công ty thương mại điện tử) không còn là vấn
đề chính yếu nữa”.


Đây là một biến thể từ “sai lầm chết người” thứ nhất trong hoạt động
đầu tư, vốn cho rằng bạn phải có khả năng dự đoán tương lai, song những
ảnh hưởng của nó còn mạnh mẽ và đôi lúc bi thảm hơn nhiều.


Một khi nhà đầu tư tin rằng muốn có lợi nhuận thì phải có khả năng
dự đoán tương lai, anh ta sẽ cố tìm kiếm các phương pháp để có thể dự
đoán “đúng”. Nhà đầu tư nào bị rơi vào “sai lầm chết người” thứ bảy
trong đầu tư sẽ nghĩ rằng anh ta gần như nắm chắc được tương lai và đã
biết trước tương lai sẽ mang lại cho anh ta những gì. Vì vậy, cuối cùng
khi nỗi đam mê (hay niềm tin thiếu căn cứ?) không còn nữa, anh ta sẽ
phải chứng kiến phần lớn vốn liếng của mình tan thành mây khói, và thậm
chí anh ta còn có thể mất luôn cả nhà cửa lẫn tài sản của mình.


Trong bảy “sai lầm chết người” này, thì việc thâm nhập thị trường
với một niềm tin võ đoán là điều nguy hiểm nhất đối với số vốn của bạn.


(Trích cuốn "Bí quyết đầu tư và kinh doanh chứng khoán của Warren Buffett và George Soros" do Công ty First News phát hành)

stockpro
05-06-2009, 11:47 AM
Những phương tiện chúng ta dùng để dư báo tương lai, từ các kiểu thức
dự báo thời tiết cho đến dự báo lợi nhuận, các hệ thống mậu dịch của
các thị trường tư bản đều không thích đáng vì chúng không xét đến những
gì mà những người tạo ra chúng đã không hề tưởng tượng được. Nhưng
những gì không thể tưởng tượng được lại vẫn thường xuyên xảy ra nghiêm
trọng hơn mức chúng ta tưởng tượng.



Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta khi đối phó với điều bất trắc vốn
dựa vào ngày hôm qua làm cơ sở báo trước ngày mai đã được gắn chặt với
hầu hết mọi hình thức phân tích mà doanh nghiệp phương tây vẫn sử dụng
hằng ngày. Các dự báo mức lời hàng quý của công ty, các kiểu thức định
giá rủi ro hằng ngày của các ngân hàng, các kiểu thức hành xử của các
nhà đầu tư khi TTCK biến động, các ngân sách và kế hoạch chiến lược,
các hệ thống đánh giá năng lực hoạt động và trả lương, mỗi hình thái
này đều sử dụng các kỹ thuật vốn được hình thành nhằm mục đích suy diễn
tương lai từ quá khứ. Nhưng nếu tương lai khó tiên đoán hơn nữa thì
sao? Đây là chỗ mà học thuyết Taled's Ludic đề cập.



Tuy nhiên, xét trên bình diện xác suất thống kê, cơ sở dự báo tốt nhất
về thời tiết ngày mai vẫn là thời tiết hôm nay, giống như hành động soi
kiếng chiếu hậu. Có thể nào phương tiện duy nhất chúng ta có được là
"kiếng chiếu hậu" và tất cả những gì chúng ta có thể làm được là nghĩ
ra những cách mới mẻ hơn nhằm sử dụng "kiếng chiếu hậu" đó?

stockpro
22-07-2009, 01:15 PM
Lỗ vì cả tin 'thầy bói' chứng khoán


Mất gần 40% giá trị sau một tháng nắm giữ cổ phiếu VNR,
anh Hòa trên sàn Đại Việt (TP HCM) tự trách đã quá tin vào những dự
đoán ngành bảo hiểm sẽ phất lên như diều gặp gió khi đại gia BVH chào
sàn.
> Thầy bói trên sàn chứng khoán (http://vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Chung-khoan/2009/06/3BA103C4/" class="Lead)


Khi đưa ra một dự báo thị trường, các chuyên gia tài
chính thường khẳng định chỉ mang tính tham khảo. Đã là dự báo thì sẽ có
sai số, chứng khoán đôi lúc rẽ hướng không ai ngờ đến, thế nhưng nhiều
nhà đầu tư vẫn xem như kim chỉ nam hành động để quyết định mua vào hay
bán ra.


Đã trải qua cảm giác thăng hoa khi chứng khoán gặp
thời trong năm 2007 lẫn vị đắng hồi năm ngoái thị trường lao dốc, song
anh Hòa, nhà đầu tư sàn Đại Việt vẫn bị tâm lý đám đông chi phối. Trước
ngày "đại gia" bảo hiểm BVH niêm yết, có rất nhiều thông tin cổ phiếu
này sẽ đỡ thị trường trên bản tin nhiều công ty chứng khoán. Mọi người
kháo nhau ngành bảo hiểm ngon ăn, giá cổ phiếu sẽ dậy sóng.




http://vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/17/C8/350x250.jpg" width="350" border="1" height="250


Nhà đầu tư nên cẩn trọng trước các thông tin trên thị trường chứng khoán. Ảnh: B.H.[/i]

Trước các khuyến cáo lạc quan, anh Hòa vội mua ngay
1.000 cổ phiếu thuộc ngành bảo hiểm đang niêm yết sàn Hà Nội là VNR
(Tổng công ty Cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam), với mức giá
44.200 đồng hôm 19/6. Song, không thể ngờ rằng, thời điểm anh nhảy vào
lại bắt đúng đỉnh chứ không phải đón đáy như kỳ vọng. Bởi giá VNR trượt
dài ngay sau đó, chốt phiên hôm 21/7 chỉ còn 28.300 đồng, mất trọn 36%
giá trị sau một tháng.


Mới chập chững đầu tư, để đảm bảo tiền sinh ra tiền
và lỗ ít nhất, anh Hoàng, quận Bình Thạnh, tìm đến bộ phận phân tích
của công ty chứng khoán. Tuy nhiên, với mớ cổ phiếu bất động sản anh
được tư vấn nên mua vào cuối tháng 6, đến nay giảm gần 30% giá trị. Rút
kinh nghiệm, bây giờ anh Hoàng chỉ xem bản tin công ty chứng khoán gửi
hàng ngày là tiêu chí tham khảo thay vì quá tin tưởng như ban đầu.


Chị Hoa, sàn Âu Việt, thì còn nhớ như in hồi đầu
tháng 6, giới đầu tư rỉ tai nhau tin Ngân hàng Nhà nước có thể nới room
cho khối ngoại lên 49%, thay vì 30% như hiện tại. Nếu đúng như vậy, nhà
đầu tư sẽ có thêm nhiều cơ hội khi ôm vào cổ phiếu nhóm này. Vn-Index
hôm ấy gia tăng mạnh mẽ, lực mua lớn, giao dịch 3 cổ phiếu ngân hàng:
STB, ACB, SHB đứng top 5 cả hai sàn... càng ủng hộ cho thông tin trên.
Nghĩ đây là sự thật, chị tranh thủ đặt mua gần cả nghìn con STB.


Song, Ngân hàng Nhà nước sau đó đã khẳng định không
có chuyện nới room, đây hoàn toàn là tin đồn. "Cũng may cổ phiếu STB có
thanh khoản, biến động giá không đáng kể nên có thể bán ra ngay sau
đó", chị Hoa cho biết sẽ cẩn trọng hơn trước các thông tin lan truyền
trên thị trường.


Chuyên phụ trách gửi thông tin phân tích kỹ thuật, hỗ
trợ cho các quyết định đầu tư của khách hàng, nhân viên một công ty
chứng khoán ở quận 3, TP HCM (không muốn nêu tên) kể nhiều lần nhận
được email oán trách không thương tiếc của nhà đầu tư do nhận định
không đúng xu hướng thị trường, làm thiệt hại túi tiền của họ. Rút kinh
nghiệm, anh đưa nhận định dự báo thị trường với thời gian dài hơi hơn
(tuần hoặc tháng), thay vì khuyên nhà đầu tư nên mua, bán, hay "phán"
Vn-Index sẽ lên hay xuống ngay trong ngày hôm sau (ngắn hạn).


Để tránh những phiền toái tương tự, các công ty chứng
khoán cũng lên tiếng, khẳng định phía dưới bản tin bao giờ cũng có
đoạn: "thông tin chỉ mang tính chất tham khảo..."; "không chịu trách
nhiệm cho những khoản lỗ trong đầu tư nếu sử dụng những thông tin
này...". Những dự báo của các công ty chứng khoán chỉ đơn thuần giúp
nhà đầu tư có thêm nhiều luồng tin, tạo cái nhìn đa chiều hơn, còn
quyết định cuối cùng vẫn do bản thân nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm.


Chuyên gia kinh tế tài chính Đinh Thế Hiển cũng cho
rằng: "Sẽ không hợp lý nếu đã chọn phương thức đầu tư lướt sóng, kiếm
lợi từ sự tăng giảm mạnh của thị trường trong ngắn hạn lại muốn chỉ có
thắng, không có thua". Trong giai đoạn này, mọi nhận định, phân tích cơ
bản đều đứng ngoài, chỉ còn nhận định xu thế, hành vi của nhà đầu tư.
Nếu có lỗ trong giai đoạn này cũng nằm trong bản chất của đầu tư lướt
sóng (có người thắng, có người thua), nhưng nếu trách thị trường bất ổn
khiến nhà đầu tư thua lỗ là không hợp lý.


Trái ngược với ý kiến trên, đại diện một quỹ đầu tư
nước ngoài cho rằng, các công ty chứng khoán không nên "ra rả" nói thị
trường lên hay xuống, bởi sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý chung. Không loại
trừ khả năng họ khuyên nhà đầu tư nên đứng ngoài thị trường khiến nhiều
người không dám mua, nhưng lại âm thầm gom vào với giá hời. "Bản thân
các công ty chứng khoán là đơn vị tự thu, chi, cũng kinh doanh như các
doanh nghiệp khác, nên những hành động của họ phải nhằm mục đích sinh
lợi", ông cho biết.


Bạch Hường[/b]

kipsailam68
22-07-2009, 01:56 PM
Đây là bài học sương máu dành cho mọi người nè !


1 Đừng bao h nghe lời khuyên miễn phí của bất cứ ai ; dù người đó là nhà PTKT đã thành danh (họ thành danh có thể họ đầu tư tốt ; kiến thức lý thuyết chuyên sâu ; điều đó không có nghĩa lúc nào họ cũng dúng) , người môi giới CK , anh em , bạn bè người thân ... . Chỉ có chưa đến 5% số đó đoán đúng mà thôi . Hãy tin và đánh giá thị trường 1 cách khách quan nhất ; đừng cố khẳng định bạn đúngcòn thị trường sai .


2 TTCK luôn có 2 thời điểm nhạy cảm nhất , đó là đầu suy thoái(hoặc cuối tăng trưởng) và đầu tăng trưởng (cuối suy thoái) . Hãy mua CP khi hầu hết mọi người trong đó có các chuyên gia đều bi quan đều tin răng TT sẽ xuống thấp hơn . và ngược lại , hãy bán khi mọi người đều hưng phấn , ai cũng nghĩ sau 1 thời gian tăng nóng , TT sẽ tiếp tục nóng ; hãy bán ra vào lúc này trước khi hiện tượng nguy hiểm nhất xảy ra (bán bão hoà) .


3 Đừng bao h mua CP đang giảm giá vì nghĩ răng nó đang được bán với giá thấp hơn giá trị thật . Nếu có quan điểm đó tức là bạn đã bỏ qua qui luật cung cầu vốn là qui luật có ảnh hưởng nhất trong bất kì TT nào , tài chính hay hàng hoá . Càng không nên cân đối giảm giá mua . Hãy để các chỉ số của TT , biến dộng giá và khối lượng giao dịch của CP bạn đang nắm giữ (kết thúc trong ngày lẫn biến động tức thời thấy được treê bảng điện tử) cho bạn biết nó đang ở đâu và bạn cần phải làm ji .


4 . Có thể mua quyền giao dịch (gọi và đặt) nhưng không được bao giờ bán(viết) quyền giao dịch , đặc biệt là bán (viết) quyên bán khống . Mục đích của bạn trên TTCK không phải là ngồi chơi để hưởng khoản lợi cao hơn tí tẹo so với gửi tiết kiệm , trong khi nguy cơ thua lỗ cao . Viết(bán) quyền bán khống là con đường ngắn nhất để : hoặc là vô nhà đá hoặc là làm "người chim" .


5 . Những nhà đầu tư tổ chức do số vốn lớn , vào và ra TT chậm chạp nên bất lợi hơn so với những NĐT cá nhân ; nhưng vì họ làm ăn lớn nên quyết dịnh của họ ảnh hưởng quan trọng đến biến động cả 2 chiều của TT nói chung nên họ có thể dùng 1 số tiểu xảo để đánh lừa các NĐT cá nhân : 1-tung tin đồn xấu (trong khi CP vẫn tăng giá với KLGGD đôi khi trên bảng điẹn tử cao) ; 2-đặt cược cả 2 cửa với cửa lên cao hơn xuống (tức là 1 số ngày họ mua nhiều , 1 số khác lại bán với số lượng ít hơn (thường là 30-50%) để CP có tăng có giảm nhưng chắc chắn xu hướng chính vẫn là tăng ; ngược khi họ muốn rút chân ra khỏi TT ; 3- liên kết với giới thứ 3 (CTCK hay thậm chí CTCK cũng có thể coi là NĐT tổ chức với chức năng tự doanh ; những nhà phân tích khác : của huyện tỉnh , trung ương) - tất nhiên là bất hợp pháp . Hãy tỉnh táo đẻ không bị lừa .


6 . Với những CTCK làm ăn không theo pháp luật : khớp lệnh không tuân theo chế độ ưư tiên về giá , kldGD , thời gian . Những ji bạn làm là đóng cửa trương mục tìm đến CTCK khác , không cần thiết phải kiện tụng nếu không đủ bằng chứng hoặc sợ bị trả thù .


7 . hãy đọc lại những dòng này mỗi tuần 1 lần cho đến khi bạn hành động như theo abnr năng ứng với chúng .


GOOD SUCCESSFUL !


nhà đầu tư đại tài trong... tương lai !

stockpro
02-08-2009, 12:25 PM
Vượt qua khủng hoảng kinh tế. (http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http://vn.myblog.yahoo.com/stocks-vietnam/article?mid=2092" target="_parent)



Thư mục: Những vấn đề Kinh tế (http://vn.myblog.yahoo.com/stocks-vietnam/index?l=f&id=4" target="_parent) |




Quan trọng


[/i]

Đăng ngày: 18:22 01-08-2009





Nguyên
nhân và những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới được coi
là tồi tệ nhất kể từ năm 1929 đã được làm sáng tỏ qua những bài viết
của nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia kinh tế, nhưng để có giải pháp hữu
hiệu nhằm vượt qua khủng hoảng thì vẫn còn bỏ ngỏ. Trong cuốn sách
“Vượt qua khủng khoảng kinh tế” của tác giả Nguyễn Sơn do Nhà xuất bản
Thống Kê phát hành đã giải đáp phần nào nguyên nhân và giải pháp. Nó đã
giúp tôi có cái nhìn rõ hơn về nguyên nhân khủng hoảng kinh tế hiện tại
và hiệu quả của những giải pháp mà nhiều quốc gia đã và đang thực hiện.



http://i108.photobucket.com/albums/n17/stockpro80/Picture.jpg



Được
sự cho phép của tác giả tôi xin trích đăng 1 số đoạn trong cuốn sách
“Vượt Qua Khủng Hoảng Kinh Tế” của tác giả Nguyễn Sơn do Nhà Xuất Bản
Thống Kê – 2009, nhằm giới thiệu bạn đọc.



Ngôi Sao Đang Lên Lâm Bệnh




Quá trình đổi
mới của Việt Nam được bắt đầu từ năm 1986 đã thu được những thắng lợi
lớn lao. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới đẩy tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) tăng gấp 4 lần trong vòng 20 năm. Thu nhập bình
quân đầu người ngấp nghé ngưỡng 1.000 USD. Nếu như hơn 20 năm trước,
chúng ta “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”, không thể nào đạt được mục
tiêu 21 triệu tấn lương thực quy ra thóc thì giờ đây thậm chí chúng ta
còn dư gạo để xuất khẩu. Thế giới bắt đầu không còn coi Việt Nam là
nước nghèo nữa. Họ nhìn thấy “chiến trường đang biến thành thị trường”,
nhìn thấy ở trung tâm ASEAN một ngôi sao đang toả sáng. “Việt Nam –
ngôi sao đang lên của châu Á” là tên một bài viết nổi bật trên tờ tạp
chí kinh tế hàng đầu thế giới The Economist số ra hồi đầu năm 2008. Đó
cũng là khẳng định của hầu hết những định chế tài chính quốc tế đang
nóng lòng nhảy vào thị trường còn rất tinh khôi này.



Nếu lúc đó có ai
đó bảo: “Cẩn thận đấy, cơn bão từ nước Mỹ sẽ tràn qua và cuối năm nền
kinh tế sẽ phát bệnh”, hẳn mọi người sẽ nhìn anh ta như nhìn một người
bi quan thái quá và hoàn toàn thoát ly thực tế. Kinh tế đang phát triển
mạnh. Xuất khẩu liên tục có thêm những hợp đồng mới. Thị trường nhà đất
nóng bỏng. Thị trường chứng khoán tuy hơi xuống dốc, nhưng các nhà đầu
tư vẫn hăng say “mò đáy” đón đợi một cuộc bứt phá ngoạn mục mới.



Thế nhưng cơn
bão từ Mỹ vẫn cứ tràn sang thật. Nền kinh tế đã phát bệnh thật. Và
không chỉ một cơn bệnh, mà có tới hai cơn bạo bệnh liên tiếp chồng lấn
lên nhau.




Những Cánh Cửa Mở Ra Hy Vọng




Để đối phó với
suy sụt kinh tế, phải làm tốt 4 việc: đóng mở linh hoạt với thị trường
toàn cầu; giữ vững hệ thống tài chính – ngân hàng đồng thời kiềm chế
lạm phát; bảo đảm an sinh xã hội; kích cầu. Nhưng vấn đề là ở chỗ chúng
ta cần phải đối phó bao lâu? Đến bao giờ mới vượt qua được khó khăn
kinh tế.



Một số chuyên
gia kinh tế cho rằng nền kinh tế Việt Nam yếu hơn các nền kinh tế khác
nên sẽ bị bão tàn phá mạnh hơn và lâu dài hơn. Tuy nhiên, lập luận của
họ chỉ đúng khi người yếu kẻ mạnh cùng phải hứng chịu một mức độ khốc
liệt của cơn bão như nhau. Thực tế không phải như vậy: các nền kinh tế
khác nhau chịu mức độ khốc liệt khác nhau của cơn bão khủng hoảng toàn
cầu này. Như trên đã nói, chúng ta không phải nằm ở trung tâm cơn bão
mà chỉ nằm ở phần ngoại vi của nó. Như vậy, chúng ta sẽ không phải chịu
mức độ khốc liệt nhất của cơn bão. Đồng thời, khi cơn bão bắt đầu dịu
đi, phần ngoại vi sẽ thoát ra khỏi khó khăn sớm hơn phần trung tâm. Nói
cách khác, chỉ cần khủng hoảng kinh tế ở Mỹ dịu đi đáng kể là chúng ta
đã có thể vượt qua cuộc suy sụt kinh tế này rồi.



Như vậy, chúng
ta buộc phải chờ đợi cuộc khủng hoảng dịu đi ở tâm chấn của nó – nước
Mỹ. Khi nào thì nó dịu đi? Khi các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản của Mỹ
được cải thiện. Đặc biệt cần chú ý chỉ số thất nghiệp. Có một định luật
kinh tế mang tên nhà hoạch định chính sách người Mỹ Athur Okun
(1929-1979) phát biểu rằng khi GDP giảm 2 điểm phần trăm thì thất
nghiệp tăng 1 điểm phần trăm và ngược lại. Như vậy, thất nghiệp giảm đi
là chỉ số đáng tin cậy nhất báo hiệu GDP sẽ tăng trở lại. Chỉ số đáng
quan tâm khác là chỉ số giá chứng khoán Mỹ. Thường thì các nhà đầu tư
nhạy hơn số đông dân chúng về thông tin kinh tế, nên khi họ “ngửi” thấy
nền kinh tế có chiều hướng được khôi phục, họ sẽ lao vào mua chứng
khoán và đẩy giá nó lên.



Cả hai chỉ số
nói trên đều liên quan trực tiếp đến niềm tin kinh tế. Mà cơ sở của nó
là ở chỗ người ta có tin là nền kinh tế đã tìm ra được lối thoát khỏi
khủng hoảng hay chưa. Tâm lý học đám đông dạy rằng niềm tin ấy cần phải
được đánh dấu bằng một cái mốc rõ ràng và gây sốc. Theo tôi, cái mốc đó
sẽ là việc chính phủ Mỹ quyết định quốc hữu hoá các ngân hàng đang
chênh vênh bên bờ vực thẳm. Một đổi mới tư duy, đổi mới ý thức hệ mang
tính đột phá như vậy mới đủ nặng ký để người dân xem xét lại nỗi lo âu
của chính họ.



Phần lớn các dự
báo của các chuyên gia kinh tế thế giới đều cho rằng khủng hoảng kinh
tế Mỹ sẽ khó có thể kết thúc sớm trong năm 2009. Tuy nhiên, nếu chính
phủ Mỹ kiên quyết hơn với hệ thống tài chính – ngân hàng của họ như đề
xuất của các nước châu Âu trong Hội nghị các bộ trưởng Tài chính G20
tháng 3-2009 thì tình hình có thể sẽ sáng sủa sớm hơn. Từ một khía cạnh
khác, nền kinh tế Mỹ sẽ có cơ hội nhận được sự kích cầu to lớn từ chi
tiêu chính phủ nếu xảy ra một xung đột quốc tế lớn khiến người Mỹ tin
rằng an ninh của họ bị đe doạ nghiêm trọng và họ phải dốc toàn lực để
đối phó. Trong trường hợp đó, kinh tế Mỹ cũng có thể sẽ vượt qua khủng
hoảng sớm hơn dự tính.





Nguyễn Sơn (stockpro trích đăng)

kipsailam68
02-08-2009, 01:11 PM
Hay đó ! Mình sẽ tìm đọc . Nhưng mình có thắc mắc là ông Nguyễn Sơn này kiếm được bao nhiu (tính theo tỷ lệ % ) từ chu kì kinh tế - chu kì chứng khoán vừa rồi . Giáo sư kinh tế học tài giỏi chưa chắc đã là 1 nhà đầu tư thành công ; có nhiều cái tên đã không vượt qua nổi những luận thuyết của mình để đạt được thành công chói lọi

stockpro
03-08-2009, 08:29 AM
Hay đó ! Mình sẽ tìm đọc . Nhưng mình có thắc mắc là ông Nguyễn Sơn này kiếm được bao nhiu (tính theo tỷ lệ % ) từ chu kì kinh tế - chu kì chứng khoán vừa rồi . Giáo sư kinh tế học tài giỏi chưa chắc đã là 1 nhà đầu tư thành công ; có nhiều cái tên đã không vượt qua nổi những luận thuyết của mình để đạt được thành công chói lọi Nếu bạn chưa biết tác giả là ai thì không nên xét soát theo kiểu qui nạp như thế! Vì làm như vậy thì bạn bị mắc sai lầm nghiêm trọng bởi thiếu tính thực tế sát thực!