View Full Version : Kinh tế sẽ đi về đâu?
dockhachhanh
29-04-2009, 06:37 PM
Khủng hoảng kinh tế đang có vẻ qua đi. Nhiều nhà đầu tư đang hưng phấn về sự phục hồi của nền kinh tế. Theo tôi, hiện nay chưa có tín hiệu rõ ràng về phục hồi của kinh tế thế giới và Việt Nam.
Mong các bác tham gia chia sẽ quan điểm và thông tin về nền kinh tế qua topic này.
Trân trọng
thuyktpn
29-04-2009, 06:43 PM
Vĩ mô quá , ki.ạ nó bác ui . Cứ lướt lát trứng theo mông BBs kiếm xiền kìa. VNI lên 400 xong tèo về 250 , lướt sướng chưa? akaka
stockwizard
29-04-2009, 09:07 PM
Vĩ mô quá , ki.ạ nó bác ui . Cứ lướt lát trứng theo mông BBs kiếm xiền kìa. VNI lên 400 xong tèo về 250 , lướt sướng chưa? akaka
Em nghe mấy cụ phán CK sẽ lên 600 vào cuối năm nay. Em đang định nhà đánh quả, nhưng ko may nó sụp thì ra đê luôn
nguoigiangho
30-04-2009, 11:08 AM
“Triển vọng kinh tế năm 2009 Việt Nam và thế giới”
(Vietstock) - Đó là chủ đề trình bày của TS. Vũ Thành
Tự Anh – Giám đốc Nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế
Fulbright, với các nhà đầu tư vào chiều ngày 24/04 tại trụ sở Công ty
chứng khoán Rồng Việt.
Trong bài trình bày, TS. Vũ Thành Tự Anh nêu lên tình
hình kinh tế Việt Nam và 4 khu vực kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ,
Liên minh Châu Âu (EU), Nhật Bản và Trung Quốc. Đặc biệt, ông cũng đánh
giá một số chính sách hiện nay của Chính phủ cũng như đưa ra các dự
báo kinh tế Việt Nam năm 2009.
Theo TS. Vũ Thành Tự Anh, lạm phát Việt Nam có tính cơ
cấu trong nền kinh tế bởi vì cùng chịu cú sốc tăng giá của hàng hóa thế
giới như nhau. Tuy nhiên, lạm phát ở nước ta cao hơn nhiều so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Chẳng hạn, vào khoảng tháng
7/2008, lạm phát Việt Nam là 30% (12 tháng) nhưng các nước khác như
Trung Quốc và Thái Lan chưa đến 10%. Ông cũng nhấn mạnh cung tiền, tăng
trưởng tín dụng và đầu tư kém hiệu quả là nguyên nhân chính gây nên lạm
phát cao trong năm qua. Thâm hụt thương mại và ngân sách của Việt Nam
chiếm tỷ lệ quá cao so với GDP, đây cũng là vấn đề đáng lo ngại đối với
việc ổn định của nền kinh tế.
Liên quan đến vấn đề đầu tư và tăng trưởng, tỷ lệ đầu
tư trên GDP của Việt Nam cao nhưng tăng trưởng không tương xứng nên hệ
số ICOR rất cao, làm cho đầu tư của nước ta thiếu hiệu quả. Do đầu tư
nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu đầu tư (khoảng 25%, gồm FDI và
ODA) cho thấy tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào
nguồn vốn này. Hệ quả là khi nguồn vốn này giảm, tăng trưởng kinh tế sẽ
chậm lại.
Theo nhận định của ông, trong bối cảnh kinh tế khủng
hoảng, chính phủ nước ta đã có các động thái kịp thời nhằm vực dậy nền
kinh tế. Cụ thể, gói kích cầu của Chính phủ tăng liên tục, từ 1 tỷ USD
ban đầu nâng lên 6 tỷ USD và mới đây là 8 đến 10 tỷ đồng.
Song, hiệu quả của các gói kích cầu này rất khó xác
định vì thiếu thông tin và số liệu cụ thể. Gói kích cầu 1 tỷ USD bằng
việc hỗ trợ lãi suất khó đạt mục tiêu đề ra khi phần lớn tiền từ gói
kích cầu có thể quay lại ngân hàng.
Ngoài ra, ông cũng bày tỏ quan ngại về tình trạng thâm
hụt ngân sách của Việt Nam. Năm nay, thu ngân sách của chính phủ sẽ
giảm nghiêm trọng do các nguồn thu từ dầu mỏ, thuế xuất nhập khẩu, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT và thuế thu nhập cá nhân đồng loạt
giảm. Chi tiêu của chính phủ tăng mạnh, do đó thâm hụt ngân sách lớn là
điều khó tránh khỏi. Các nguồn tài trợ thâm hụt như huy động trái
phiếu, vay nợ nước ngoài đều gặp khó khăn. Giải pháp tài trợ của chính
phủ có thể là vay NHNN, mà thực chất là in tiền và đưa vào lưu thông.
Hệ quả của việc này khá nghiêm trọng nếu chính phủ không kịp thời rút
tiền về khi kinh tế phục hồi.
Đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam, TS. Vũ Thành Tự
Anh cho rằng, sự phục hồi của nền kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào
sự phục hồi của 4 khu vực kinh tế lớn trên. Theo ông, tăng trưởng kinh
tế Việt Nam trong năm nay chỉ khoảng 4%. Ông nhấn mạnh thêm, tăng
trưởng của Việt Nam không thể tồi tệ như EIU dự báo 0.3%, song cũng
không thể lạc quan như WB dự báo 5.5%.
Về kinh tế thế giới, TS. Vũ Thành Tự Anh nhận định
kinh tế các khu vực như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản khó có thể hồi phục nhanh.
Trong quý 1/2008, kinh tế cả 3 khu vực này đều suy giảm mạnh, thất
nghiệp tăng cao. Tuy nhiên, kinh tế Trung Quốc lạc quan hơn. Mặc dù Quý
1/2009, kinh tế nước này chỉ tăng 6.1%, thấp hơn nhiều so với giai đoạn
trước đó nhưng vẫn có triển vọng tăng trưởng nhanh trong các quý tới.
Động lực cho tăng trưởng của Trung Quốc nhờ vào thị trường nội địa
rộng lớn, hàng hóa có sức cạnh tranh cao và các gói kích cầu khá mạnh
mẽ và hiệu quả.
Với tình hình kinh tế đầy biến động, các dự báo của
IMF đã phải cập nhật và thay đổi liên tục. Theo đó, vào tháng 11/2008,
IMF đưa ra dự báo về tăng trưởng kinh tế thế giới là 2.2%, đến tháng
1/2009 là 0.5%. Mới đây, IMF tiếp tục hạ mức dự báo xuống còn -1.7%.
Liên quan đến thắc mắc của nhà đầu tư về vấn đề lạm
phát ở nước ta, ông cho rằng, với các chính sách mở rộng tài khóa hiện
nay của chính phủ, khả năng lạm phát quay trở lại là khá cao. Hơn nữa,
khi nền kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi, giá cả hàng hóa, năng lượng
tăng sẽ kéo theo lạm phát gia tăng. Thời điểm lạm phát tăng phụ thuộc
vào sự phục hồi của nền kinh tế.
Theo ông Tự Anh, Việt Nam cần có sự tách bạch Ngân
hàng đầu tư và Ngân hàng Thương mại nhằm đảm bảo vấn đề quản lý rủi ro
trong hệ thống ngân hàng.
Một vấn đề khác được nhắc đến nhiều trong thời gian
gần đây là việc Chính phủ có thể áp dụng kết hối ngoại tệ hay không.
TS. Vũ Thành Tự Anh cho rằng nếu áp dụng biện pháp này sẽ gây ra nhiều
hậu quả không tốt và đây chỉ nên là biện pháp cuối cùng khi không còn
biện pháp nào khác.
dockhachhanh
02-05-2009, 10:10 AM
Em thấy kinh tế bắt đầu đi lên rồi. Các doanh nghiệp được tiếp sức lại sống ngon lành. Giá cả hàng hóa bắt đầu ấm lên. Kỳ nghĩ lên này người dân vẫn đi du lịch âm ầm như chưa từng có khủng hoảng vậy
canlong82
02-05-2009, 10:25 AM
Em thấy kinh tế bắt đầu đi lên rồi. Các doanh nghiệp được tiếp sức lại sống ngon lành. Giá cả hàng hóa bắt đầu ấm lên. Kỳ nghĩ lên này người dân vẫn đi du lịch âm ầm như chưa từng có khủng hoảng vậy
Tình hình kinh tế từ tháng sáu trở về sau là rât rất khả quan.
Chu kỳ nào cũng vậy, sau suy thoái là tăng trưởng trở lại thôi.
Trong tháng 6 nếu ko có bất tác động khách quan ( thiên tai..)ảnh hưởngđến KT thì chăc chắn VNI sẽ ở mức 380 - 400.
imported_cửng
02-05-2009, 10:52 AM
Em thấy kinh tế bắt đầu đi lên rồi. Các doanh nghiệp được tiếp sức lại sống ngon lành. Giá cả hàng hóa bắt đầu ấm lên. Kỳ nghĩ lên này người dân vẫn đi du lịch âm ầm như chưa từng có khủng hoảng vậy
Tình hình kinh tế từ tháng sáu trở về sau là rât rất khả quan.
Chu kỳ nào cũng vậy, sau suy thoái là tăng trưởng trở lại thôi.
Trong tháng 6 nếu ko có bất tác động khách quan ( thiên tai..)ảnh hưởngđến KT thì chăc chắn VNI sẽ ở mức 380 - 400.
chưacó gì là chắc chắn cả
canlong82
02-05-2009, 11:19 AM
Em thấy kinh tế bắt đầu đi lên rồi. Các doanh nghiệp được tiếp sức lại sống ngon lành. Giá cả hàng hóa bắt đầu ấm lên. Kỳ nghĩ lên này người dân vẫn đi du lịch âm ầm như chưa từng có khủng hoảng vậy
Tình hình kinh tế từ tháng sáu trở về sau là rât rất khả quan.
Chu kỳ nào cũng vậy, sau suy thoái là tăng trưởng trở lại thôi.
Trong tháng 6 nếu ko có bất tác động khách quan ( thiên tai..)ảnh hưởngđến KT thì chăc chắn VNI sẽ ở mức 380 - 400.
chưacó gì là chắc chắn cả
Cái gì cũng có điểm đầu, điểm cuối. theo tui thì suy thoái kt đã đang nằm vùng đáy thật sự rồi.
Chậm nhất là quý 3/2009 sẽ phục hồi, và chứng khoán là kênh đón đầu và đi trước sự phục hồi của nền kt.
Bây giờ VNI lựng khựng ở mức 300 là tui canh giá của từng e mà nhảy vào.
Hiện còn khá nhiều cash cụ ạ. [8-|]
thumbup
02-05-2009, 11:27 AM
"Việt nam có sự tách bạch Ngân hàng đầu tư và Ngân hàng Thương mại nhằm đảm bảo vấn đề quản lý rủi ro trong hệ thống ngân hàng" nhất trí quan điểm này. Việc sửa đổi luật các tổ chức tín dụng cần tập trung sửa đổi. Cần nghĩ sao nếu các ngânhàng thương mại sử dụng vốn tiền gửi dân chúng để vác đầu tư các dự án dài hạn, rủi ro rất lớn. Các ngân hàng đầu tư thực hiện vai trò trung gian dẫn vốn tới các dự án trung và dài hạn. Hiện nay các Ngân hàng THUONG MẠI việt nam đang làm chức năng này, rủi ro là rất khó kiểm soát.
nguoigiangho
03-05-2009, 01:34 PM
Em xin phép post bài về kinh tế Việt Nam đăng trên Vietstock để các bác đọc và binh luận
Rất cảm ơn bác dockhach đã mở topic rất thú vị này
nguoigiangho
03-05-2009, 01:36 PM
Các vấn đề tăng trưởng kinh tế Việt Nam
(Vietstock) - Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng
cao trong những năm qua nhưng có một số tồn tại trong nền kinh tế có
thể làm giảm tốc độ tăng trưởng trong dài hạn. Trong giai đoạn hiện nay
tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi của kinh
tế thế giới và những giải pháp của chính phủ.
Sau khi cải cách kinh tế, Việt Nam đã đạt được những
bước tăng trưởng vượt bậc, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên một
cách nhanh chóng. Việt Nam cũng thu hút được nhiều quan tâm của các nhà
đầu tư nước ngoài, được thể hiện qua dòng vốn FDI và FPI chảy vào ngày
càng lớn.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự
kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trên con đường phát triển kinh tế
của Việt Nam. Gia nhập WTO không chỉ giúp kinh tế Việt Nam có điều kiện
hội nhập, được hưởng những chính sách thương mại có lợi mà đây còn là
một động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy vậy,
gia nhập WTO cũng là một thách thức thực sự khi những yếu kém kém trong
nền kinh tế vẫn chưa được khắc phục. Chất lượng tăng trưởng thấp, cơ sở
hạ tầng yếu kém, thể chế pháp luật còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn
nhân lực chưa cao. Đây chính là những hạn chế mà Việt Nam phải vượt qua
để duy trì được một tốc độ tăng cao và đưa đất nước thoát khỏi nhóm
nước nghèo như hiện nay.
Bài viết của chúng tôi đánh giá một số vấn đề trong
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Để từ đó đưa ra xu hướng về tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trong tương lai.
1.Bối cảnh kinh tế thế giới
Trong những năm gần đây kinh tế thế giới đã đạt được
tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Những nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung
Quốc có tốc độ tăng trưởng cao. Sự phát triển công nghệ thông tin,
thương mại và dịch chuyển dòng vốn các quốc gia trở nên gần gũi và phụ
thuộc lẫn nhau hơn.
Năm 2008, khủng hoảng tài chính từ Mỹ đã nhanh chóng
lan rộng và gây ra ảnh hưởng nặng nề trên quy mô toàn cầu. Tăng trưởng
sụt giảm, thậm chí nhiều nền kinh tế rơi vào suy thoái, hệ thống tài
chính rối loạn. Các quốc gia và tổ chức như IMF, WB… không ngừng nỗ lực
thực hiện nhiều biện pháp để đối phó song triển vọng kinh tế toàn cầu
cho đến này vẫn không mấy sáng sủa. Theo dự báo của các chuyên gia và
tổ chức, kinh tế thế giới còn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, khả
năng phục hồi có thể chỉ bắt đầu từ cuối năm 2009. Hậu quả của cuộc suy
thoái hiện nay sẽ còn kéo dài trong nhiều năm sắp tới.
Trong bối cảnh như vậy, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác
động rất lớn do xuất nhập khẩu, vốn đầu tư nước ngoài và kiếu hối suy
giảm. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ chịu sự cạnh tranh khốc
liệt của hàng ngoại nhập. Sự ảnh hưởng này còn tăng thêm do kinh tế
Việt Nam tồn tại một số yếu kém nên khó có những thay đổi kịp thời để
thích nghi với tình hình mới.
Bảng 1: Dự báo tăng trưởng kinh tế của WB tháng 11 năm 2008
http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=2049" hyperlink="" border="0" hspace="0
(Cuối năm 2008 dự báo của WB còn khá lạc quan về tăng
trưởng kinh tế thế giới. Dự báo mới nhất của WB vào tháng 4/2009 đã hạ
mức dự báo tăng trưởng của các quốc gia. Kinh tế thế giới giảm khoảng
1.7%, các nước phát triển giảm 3%, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ còn
6.5%, các nước Đông Nam Á, Singapore, Malaysia, Thái Lan tăng trưởng
âm).
2.Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua
Tăng trưởng GDP trung bình trong giai đoạn 2000 - 2007
đạt 7.6% [1]. Năm 2007, tăng trưởng 8.48%, đây cũng là mức tăng cao
nhất từ sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. So với các nước
trong khu vực và trên thế giới, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những
năm gần đây khá ấn tượng. Dù đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhưng đây
không phải là một hiện tượng thần kỳ vì theo tính toán của các nhà kinh
tế thì tăng trưởng của Việt Nam đang ở dưới mức tiềm năng.
Năm 2008, chịu ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế vĩ mô và
khủng hoảng tài chính thế giới, tăng trưởng GDP chỉ đạt 6.19% [2]. Tốc
độ tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với năm 2007 và mục tiêu đã đề ra
của chính phủ. Nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng giảm nhiều nhất là công
nghiệp và xây dựng. Năm 2008, tăng trưởng của công nghiệp và xây dựng
chỉ khoảng 6.33%, trong khi đó năm 2007 là 10.6%. Ngành xây dựng có mức
suy giảm mạnh nhất từ mức 12.01% năm 2007 xuống 0.02% năm 2008. Nhóm
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2008 tăng trưởng 3.79%, không
biến động nhiều so với tỷ lệ 3.4% của năm 2007. Quý 1 năm 2009 tăng
trưởng GDP đạt 3.1%, thấp hơn nhiều so với năm 2008 và những năm trước
đó. Tăng trưởng công nghiệp chỉ còn 1.5%, dịch vụ 5.4%, nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 0.4%. Điều này báo trước một năm 2009 là năm
khó khăn với kinh tế Việt Nam.
Hình 1: Tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997 – Q1/2009
http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=2050" hyperlink="" border="0" hspace="0
nguoigiangho
03-05-2009, 01:38 PM
4.Chất lượng tăng trưởng thấp
Tuy tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhưng chất lượng
tăng trưởng còn khá thấp, cơ cấu trong nền kinh tế thiếu tính bền vững.
Chất lượng tăng trưởng thấp đang đe dọa đến tính ổn định và sự bền vững
phát triển kinh tế trong tương lai.
4.1 Chất lượng tăng trưởng thấp thể hiện qua chỉ số ICOR cao
Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so
với các nước trong khu vực. Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ
đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến
43.1%, còn theo ước tính sơ bộ quý 1 năm 2009 tỷ lệ này là 37.4%. Dù
đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ từ 6 - 8.5% nên hệ số
ICOR [4] luôn ở mức cao (Hình 5).
ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền
kinh tế càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây
nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
Hình 5: ICOR Việt Nam qua một số giai đoạn
http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=2043" hyperlink="" border="0" hspace="0
Nguồn: TCTK
So sánh ICOR của Việt Nam với các nước trong khu vực có cùng giai đoạn phát triển kinh tế, ICOR của Việt Nam cao hơn rất nhiều.
Hàn Quốc đã trở thành một “con rồng Châu Á” nhờ liên
tục đạt được tốc độ tăng trưởng và chất lượng đầu tư cao. Các nước Đông
Nam Á như Indonesia và Thái Lan có hệ số ICOR thấp hơn Việt Nam. Tuy
vậy, các quốc gia này trong quá trình phát triển phải đối mặt với nhiều
cuộc khủng hoảng. Trung Quốc được xem là một trường hợp đặc biệt khi
liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng thần kỳ hơn 20 năm qua. Để đạt
được thành tích đó ngoài những điều kiện phát triển thuận lợi như nguồn
tài nguyên, nhân lực và chính sách phát triển phù hợp thì Trung Quốc
phải trả giá khá đắt. Đó là sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên
và bất bình đẳng trong xã hội. Điều này càng cho thấy với hệ số ICOR
cao như vậy kinh tế Việt Nam khó có sự phát triển bền vững. Nếu tình
trạng này không được cải thiện thì Việt Nam phải trả một cái giá rất
đắt trong tương lai.
Bảng 4: Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á
http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=2044" hyperlink="" border="0" hspace="0
4.2 Chất lượng tăng trưởng thấp thể hiện qua tăng trưởng nhân tố
Để xem xét chất lượng tăng trưởng ngoài phương pháp
đánh giá dựa vào hệ số ICOR, chất lượng tăng trưởng còn được đánh giá
thông qua đóng góp của các nhân tố cho tăng trưởng.
Theo lý thuyết về tăng trưởng, phương trình tăng
trưởng Cobb-Douglas có 3 nhân tố đóng góp vào tăng trưởng đó là vốn
(K), lao động (L), TFP [5] (cải thiện công nghệ, năng suất lao động,
hiệu quả sử dụng vốn). Nếu yếu tố TFP càng cao thì được xem như chất
lượng tăng trưởng càng cao. Bảng 5 cho thấy mặc dù yếu tố cải thiện
công nghệ ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong đóng góp vào tăng trưởng
nhưng vẫn còn chiếm một tỷ lệ nhỏ. So sánh với các quốc gia khác, chẳng
hạn tỷ trọng TFP thời kỳ 1980 – 2000 Hàn Quốc là 39.96%, Ấn Độ là
40.78%, yếu tố đóng góp cho tăng trưởng TFP của Việt Nam cũng thấp hơn
hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á. Điều này cho thấy mức độ
đóng góp của cải thiện công nghệ và tăng năng suất lao động cho tăng
trưởng của Việt Nam vẫn còn thấp. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phần
lớn phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư và tăng số lượng lao động.
http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=2045" hyperlink="" border="0" hspace="0
4.3 Nguyên nhân làm cho chất lượng tăng trưởng không cao
Trên đây chúng ta vừa xem xét hai yếu tố cho thấy chất
lượng tăng trưởng của Việt Nam còn thấp. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này nhưng trong giới hạn của bài viết nay chúng tôi chỉ
nêu lên một số nguyên nhân quan trọng và chính yếu sau.
a.Đầu tư khu vực nhà nước hiệu quả thấp
Hiện nay vốn đầu tư của nhà nước và các DNNN chiếm tỷ
trọng lớn nhưng chưa mang lại hiệu quả cao. Tính trung bình từ năm 2001
– 2008 tỷ lệ đầu tư của khu vực nhà nước chiếm 47.5% tổng số vốn đầu tư
xã hội. ICOR của khu vực nhà nước luôn ở mức rất cao. Chẳng hạn năm
2007 ICOR toàn bộ nền kinh tế là 5.4 lần, trong khi đó khu vực nhà nước
là 8.3 lần, ngoài nhà nước 3.7 lần, còn khu vực vốn đầu tư nước ngoài
là 5 lần.
Ngoài ra còn nhiều vấn đề chưa hợp lý trong việc sử
dụng vốn đầu tư từ ngân sách. Cơ chế “xin cho” giữa trung ương và địa
phương, giữa Chính phủ và DNNN còn phổ biến. Những vấn đề trên tất yếu
dẫn đến việc phân bổ nguồn vốn không hiệu quả. Thẩm định để lựa chọn
các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước phần lớn không dựa trên tiêu chí
hiệu quả làm đầu. Nhiều dự án đầu tư chậm tiết độ, không được sử dụng
kịp thời. Ngoài ra không ít dự án đầu tư xong không được sử dụng hoặc
chậm sử dụng. Mặt khác chi phí đầu tư của khu vực nhà nước lớn, chất
lượng không đạt yêu cầu do thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng
cơ bản, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA.
Đầu tư của DNNN cũng đang tồn tại nhiều vấn đề cần
phải xem xét. Sự bất ổn vĩ mô năm 2008, nhiều nhà kinh tế cho là có sự
đóng góp lớn của nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn,
công ty đã đầu tư một cách tràn lan ra nhiều lĩnh vực góp phần làm xuất
hiện bong bóng tài sản tài chính và bất động sản.
DNNN đang được ưu tiên sử dụng rất nhiều nguồn lực
quốc gia như vốn, tài nguyên và vị thế kinh doanh, tuy vậy hiệu quả
hoạt động của DNNN lại không tương xứng với những nguồn lực được ưu
tiên đó. Nhiều lĩnh vực kinh doanh DNNN đang chiếm vị thế độc quyền,
triệt tiêu áp lực cạnh tranh, làm giảm hiệu quả trong nền kinh tế.
b.Phát triển ngành và các khu vực chưa hợp lý
Để thành công trên con đường hội nhập luôn đòi hỏi mỗi
quốc gia có được một chiến lược phát triển hợp lý. Việt Nam là một nước
đi sau nên có cơ hội để học hỏi từ thành công và thất bại của những nền
kinh tế đi trước. Tuy vậy, trên thực tế Việt Nam dường như đã không
phát huy được lợi thế đó.
Chính phủ Việt Nam một mặt khẳng định “phát triển kinh
tế theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN”
nhưng song song với đó là xây dựng những tập đoàn kinh tế nhà nước quy
mô lớn, hoạt động đa ngành. Mục đích của việc xây dựng các tập đoàn
kinh tế để tăng lợi thế kinh tế theo quy mô nhằm tăng sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, Việt
Nam vẫn xem DNNN là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế để duy trì sự
“độc lập tự chủ” và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Mặc dù mục đích trên tốt đẹp nhưng giữa các mục tiêu
lại có mâu thuẫn với nhau và thực tế cũng đã cho ta thấy điều đó. Sự
bất cập trong hoạt động của tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã được
mổ xẻ và phân tích rất nhiều trong thời gian qua..
Nhà nước không tách bạch được chức năng quản lý và
chức năng kinh doanh. Chính sách tập trung phát triển DNNN cũng không
còn phù hợp trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay. Các quốc gia trên
thế giới đang ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn. Sự cạnh tranh và phát
triển của doanh nghiệp và quốc gia dựa trên việc tham gia vào chuỗi giá
trị cung ứng toàn cầu.
Sự bất cập trong cơ cấu nền kinh tế còn được thể hiện
qua việc lựa chọn ngành trong chiến lược phát triển công nghiệp chưa
tận dụng được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang có.
Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào, trẻ, có trình độ
học vấn nhưng thiếu kỹ năng và tay nghề. Nhiều dự án đầu tư của Việt
Nam không phát huy được những lợi thế này. Trong khi đó điểm yếu của
Việt Nam là vốn, kỹ thuật, công nghệ và quản lý. Nhiều chính sách và dự
án của Việt Nam tập trung vào ngành thâm dụng vốn như thép, đóng tàu…
Hay việc cho phép xây dựng nhiều sân golf lấy đi hàng nghìn ha đất nông
nghiệp khiến cho không ít người dân vùng nông thôn thất nghiệp.
Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam không tạo
ra được sự liên kết trước và sau để thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ
trợ phát triển. Nhiều dự án FDI đầu tư vào Việt Nam nhằm khai thác
những quy định lỏng lẻo về môi trường hay chỉ lợi dụng chính sách bảo
hộ của nhà nước để tìm kiếm lợi nhuận không tạo ra được nhiều tiền đề
cho sự phát triển kinh tế.
Việt Nam rất nhiều lợi thế để phát triển ngành du lịch
nhưng cho đến này vẫn chưa được khai thác đúng mức. Hạ tầng cứng và hạ
tầng mềm cho ngành du lịch đang còn thiếu và yếu. Sự phát triển của một
số ngành công nghiệp nặng, ô nhiễm đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiềm
năng du lịch ở nhiều vùng trên đất nước.
c.Chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học chưa cao
Chất lượng nhân lực không cao và chậm áp dụng các tiến
bộ khoa học công nghệ khiến cho năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh
của hàng hóa kém, giá trị gia tăng của các sản phẩm chưa cao.
Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế
cạnh tranh của Việt Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một
rào cản phát triển kinh tế. Số người lao động qua đào tạo đang chiếm
một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa đáp ứng được những công việc đòi
hỏi kiến thức và kỹ năng. Đào tạo đại học và nghề chưa theo sát với nhu
cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề nhân lực là một trở
ngại lớn đối với nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam.
Chất lượng công trình nghiên cứu ứng dụng còn thấp và
số lượng lại ít. Hàng năm, ngân sách nhà nước sử dụng một phần không
nhỏ cho nghiên cứu phát triển nhưng hiệu quả thu được rất khiêm tốn.
Chi phí nghiên cứu nhiều dự án của nhà nước lên đến
hàng tỷ đồng nhưng tính thực tiễn thấp. Nhiều dự án báo cáo xong nhưng
không được triển khai ứng dụng mà “xếp vào tủ”. Nghiên cứu ở các trường
đại học dừng lại ở mức độ thử nghiệm, thiếu tính ứng dụng. Những công
trình được công bố ở nước ngoài và được quốc tế công nhận chiếm một tỷ
lệ rất nhỏ. Doanh nghiệp trong nước chưa quan tâm nhiều đến nghiên cứu
phát triển và ứng dụng những tiến bộ về khoa học công nghệ, nâng cao
năng suất lao động.
d.Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng cho
phát triển kinh tế. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển của đất nước.
Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của nhà đầu
tư nước ngoài khi đến Việt Nam là vấn đề cơ sở hạ tầng như giao thông,
điện, viễn thông…
Cơ sở hạ tầng điện phát triển chưa theo kịp nhu cầu.
Với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7-8%/năm thì theo ước tính của các
nhà khoa học, nhu cầu điện của Việt Nam tăng từ 16-17%. Hiện nay, công
suất ngành điện mỗi năm tăng thấp hơn nhu cầu nên trong những năm gần
đây, cảnh thiếu điện, cắt điện luân phiên, thường xuyên xảy ra trong cả
nước. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế của đất nước. Lý
giải của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) là do giá điện thấp nên không
thu hút được đầu tư vào ngành điện. Dù giá điện hiện nay đã tăng theo
yêu cầu của EVN nhưng tình trạng thiếu điện có thể không sớm được khắc
phục do đang có rất nhiều dự án phát điện bị chậm tiến độ. Ngoài ra, kế
hoạch cải tổ ngành điện được xem là biện pháp khả dĩ để giải quyết tình
trạng thiếu điện nhưng đang diễn ra khá chậm.
Tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những
năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế,
trong đó các tài trợ từ nguồn vốn quốc tế chiếm 40% tổng mức đầu tư.
Nhưng cơ sở hạ tầng của Việt Nam đang thiếu và đang trở nên quá tải.
Chi phí vận tải ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các
nước trong khu vực. Việt Nam chưa có cảng biển mang tầm cỡ quốc tế.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí sản xuất hàng hóa ở Việt Nam,
vì phải vận chuyển qua cảng trung gian. Vấn đề bất cập trong cơ sở hạ
tầng hiện nay là thiếu một quy hoạch phát triển đồng bộ, chi phí đầu tư
cao, chất lượng đầu tư thấp và thất thoát lớn trong quá trình đầu tư.
Tình trạng ách tắc giao thông, giá đất cao, xây dựng
cơ sở hạ tầng, đường giao thông đắt đỏ tại các đô thị lớn như Hà Nội và
Tp. HCM là một trong những bước cản lớn cho phát triển của 2 thành phố
lớn nhất nước này.
Hệ thống viễn thông đang dần được cải thiện đáng kể
khi có nhiều doanh nghiệp tham gia ở thị trường này. Tuy vậy, cơ sở hạ
tầng cho hệ thống này cũng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất
nước. Nhưng có lẽ vấn đề viễn thông không còn là một vấn đề đáng lo
ngại khi Việt Nam có một thị trường viễn thông khá cạnh tranh như hiện
nay.
5.Một số tiềm năng cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Tuy có một số yếu kém ở trên nhưng kinh tế Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển.
1.Thu nhập bình quân đầu người tính bằng USD bình
quân năm 2008 là 1024 USD/người. Tuy vậy, thu nhập bình quân đầu người
tính theo giá năm 1999 chỉ đạt 758 USD, tính theo sức mua tương đương
(PPP) đạt khoảng 3,500 USD/người/năm, xếp thứ 120 trên 174 quốc gia
trên thế giới. Như vậy Việt Nam vẫn còn là một nước có thu nhập thấp.
Do vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn có thể được duy trì ở mức cao
trong nhiều năm tới [6].
2.Nguồn lao động trẻ, dồi dào, có nền tảng giáo dục
khá tốt. Nếu nguồn lao động này được đào tạo bài bản thì có thể tiếp
thu các kỹ năng và kiến thức tạo nên nguồn lực dồi dào giúp kinh tế
Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.
3.Dân số Việt Nam chỉ có 1/3 sống ở khu vực thành
thị, có hơn 50% lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản, tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và dịch vụ vào cơ cấu GDP
còn thấp đây chính là tiềm năng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Những
tiềm năng này thể hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu về dân số nông thôn
lên thành thị, chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
4.Việt Nam đã gia nhập WTO từ năm 2007, quá trình mở
cửa hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ. Đây chính là sức ép và động lực cho
quá trình cải cách của Việt Nam diễn ra nhanh hơn. Việt Nam cũng nhận
được quan tâm của nhiều nhà đầu tư, tập đoàn lớn trên thế giới. Các
dòng vốn đầu tư nước ngoài và mở cửa thương mại thúc đẩy kinh tế Việt
Nam phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
5.Trình độ công nghệ ứng dụng trong sản xuất của
nhiều ngành còn lạc hậu. Chất lượng quản lý nhà nước và doanh nghiệp
còn yếu kém, đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho tăng trưởng
kinh tế Việt Nam khi các những yếu kém đó được cải thiện.
hogiatu
13-05-2009, 12:48 PM
Chỉ tiêu tăng trưởng GDP và câu hỏi về tính pháp lý
NGUYÊN HÀ (http://vneconomy.vn/home/tim-kiem.htm?key=Nguy%C3%AAn%20H%C3%A0&bl=1" class="athorInDetail)
12/05/2009 22:59 (GMT+7)
Tại
kỳ họp Quốc hội thứ 5 tới đây, Chính phủ đề nghị điều chỉnh hai chỉ
tiêu: tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 6,5% xuống khoảng 5%, và bội chi
ngân sách Nhà nước từ 4,82% lên tối đa khoảng 8% GDP.Việc
này không gây bất ngờ, song sẽ điều chỉnh tăng giảm đến mức nào, cơ sở
của con số đó cùng tính pháp lý trong việc thực hiện các chỉ tiêu này
vẫn đăt ra nhiều câu hỏi với không ít băn khoăn.5% dựa trên cơ sở nào?Tốc
độ tăng trưởng GDP 5% được Chính phủ dự báo căn cứ vào tình hình kinh
tế thế giới, tình hình kinh tế - xã hội quý 1 và tác động tích cực của
gói kích cầu trong các tháng tới.Cụ
thể khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng khoảng 2 - 2,8%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng khoảng 3,5 - 5%; khu vực dịch vụ tăng khoảng
7,5-7,7%.Theo
Chính phủ, nếu kinh tế thế giới phục hồi nhanh hơn so với dự báo hiện
nay, có thể phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP vào khoảng 5,5- 6%.Trong
báo cáo, Chính phủ cũng dự báo cả năm tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
từ 3 -5%, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 6%, giải quyết việc làm mới
khoảng 1,52-1,57 triệu lao động.Thẩm
tra báo cáo này, Ủy ban Kinh tế nhất trí việc điều chỉnh một số chỉ
tiêu chủ yếu nêu trong Nghị quyết của Quốc hội là cần thiết.Song,
để bảo đảm tính pháp lý trong việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,
Ủy ban đề nghị tại kỳ họp tới, Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh
bốn chỉ tiêu chủ yếu, có tính chi phối đến đời sống kinh tế - xã hội
của đất nước: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng, bội chi
ngân sách nhà nước, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, còn các chỉ tiêu
khác giao Chính phủ cân đối và điều hành cụ thể.Đa
số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế nhất trí đề nghị điều chỉnh chỉ tiêu giá
tiêu dùng ở mức khoảng 6%; điều chỉnh chỉ tiêu tốc độ tăng kim ngạch
xuất khẩu xuống khoảng 3%.Với
chỉ tiêu bội chi ngân sách, ủy ban này cho rằng không nhất thiết phải
tăng quá lớn, nhất là trong điều kiện việc giải ngân các nguồn vốn đầu
tư còn nhiều bất cập. Bởi vậy, đề nghị Chính phủ rà soát, tính toán khả
năng thu,chi ngân sách để xác định số bội chi cần thiết, bảo đảm tính
hợp lý và thực tế.Riêng
về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, các ý kiến đề nghị cần điều chỉnh
giảm, nhưng đề xuất các mức khác nhau, cụ thể là: 5-5,5%, 5%, 4,5-5%.Đa
số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, nếu tập trung tháo gỡ được một
số điểm nghẽn (ví dụ như thủ tục đầu tư), sớm cụ thể hóa chương trình
kích thích kinh tế, đẩy nhanh tiến độ thực hiện hệ thống các giải pháp
thì chúng ta có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn trong những quý
tiếp theo; đồng thời cũng bày tỏ quan điểm cần cố gắng phấn đấu đạt mức
tăng trưởng kinh tế khoảng 5%.Tuy nhiên, do tăng trưởng kinh tế quý 1 chỉ đạt 3,1% nên mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân cả năm 5% là một thách thức lớn.Qua
tính toán sơ bộ, giả định GDP có tốc độ tăng dần đều qua các quý, muốn
đạt tăng trưởng bình quân cả năm 5% thì phải có gia tốc tăng mỗi quý là
1,3%. Theo đó, quý 2 đạt 4,4%, quý 3 đạt 5,7%, quý 4 đạt 7%.Do vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ báo cáo làm rõ cơ sở và tính thực tế của việc xác định chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 5%.Băn khoăn tính pháp lýThảo
luận báo cáo của Chính phủ về triển khai thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2009, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Phùng
Quốc Hiển đặt câu hỏi: không biết Quốc hội có nên bàn về chỉ tiêu tăng
trưởng GDP hàng năm không, GDP và CPI có được coi là chỉ tiêu pháp lệnh
hay là chỉ tiêu để Chính phủ báo cáo Quốc hội? "Năm
2008 đề nghị giảm từ 8,5 còn 7%, tổ chức thực hiện chỉ đạt 6,18%. Năm
nay khả năng điều chỉnh chỉ còn 5% thôi, có khi thực hiện còn còn không
đạt 5%, vậy thì nên thế nào? Phải chăng Quốc hội nên đánh giá chất
lượng điều hành của Chính phủ so với năm trước chứ không phải qua chỉ
tiêu", ông Hiển nói.Tính pháp lý của các chỉ tiêu đến đâu là băn khoăn của không ít đại biểu và không phải đến bây giờ mới được nói tới.Trả
lời phỏng vấn VnEconomy đầu năm nay, đại biểu Quốc hội Đặng Như Lợi,
Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng chỉ
tiêu chỉ mang tính định hướng.Ông
nói: “Tôi nghĩ có nhiều đại biểu nhận thấy một số chỉ tiêu kinh tế - xã
hội đặt ra chưa thật hợp lí, nhưng Quốc hội không biểu quyết từng chỉ
tiêu mà biểu quyết theo khoản hoặc điều, nên các chỉ tiêu gộp chung
trong điều, khoản thường được thông qua. Tuy nhiên, vấn đề chính là các
chỉ tiêu được thông qua chưa phải là quy định nghiêm ngặt của pháp
luật, kết quả thực hiện chưa gắn với xử lí cơ quan chức năng có trách
nhiệm”.Ngay
tại thời điểm đó, ông đã cho rằng chỉ tiêu tạo việc làm cho 1,7 triệu
người lao động năm 2009 là không có cơ sở cả về lí thuyết và thực tiễn.
Và dự báo mới nhất của Chính phủ trong cả năm có thể giải quyết việc
làm mới khoảng 1,52 - 1,57 triệu lao động.Theo
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Nguyễn Văn Thuận thì Quốc hội
luôn đứng bên cạnh Chính phủ, cùng nêu cao tinh thần trách nhiệm, song
Chính phủ cần phải làm rõ để thuyết phục Quốc hội những vấn đề đã đề
xuất.Về
con số tăng trưởng GDP 5%, ông Thuận cho rằng tăng trưởng vốn là chủ
yếu, cần tăng trưởng lại "bơm" tiếp vốn vào, thì thử hỏi sẽ giải thích
thế nào khi sự cải thiện của đời sống không tương xứng với tăng trưởng
kinh tế.Vấn đề khiến đại biểu Thuận quan ngại là vì sao hệ số đầu tư tăng trưởng (ICOR) năm sau cứ cao hơn năm trước, ngay cả khi chưa có khủng hoảng kinh tế thì ICOR vẫn
cao.Theo báo cáo của Chính phủ thì năm 2008 hệ số ICOR tăng lên đến
6,66 là cao hơn so với năm trước (năm 2007 là 5,2). Theo ông việc này
hầu như không có nguyên nhân khách quan, mà chỉ có nguyên nhân chủ quan.Lại chuyện dự báoTại
kỳ họp tới đây, Quốc hội sẽ xem xét báo cáo bổ sung tình hình kinh tế
xã hội năm 2008.Chính phủ “tự kiểm điểm”có 9 chỉ tiêu không đạt kế
hoạch đề ra, bao gồm cả tốc độ tăng GDP, tổng vốn đầu tư toàn xã hội
trên GDP, tạo việc làm mới, tỷ lệ hộ nghèo…Đánh
giá “những kết quả đạt được trong năm 2008 là tích cực, về cơ bản đã
đạt được mục tiêu tổng quát nêu trong Nghị quyết của Quốc hội” song Ủy
ban Kinh tế của Quốc hội cũng chỉ ra “những hạn chế cần xem xét một
cách đầy đủ và nghiêm túc”.Hạn
chế đầu tiên là công tác phân tích số liệu, đánh giá và dự báo chưa sát
diễn biến thực tế, nhiều chỉ tiêu quan trọng có sự chênh lệch, thấp hơn
so với thời điểm báo cáo Quốc hội.Tháng
11, tháng 12 năm ngoái vẫn dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt
6,7-6,8%, nhưng kết quả thực tế chỉ đạt 6,2%, dẫn tới việc xây dựng và
quyết định các chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
sau phần nào còn lạc quan, thiếu tính sát thực. Việc
lập dự toán thu chưa sát với tình hình thực tiễn, đã ảnh hưởng đến tính
chủ động trong bố trí kế hoạch chi và cân đối ngân sách chung.Ủy
ban Tài chính - Ngân sách cũng “phê” Chính phủ dự báo kinh tế chưa tốt,
xây dựng dự toán ngân sách chưa sát với tình hình thực tế, thu, chi
vượt dự toán lớn.Việc
điều chỉnh các chính sách tuy có kịp thời, nhưng có tình trạng Chính
phủ vượt quá thẩm quyền cho phép đối với một số khoản chi, ủy ban này
khẳng định.Trong
vai trò thẩm tra, cả Ủy ban Kinh tế và Tài chính - Ngân sách đều đề
nghị Chính phủ tăng cường công tác dự báo, chủ động xây dựng các chủ
trương, biện pháp chiến lược cho nền kinh tế sau khi kinh tế thế giới
ra khỏi khủng hoảng và phục hồi, kể cả vấn đề cấu trúc nền kinh tế, lựa
chọn các mô hình phát triển. *
Theo dự báo của Chính phủ thì nền kinh tế nước ta trong năm 2009 không
bị rơi vào khủng hoảng, suy thoái như các quốc gia khác, và bắt đầu có
dấu hiệu chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
cocacola1992
13-05-2009, 01:04 PM
neu cho kinh te phuc hoi ro rang thi gia cplam gi con o muc gia nay nua ho bac .neu bac so thi cu ngoi cho khi nao kinh te hoi phuc thi chiu kho mua cp vao voi mucgia tren troi vay bac nhe .
dockhachhanh
13-05-2009, 03:59 PM
Có hay không "thần dược" cho tăng trưởng kinh tế?
http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/6925/index.aspx
dockhachhanh
13-05-2009, 04:03 PM
Có hay không "thần dược" cho tăng trưởng kinh tế?
http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/6925/index.aspx
Tôi định post bài viết này lên để anh em đọc và bàn luận nhưng bị kiểm duyệt đành gửi đường link lên đây vậy
Những vấn đề bài bào nêu lên đúng là căn bệnh trầm kha của kinh tế VN. Một sự thật hiển nhiên mà nhiều người cố tình ko hiểu
stockwizard
13-05-2009, 06:24 PM
Có hay không "thần dược" cho tăng trưởng kinh tế?
http://www.tuanvietnam.net/vn/nghexemdoc/sachhaynendoc/6925/index.aspx
Tôi định post bài viết này lên để anh em đọc và bàn luận nhưng bị kiểm duyệt đành gửi đường link lên đây vậy
Những vấn đề bài bào nêu lên đúng là căn bệnh trầm kha của kinh tế VN. Một sự thật hiển nhiên mà nhiều người cố tình ko hiểu
Xưa này những bài viết nói thẳng và động chạm như vậy thường là cấm kỵ. Đọc cái bài viết chỉ có trên tuanvietnam.net là thú vị nhất vì giảm nói sự thật. Ngay cả trên diễn đàn VST nhiều vấn đề còn không được thoải nói !!!
e cũng đồng ý với bác là KT chưa có dấu hiệu rõ ràng của sự phục hồi .
Ba kịch bản cho kinh tế Việt Nam 13/05, 16:38 |
|
[table]
[table]
http://****.vn/****/images/spacer.gif" width="10" height="1 |
http://****.vn/StoxPlusNews/store/images/ThoaTa/32009/kinhte4.jpg" alt="Ba kịch bản cho kinh tế Việt Nam" align="baseline" border="0" hspace="0 |
|
Theo CIEM, khu vực Đông Nam Á và Việt Nam được xem không phải là “mắt” của khủng hoảng[/i] |
Với
kịch bản cơ bản, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2009 sẽ
giảm xuống còn 4,69% so với 6,18% của năm 2008. Mức lạm phát sẽ tăng
tới 9,4%, xuất khẩu giảm 12,2%
[/b]
[url="http://****.vn/****/view_news_detail.asp?id=27178&menuID=1&categoryID= 130">
stockwizard
14-05-2009, 08:46 AM
Mấy bác LĐ nhà ta lạc quan quá. Biết là nói ra không làm được mà vẫn nói. Với việc trông bố chi tiết 8 tỷ USD kích cầu trông mà khiếp quá
hogiatu
19-05-2009, 08:40 AM
Việt Nam trước thách thức xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển |
19/05/2009 06:02 (GMT + 7) |
(TuanVietNam)-
Vượt lên với nỗ lực xây dựng “Nhà nước kiến tạo phát triển” hay sa lầy
trong mô thức “Nhà nước đối phó - xoay sở”?Việt Nam có trở thành một
“Nhà nước kiến tạo phát triển” hay không, sẽ chủ yếu phụ thuộc vào sự
chín muồi của ba yếu tố then chốt: Đòi hỏi của người dân; Hiểm họa an
ninh quốc gia; và Khan hiếm tài nguyên thiên nhiên". TS. Vũ Minh
Khương.
|
Đặc điểm của Nhà nước kiến tạo phát triển
Chất
lượng thể chế và nguyên tắc thị trường là hai động lực căn bản tương
tác chặt chẽ với nhau trong tạo nên sức phát triển lâu bền của một quốc
gia. Trong hai động lực căn bản này, chất lượng thể chế có vai trò then
chốt quyết định chất lượng hoạt động của các nguyên tắc thị trường; và
do đó quyết định tương lai phát triển của một đất nước.
[table]
http://www.tuanvietnam.net/Library/Images/69/2009/05/090509/KhatvongVN-doanthannien.JPG" style="width: 220px;" alt="
Khát vọng vươn lên của dân tộc. Ảnh: doanthanhnien.vn
Trong công cuộc phát triển, mỗi quốc
gia đang phát triển đều trải qua thời điểm then chốt trong lựa chọn xây
dựng thể chế phát triển: vượt lên với nỗ lực xây dựng “Nhà nước kiến
tạo phát triển” hay sa lầy trong mô thức “Nhà nước đối phó - xoay sở”.
Quyết định lựa chọn xây dựng “Nhà
nước kiến tạo phát triển” đòi hỏi nỗ lực quyết liệt nâng cao chất lượng
thể chế, coi đó là một trong những yếu tố nền móng căn bản cho toàn bộ
công cuộc phát triển.
Bằng lòng với mô thức “nhà nước đối
phó - xoaysở” là sự né tránh những đòi hỏi bức bách phải nâng cao chất
lượng thể chế, để rồi bận rộn với các giải quyết sự vụ và sự sa lầy vào
các dự án lớn đặc trưng bởi tầm nhìn hạn hẹp và sự thao túng và vụ lợi
của các nhóm lợi ích và cá nhân. Khi đó, quốc gia này có nguy cơ suy
biến thành “nhà nước cai trị hủ bại.”
Các quốc gia đã thành công trong xây
dựng “nhà nước kiến tạo phát triển” điển hình ở Đông Á là Nhật Bản, Hàn
Quốc, và Singapore. Sự phân định một quốc gia đang đi vào hướng lựa
chọn nào của thể chế phát triển, “kiến tạo phát triển” hay “cai trị -
hủ bại” có thể được nhận diện thông qua năm đặc điểm liên quan đến nỗ
lực xây dựng thể chế phát triển nêu ở bảng dưới đây:
Đặc điểm
|
Kiến tạo Phát triển
|
Cai trị - Hủ bại
1. Tuyển dụng cán bộ vào cơ quan nhà nước.
|
Thực sự minh bạch và cạnh tranh.
|
Thiếu minh bạch, thậm chí tùy tiện
2. Tiêu chuẩn lựa chọn và đề bạt
|
Coi trọng hiền tài
|
Con ông cháu cha, phe cánh
3. Hoạch định và phối thuộc Chiến lược phát triển
|
Lập cơ quan hoạch định và phối thuộc chiến lược phát triển với những cán bộ ưu tú và trách nhiệm đặc biệt.
|
Mơ hồ; không có cơ quan thực sự chịu trách nhiệm
4. Hợp tác giữa nhà nước và tư nhân
|
Chặt chẽ - gắn bó
|
Lỏng lẻo - nghi kị. Thiếu chiều sâu và tầm chiến lược.
5. Luật chơi trên thị trường
|
Rõ ràng và nghiêm minh
|
Thiếu nhất quán giữa văn bản và thực hiện. Thiên vị các nhóm lợi ích
Các yếu tố quyết định hướng lựa chọn thể chế phát triển và thách thức với Việt Nam
Khác với sự nhầm tưởng thường thấy,
sự lựa chọn thể chế phát triển không tùy thuộc chủ yếu vào vai trò cá
nhân lãnh đạo mà chịu tác động đặc biệt của các ba yếu tố then chốt,
khách quan: Đòi hỏi của người dân; Hiểm họa an ninh quốc gia; và Khan hiếm tài nguyên thiên nhiên [1].
Một quốc gia có xu hướng buộc phải lựa chọn con đường xây dựng “Nhà nước kiến tạo phát triển” nếu hội đủ được ở mức cao cả ba yếu tố nói trên.
[table]
"[img]http://www.tuanvietnam.net/news/images/nutdo.gif" vspace="7" width="3" height="3">
blackhole
19-05-2009, 11:06 PM
Bài viết của TS. Vũ Minh Khương thật tuệt vời. Đề cập đến những vấn đề hệ trọng của thế chế Việt Nam
hogiatu
20-05-2009, 02:22 PM
Bài viết của TS. Vũ Minh Khương thật tuệt vời. Đề cập đến những vấn đề hệ trọng của thế chế Việt Nam
Con đường phía trước của VN còn dài. Anh sáng cuối đường hầm còn chưa xuất hiện
stockwizard
21-05-2009, 03:54 PM
http://www.vietstock.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=116143&ChannelID=38Công nghiệp hóa: Chất lượng hơn số lượng
Nước ta đã trải qua một chặng đường khá dài công
nghiệp hóa. Vậy, ta đang đứng ở đâu so với thế giới?. Vì sao nhiều
ngành công nghiệp vẫn trong tình trạng lắp ráp, thô sơ?. Mô hình phát
triển nào thích hợp?. Những vấn đề này sẽ được GS.TS. Phạm Duy Hiển mổ
xẻ trong cuộc trò chuyện với TBKTSG.
Chạy theo tăng trưởng
Thưa Giáo sư, mục tiêu của chúng ta là đến năm
2020, tức chỉ còn hơn 10 năm nữa, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nên hiểu khái niệm và mục tiêu này như
thế nào?
Khái niệm công nghiệp hóa theo hướng hiện đại có lẽ
nên được xem xét trong bức tranh toàn cầu để thấy khoảng cách rất lớn
giữa những nước được xem là công nghiệp tiên tiến với những nước khác,
và ta đang đứng ở đâu.
Nếu so các nước tiên tiến với các nước kém phát triển
thì sự khác biệt dễ thấy nhất là mức sống, hay bình quân GDP, có thể
khác nhau đến hàng trăm lần. Nhưng đây chỉ là biểu hiện bề ngoài. Điều
làm nên sự khác biệt cơ bản là nền kinh tế ở các nước công nghiệp hiện
đại có năng suất và chất lượng rất cao nhờ dựa trên khoa học - công
nghệ hiện đại, môi trường trong sạch và ít chênh lệch giàu nghèo.
Vậy, theo Giáo sư, công nghiệp hóa của Việt Nam hiện đang đứng ở đâu và liệu rằng chúng ta có đạt được mục tiêu?
-
Theo tôi quan sát, ở ta có xu hướng xem GDP là một tiêu chí thống soái
có tính pháp chế, từ đó có người cho rằng có thể đẩy nhanh tăng trưởng
GDP lên 9-10%, thậm chí cao hơn, để nhanh chóng đạt được trình độ công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Như đã phát biểu nhiều lần, chẳng những
không đồng tình, tôi còn lo ngại về hậu quả phát triển theo kiểu này.
Hiện nay, nền kinh tế của ta được xếp vào loại tăng
trưởng cao trên thế giới. Nhưng vì có xuất phát điểm quá thấp, chúng ta
có thể tăng trưởng nhanh trong giai đoạn đầu chủ yếu dựa trên thâm dụng
lao động giản đơn, vốn, năng lượng và tài nguyên. Năm 2008, đầu tư 7 đô
la Mỹ chúng ta chỉ tạo ra được 1 đô la GDP, nghĩa là hiệu quả đầu tư
rất thấp so với các nước khác.
Về điện năng, sử dụng 1 kWh điện chúng ta chỉ tạo ra
chưa đầy 1 đô la GDP, thấp hơn hai lần so với Philippines và Indonesia
và thấp hơn bốn lần so với các nước tiên tiến như Bắc Âu, Nhật Bản.
Chính sự thâm dụng nói trên còn dẫn đến tàn phá môi trường, tệ nạn xã
hội và phân hóa giàu nghèo ngày càng rộng.
Chúng ta quá quan tâm đến tăng trưởng mà không để ý
rằng tăng trưởng đạt được là do phí phạm đến mức vô lý các nguồn lực
của mình. Nếu không sớm thoát ra khỏi tình trạng này thì nguồn lực sẽ
cạn kiệt, ta càng lún sâu vào lạc hậu, nói chi đến công nghiệp theo
hướng hiện đại. Có thể trong một giai đoạn nhất định ta “buộc” phải
chạy theo số lượng để giải quyết công ăn việc làm, thu ngân sách...
nhưng đã đến lúc phải xoay chuyển, xem chất lượng tăng trưởng là tiêu
chí hàng đầu.
Phải làm chủ công nghệ
Công nghiệp hóa tức là gia tăng tỷ lệ công nghiệp
và dịch vụ trong GDP và có vẻ như Việt Nam đi đúng hướng khi tỷ lệ này
đang có xu hướng tăng. Tuy nhiên, cho dù tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ
tăng mà công nghệ vẫn lạc hậu, tức là công nghiệp hóa không gắn với
hiện đại thì điều gì sẽ xảy ra?
- Rất đúng! Không thể nói công nghiệp theo hướng hiện
đại khi mà hầu hết các ngành công nghiệp trong nước chỉ đơn giản là lắp
ráp, gia công và khai thác sản phẩm thô. Giá trị gia tăng do tri thức
công nghệ chưa có bao nhiêu. Hầu hết các dự án đầu tư trong nước đều
phải dựa vào đấu thầu nước ngoài để họ mang công nghệ vào.
Quay trở lại câu chuyện khai thác bauxite ở Tây
Nguyên, các chuyên gia trong ngành cho rằng chúng ta chỉ làm được một
khâu đơn giản đầu tiên là tuyển rửa, trong khi công nghệ Bayer này
không có gì là cao siêu và đã từng tồn tại từ hơn 120 năm nay trên thế
giới. Một, hai nhà máy đầu tiên bằng công nghệ nước ngoài là thời gian
quá đủ để làm chủ công nghệ. Các nhà máy tiếp theo phải dùng công nghệ
Việt Nam.
Đến nay, việc thực thi chủ trương nội địa hóa công
nghệ ngoại nhập và tiến lên tìm cách cạnh tranh và sáng tạo ra công
nghệ mới vẫn chưa có. Như vậy, chúng ta không thể cạnh tranh được về
chất lượng, giá cả, cũng như tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu với
thương hiệu Việt Nam. Sứ mạng này trước hết phải giao cho các tập đoàn
nhà nước để tạo nên những cú đấm lớn trong cuộc hội nhập và cạnh tranh
toàn cầu.
Ngược lại, chúng ta sẽ mãi phụ thuộc vào công nghệ
nước ngoài như một hình thức nô dịch mới. Tệ hơn, chúng ta có thể tăng
trưởng với tốc độ cao bằng cách thu hút các công nghệ lỗi thời, tiêu
tốn năng lượng, phá hoại môi trường. Bài học mía đường, xi măng lò đứng
và các nhà máy điện chạy than là những minh chứng.
Thực ra thì Chính phủ cũng đang tìm cách tạo nên
những cú đấm như vậy mà trường hợp đầu tư vào ngành đóng tàu, cụ thể là
tập đoàn Vinashin, là một ví dụ điển hình. Ông đánh giá thế nào về mô
hình này?
- Chúng ta đang cần rất nhiều công nghệ nhưng không đủ
sức đầu tư vào tất cả và không thể dò dẫm lặp lại những bước đi từ
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho đến sản xuất đại trà. Vấn đề quan
trọng là chọn công nghệ gì và cần có lộ trình để nhanh chóng tiến lên
“mặt tiền” công nghệ trong điều kiện ta đang lạc hậu hàng trăm năm so
với thế giới. Xu thế toàn cầu hiện nay là nền kinh tế xanh và công nghệ
cao để có nhiều giá trị gia tăng.
Dĩ nhiên rất nhiều công nghệ cao hiện chưa khả thi đối
với ta và còn khó thu hút đầu tư nước ngoài. Song, không nên để lỡ thời
cơ khi mất quá nhiều sức lực, thời gian và tiền của lao vào những công
nghệ tiêu tốn năng lượng, tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường như
luyện thép, đóng tàu, khai thác khoáng sản...
Vạch ra một lộ trình nội địa hóa công nghệ trong ba
bốn thập kỷ tới với những ưu tiên cho từng thời kỳ đòi hỏi tầm nhìn của
nhà lãnh đạo cộng với những trí tuệ lớn về kinh tế và khoa học - công
nghệ (KH-CN). Phải có người hiểu cấu trúc KH-CN thế giới hiện nay, dự
báo phát triển trong tương lai để vạch ra những lộ trình ngắn nhất.
Vậy, theo Giáo sư, một mô hình phát triển thích hợp cho Việt Nam có thể sẽ như thế nào?
- Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan... mỗi nền
kinh tế có cách đi riêng của mình, nhưng tựu trung lại họ đều bắt đầu
bằng du nhập KH-CN để bắt chước, sau đó nội địa hóa từng phần, toàn
phần, rồi tiến lên cạnh tranh và sản sinh ra công nghệ mới của mình.
Không thể có công nghệ của mình, dù là những công nghệ cổ điển qua
ngoại nhập, nếu không chịu xây dựng một nền khoa học và đại học nghiêm
túc, chất lượng cao với đội ngũ nghiên cứu khoa học mạnh bám theo tiêu
chí quốc tế.
Chúng ta đang mở ra nhiều trường đại học, đang có
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều đề tài, và số lượng các công trình khoa học
in ấn trong nước nhiều vô kể, song trên thực tế chúng ta chưa có vị trí
nào trên bản đồ thế giới về đại học và KH-CN. Chúng ta chưa tạo ra được
điều kiện và môi trường từ đó xuất hiện những trung tâm KH-CN với đầu
đàn đủ cao để từ bên ngoài còn nhìn thấy họ. Phải sớm nhận ra rằng nguy
cơ tụt hậu chính là đây.
GS. Phạm Duy Hiển là người đã chỉ huy khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt.
Ông từng giữ các trọng trách như Phó viện trưởng
Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Năng lượng nguyên
tử Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Chánh cố vấn
kỹ thuật dự án hợp tác vùng châu Á - Thái Bình Dương UNDP/IAEA về kỹ
thuật hạt nhân trong công nghiệp.
Ông đang làm tư vấn cho Chương trình Không khí sạch Thụy Sỹ - Việt Nam và Dự án ADB/WB về xây dựng đại học chất lượng quốc tế.
Công nghiệp hóa: những cột mốc quan trọng
• 1960: Nhiệm vụ công nghiệp hóa lần đầu tiên được
đặt ra tại Đại hội **** lần thứ III với nội dung “mấu chốt là ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng” nhằm “biến nước ta từ một nước nông nghiệp
lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”.
• 1986: Đại hội **** lần VI xác định ưu tiên phát
triển một số ngành công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng để làm tiền đề
cho công nghiệp hóa gồm: năng lượng, một số cơ sở cơ khí, nguyên, vật
liệu, giao thông vận tải và thông tin bưu điện.
• 1991: Công nghiệp hóa được Đại hội **** lần thứ
VII xác định “theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện”.
• 1996: Đại hội **** lần thứ VIII yêu cầu công
nghiệp hóa tập trung vào “một số ngành có lợi thế” và “mũi nhọn” như:
chế biến lương thực - thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công
nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, sản xuất vật
liệu.
• 2001: Đại hội **** lần thứ IX xác định mục tiêu
“tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”
• 2006: Lần đầu tiên, tại Đại hội **** lần thứ X
xác định gắn công nghiệp hóa với phát triển kinh tế tri thức, đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020.
Nguyên Tấn
TBKTSG
stockwizard
19-06-2009, 02:37 PM
Kinh tế Việt Nam có thể hạn chế sự phụ thuộc vào dầu thô?
Chiều nay (19/6), tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 5, Quốc
hội sẽ thông qua nghị quyết về điều chỉnh mục tiêu tổng quát, một số
chỉ tiêu kinh tế, ngân sách Nhà nước, trong đó có mức bội chi ngân
sách.
Đầu kỳ họp này, Chính phủ trình Quốc hội cho phép nâng
mức bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 tối đa khoảng 8%GDP. Song đa số
ý kiến trong Uỷ ban Tài chính - Ngân sách và nhiều vị đại biểu đề nghị
Quốc hội quyết định mức bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 không vượt
quá 7% GDP.
Mới đây, trả lời chất vấn trước Quốc hội, Phó thủ
tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết, để bù đắp thiếu hụt ngân sách do sụt
giảm sản xuất, giảm giá dầu thô, do chính sách giảm thuế và để tăng chi
đầu tư công, bảo đảm an sinh xã hội thì cần thiết phải tăng bội chi
ngân sách.
Theo Phó thủ tướng, xem xét diễn biến giá dầu thô
trong những ngày gần đây có xu hướng tăng lên và yêu cầu thực hiện các
biện pháp tăng cường quản lý thu, xử lý nợ đọng thuế và đề phòng lạm
phát cao trở lại thì mức bội chi khoảng 7% GDP có thể phấn đấu được.
Còn theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh, mức bội
chi ngân sách Nhà nước năm 2009 dự kiến khoảng 6,4% đến 8,3% GDP (tính
theo kế hoạch đầu năm) tùy theo các phương án giá dầu thô thế giới từ
40 USD – 70 USD/thùng.
Một số vị đại biểu băn khoăn, về thực chất giá dầu có
ảnh hưởng tới bội chi ngân sách không. Trong khi Việt Nam hàng năm nhập
khẩu sản phẩm xăng dầu tương đương hoặc cao hơn xuất khẩu dầu thô, giá
dầu thô và sản phẩm xăng dầu thay đổi cùng nhau.
Đại biểu Huỳnh Thành Đạt gửi chất vấn đến Bộ trưởng
Ninh: “Qua báo cáo của Chính phủ có thể thấy nền kinh tế Việt Nam phụ
thuộc rất nhiều vào giá dầu thô. Trước mắt cũng như về lâu dài Chính
phủ có những giải pháp hữu hiệu nào để hạn chế sự phụ thuộc này?”.
Bộ trưởng Ninh khẳng định, phần lớn các nước đều coi
dầu thô là mặt hàng chiến lược, có tầm ảnh hưởng đến an ninh kinh tế và
chính trị của Quốc gia. Vì khi giá mặt hàng này biến động sẽ tác động
lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống xã hội và cân đối ngân
sách Nhà nước.
Nước ta là quốc gia vừa xuất khẩu dầu thô, vừa phải
nhập khẩu xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu khác cho nền kinh tế. Vì
vậy, biến động giá dầu thô thế giới có tác động lớn đến nền kinh tế.
Mặc dù tỷ trọng các khoản thu từ hoạt động kinh tế ngoài dầu thô những
năm qua đã tăng lên đáng kể. Nhưng đến nay nguồn thu từ dầu thô vẫn
chiếm khoảng 20% tổng thu ngân sách Nhà nước, Bộ trưởng cho biết.
Cũng theo Bộ trưởng, Chính phủ đã và đang có nhiều
biện pháp để hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào dầu thô.
Đó là chủ động khai thác hợp lý nguồn tài nguyên của đất nước, có chính
sách hợp lý đầu tư cho ngành dầu khí, tạo điều kiện cho ngành thăm dò,
tìm kiếm, ký kết các hợp đồng khai thác dầu khí ở nước ngoài nhằm tạo
thêm sự chủ động cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, để khắc phục việc nhập khẩu 100% các sản
phẩm xăng dầu và chế phẩm hóa dầu, Nhà nước đã và sẽ đầu tư xây dựng
các nhà máy lọc Dầu Dung Quất, Nghi Sơn, Long Sơn…
Điều tiết giá bán xăng dầu trong nước một cách hợp lý,
theo Bộ Tài chính, cũng là một giải pháp. Đồng thời, Chính phủ cũng đã
chỉ đạo tăng thêm lượng dự trữ xăng dầu. Thời gian tới, sẽ tiếp tục
dành nguồn lực để nâng mức dự trữ các mặt hàng xăng dầu lên cao hơn,
nhằm chủ động đối phó với các biến động từ bên ngoài, Bộ trưởng Ninh
trả lời.
Với ngân sách Nhà nước, theo vị bộ trưởng này, Chính
phủ cũng đang triển khai đồng bộ các giải pháp quan trọng để hạn chế
dần sự phụ thuộc vào yếu tố giá dầu thô, tăng dần tỷ trọng thu từ nội
bộ nền kinh tế.
Đó là khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, đẩy nhanh sự phát triển hiệu quả, bền vững của các doanh nghiệp
làm cơ sở cho việc tăng thu từ nội lực nền kinh tế.
Tiếp tục thực hiện cải cách chính sách thuế cho phù
hợp, thực hiện nguyên tắc công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các thành
phần kinh tế, giữa trong nước và nước ngoài; phát huy chức năng phân
phối lại trong điều tiết thu nhập xã hội và dân cư.
Giải pháp cuối cùng được Bộ trưởng nhấn mạnh là tăng
cường công tác thanh tra kiểm tra chống gian lận thuế, qua đó tăng thu
cho ngân sách Nhà nước.
MINH THÚY
TBKTVN
stockwizard
20-06-2009, 08:12 AM
Xuất khẩu dệt may 6 tháng đạt 4 tỉ đô la Mỹ
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của cả nước6 tháng đầu năm 2009 đạt khoảng 4 tỉ đô
la Mỹ, giảm 4,7% so với cùng kỳ.
Ông Nguyễn Sơn, Phó tổng thư ký Vitas nói rằng nhiều
doanh nghiệp cho hay số lượng đơn hàng, đặc biệt là hàng jacket phục vụ
nhu cầu tiêu thụ cho mùa thuđông sắp tớitại thị trường Mỹ và châu Âu,
đang có xu hướng tăng caoso vớiquí 1-2009.
"Đây là dấu hiệu đáng mừng cho ngành dệt may để duy
trì công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, giá hàng dệt may
xuất khẩu hiện đãgiảm khoảng 15% so với quí 1-2009", ông Sơn nói.
Theo ông Bùi Văn Tiến, Tổng giám đốc Công ty cổ phần
May Việt Tiến, giai đoạn từ đây đến cuối tháng 8-2009 là thời điểm
đểViệt Tiến huy động tối đa nhân công để đáp ứng cho số lượng đơn hàng
xuất khẩu tăng 20% so với quí 1-2009.
Hiện Công ty cổ phần May Việt Tiến có 13 nhà máy sản
xuất hàng dệt may đặt tại các tỉnh thành phía Nam, thu hút khoảng 23
ngàn lao động.
Các chuyên gia ngành dệt may nhận định, nếu số lượng
đơn hàng xuất khẩu ổn định và rải đều ở tất cả các thị trường như hiện
nay, khả năng mục tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may 9,5 tỉ đô la Mỹ
của Việt Nam năm 2009 là có thể đạt được. Tuy nhiên, do giá trịhàng
dệt may xuất khẩu đã giảm mạnh từ 10-15% nênlợi nhuậntừ hàng xuất
khẩu cũng không cao.
Văn Nam
TBKTSG Online
hogiatu
20-06-2009, 09:00 AM
Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Thời cơ đang trôi qua
19/06/2009 10:45 (GMT+7)
“Tôi nghĩ đây là thời cơ vô cùng thuận lợi để Việt Nam thu hút một làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật trong ngành công nghiệp phụ trợ, không chỉ riêng từ Nhật, mà cả từ Trung Quốc”.Dành gần một thập kỷ rưỡi thúc đẩy ý tưởng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, kể từ năm ngoái, GS. Kenichi Ohno đã cảm thấy nhẹ bớt gánh nặng đi nhiều, khi Đại sứ Nhật Sakaba “xắn tay vào cuộc”.Ông dành nhiều thời gian hơn cho công việc đào tạo ở Nhật Bản, và phát triển ý tưởng này ở Ethiopia, nơi theo ông nhận định đi sau Việt Nam hai thập kỷ về GDP trên đầu người, nhưng đi trước một thập kỷ về tư duy hoạch định chiến lược và kế hoạch phát triển công nghiệp.Sang Việt Nam lần này, ông thấy có những bước tiến mới gì về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam?Đã có một khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ được triển khai xây dựng ở Bắc Ninh. Nhưng tôi ngờ rằng đây là nỗ lực của một doanh nghiệp tư nhân có mối quan hệ mật thiết với các nhà lắp ráp Nhật Bản (Tập đoàn Kinh Bắc - NV) nhiều hơn là vai trò của Chính phủ. Bởi cho đến nay, Chính phủ Việt Nam vẫn chưa có một kế hoạch hành động về phát triển công nghiệp hỗ trợ nói chung, mặc dù quá trình làm việc giữa hai phía Nhật Bản và Việt Nam về việc này đã được bắt đầu từ tháng 3 năm ngoái.Ông có hiểu lý do vì sao không?Trong khi phía Nhật rất tích cực, thì phía Việt Nam có vẻ lần lữa. Chúng tôi lập năm nhóm đặc trách để xây dựng kế hoạch hành động, nhưng họ không tìm thấy sự hợp tác từ phía các cơ quan Việt Nam.Cuối cùng, thay vì chờ đợi phía Việt Nam tham gia, chúng tôi phải tự soạn thảo dưới dạng những đề nghị để cho phía Việt Nam tham gia góp ý, chuyển cho phía Việt Nam hôm 16/6.Qua quá trình soạn thảo sáng kiến chung Nhật - Việt, chúng tôi nhận ra rằng các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có vẻ mạnh về bình luận hơn là đề xuất ý tưởng trên cơ sở phân tích những điều tra thực tế. Dường như họ vẫn nghĩ rằng đây không phải là việc của họ, xuất phát từ lợi ích của nền kinh tế Việt Nam.Cũng có ý kiến cho rằng sở dĩ Bộ Công Thương vẫn chưa cảm thấy sự cấp bách trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ vì họ thấy những công ty toàn cầu như Canon, hay Panasonic, hay Toyota, phải thu hẹp sản xuất, sa thải công nhân do suy thoái kinh tế, và họ chờ khi nào kinh tế phục hồi lại rồi mới tính tiếp. Nếu quả thực họ nghĩ như vậy thì quá thiển cận, bởi kinh tế thế giới rồi sẽ phục hồi, và lúc đó Việt Nam, nếu không chuẩn bị đón thời cơ mới, thì lại phải xuất phát từ đầu.Nếu càng nhanh chóng sản xuất được phụ tùng, phụ kiện, Việt Nam sẽ giảm được nhập siêu, thay vì trông chờ vào việc xuất tài nguyên, như đề án khai thác bauxite ở Tây Nguyên.Liệu bao giờ kế hoạch hành động này có thể được thông qua?Chúng tôi hy vọng là vào tháng 9 này. Tuy nhiên, trong quan niệm về công nghiệp hỗ trợ, giữa Nhật Bản và Việt Nam có khác biệt lớn.Trong mục lục ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ của từng lĩnh vực, Việt Nam đã quá tham khi liệt kê tất cả các hạng mục sản phẩm phụ trợ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sản xuất ôtô, họ đưa ra cả sản xuất động cơ vào công nghiệp phụ trợ, một điều khó khả thi, do sự phân công sản xuất trên toàn cầu.Sau khi đọc dự thảo nghị định trên, tôi đã phải nhờ đại diện JETRO ở Việt Nam hỏi các đồng nghiệp của ông tại Thái Lan, Indonesia và Malaysia, những nước mà Nhật Bản đã giúp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ từ rất lâu rồi, xem họ quan niệm về ngành công nghiệp này thế nào. Tuy nhiên, theo tôi được biết, họ không liệt kê chi tiết từng hạng mục như Việt Nam, mà phân chia theo cách thức sản xuất chẳng hạn đúc, rèn, dập, nhựa, tráng, mạ…Để có thể nhanh chóng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam cần phải làm ngay những gì?Về phía Bộ Công Thương, cơ quan chủ trì việc này, họ cần phải chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ, và nhanh chóng xây dựng bộ tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, kỹ năng, và chuyển giao công nghệ… Bởi trong chương trình hợp tác với Việt Nam phát triển công nghiệp hỗ trợ, người Nhật chúng tôi hoàn toàn không muốn công nghệ thấp lẫn vào.Theo tôi, điều này rất phù hợp với chiến lược thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao ở Việt Nam. Bởi muốn thu hút những nhà lắp ráp các sản phẩm công nghệ cao, nhất thiết cần phải có những doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất chi tiết, linh kiện ở trình độ công nghệ cao.Phía VCCI, một trong những cách thực hiện công nghiệp hỗ trợ một cách hữu hiệu với quá trình thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản là thành lập các hiệp hội ngành nghề đối với từng loại công nghiệp hỗ trợ, tương ứng với các hiệp hội ở Nhật Bản, và đặt quan hệ hợp tác trực tiếp.Huỳnh Phan (SGTT)
KT chưa cò gì rõ ràng cả mảđã có dấu hiệ lạm phát
handsome79
23-06-2009, 10:22 AM
KT chưa cò gì rõ ràng cả mả đã có dấu hiệ lạm phát
Lạm phát từ trình độ dân trí & lãnh đạo kém thôi ( .v.v.) .
Nếu nói kinh tế chưa có dấu hiệu rõ ràng là sai , nhất là với các công ty trên TTCK .
LNST của các công ty vẫn tốt trên TTCKVN, không tính các DN ngoài sàn , chưa OTC hay Upcom.
Hoạt động kinh doanh cải thiện .v.v.
stockwizard
27-06-2009, 08:00 AM
Tái hiện nỗi lo lạm phát
Mặc dù kinh tế 6 tháng đầu năm đã có những dấu hiệu
đáng mừng nhưng nhiều chuyên gia kinh tế vẫn cho rằng, cần thận trọng
khi đánh giá để tránh chủ quan, nhất là khi lạm phát đang có dấu hiệu
xuất hiện trở lại.
Le lói tia sáng sản xuất công nghiệp
Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan - khi nhận
định về khó khăn của kinh tế 6 tháng qua và triển vọng tới cuối năm -
đã cho rằng, cần chú ý tới hai lĩnh vực xuất khẩu và công nghiệp.
Theo số liệu công bố của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, kim
ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm khoảng 29,7 tỉ USD (riêng tháng 6
khoảng 5,9 tỉ USD, tăng 4,1% so với tháng 5). Trong khi đó, kim ngạch
xuất khẩu 6 tháng chỉ khoảng 27,6 tỉ USD. Như vậy, tháng 6 là tháng thứ
ba liên tiếp VN nhập siêu với tỉ lệ ngày càng tăng. Tính chung 6 tháng
đầu năm nay, mức nhập siêu đạt con số 2,1 tỉ USD (tháng 6 là gần 1 tỉ
USD), chiếm 7,6% kim ngạch xuất khẩu.
Đối với sản xuất công nghiệp, chuyên gia Fiachra Mac Cana - CTCK HSC (http://www.vietstock.com.vn/vstfinance/StockDetail.aspx?scode=HSC&q=HSC" style="color: rgb(23, 50, 128); text-decoration: underline;" target="_blank),
có mức dự báo tương đối lạc quan khi cho rằng, tới cuối năm, giá trị
sản xuất công nghiệp có thể đạt mức tăng trưởng 10% (trong khi dự báo
của Tổng cục Thống kê là 6,5%). Ông cho rằng, sản xuất công nghiệp
tháng 6 tiếp tục "phục hồi thận trọng".
Thống kê của ông Mac Cana cho thấy, giá trị sản xuất
công nghiệp mặc dù "âm" trong quý I nhưng đã có sự phục hồi trong quý
II với tốc độ tăng trưởng là 11,2%.
"Một tín hiệu rõ ràng cho thấy thời kỳ xấu nhất đã qua
đi", ông Mac Cana nhận định. Tính chung 6 tháng đầu năm, giá trị sản
xuất công nghiệp đạt 324,2 tỉ đồng, tăng 2,8%. Trong đó, tháng 6 đạt
58,3 tỉ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước. Nếu xét theo khu vực, giá
trị sản xuất của khu vực kinh tế nhà nước đạt 14,7 tỉ đồng trong tháng
6. Tuy nhiên, con số này tại khu vực kinh tế tư nhân lại có biểu hiện
yếu đi khi suy giảm tới 2,5% (đạt 20 tỉ đồng).
6 tháng cuối năm: Khó dự đoán
Mặc dù đã có những con số cụ thể cho thấy có những
diễn biến của kinh tế theo chiều hướng tích cực, nhưng ông Võ Trí Thành
- Viện phó Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, trong một hội
thảo tại VCCI về triển vọng kinh tế 6 tháng cuối năm và 2010 vẫn cho
rằng, kinh tế những tháng cuối năm rất khó dự báo.
TS Thành cho hay, ngay cả báo cáo của hai định chế tài
chính lớn là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và NH Thế giới (WB) cũng đưa ra
những dự báo không thống nhất về sự phục hồi của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, nguy cơ tái lạm phát, sự lành mạnh của hệ
thống tài chính NH, áp lực trên thị trường ngoại hối... vẫn còn khá cao
trong khi VN lại phải đảm bảo sản xuất kinh doanh và duy trì mục tiêu
tăng trưởng.
"Nếu thực hiện gói kích cầu quá mạnh, nới lỏng quá mức
thì lạm phát sẽ quay trở lại, nợ xấu NH và áp lực tỉ giá sẽ rất lớn,
song nếu chúng ta thắt chặt vội vàng, kinh tế chưa kịp đi lên lại rơi
sâu hơn vào khó khăn" - TS Võ Trí Thành nói.
Theo TS Nguyễn Đại Lai (NHNN), mặc dù "thời kỳ lạnh
lẽo" đã qua đi, nhưng các hiệu ứng lan tỏa cả tích cực và tiêu cực cơ
bản vẫn còn nguyên phía trước, vì hiệu quả đích thực của các gói giải
cứu kinh tế chưa tới "mùa thu hoạch".
Theo TS Lai, đến trung tuần tháng 6, lãi suất huy động
VND một số NHTM CP đã gần như đồng loạt điều chỉnh tăng dần đều đối với
các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên với các mức tăng từ 0,2-0,7%/năm. Điều
này cho thấy, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế đã bắt đầu xuất hiện. Tuy
nhiên, vì sao vốn trung và dài hạn lại thiếu?
Ông Lai cho rằng, điều này là do cầu về nguồn vốn
trung, dài hạn lớn hơn cung do nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi một cách dài
hạn không nhiều vì nguồn tiền đang tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn.
Ngoài ra, sức ép về lãi suất đang là kỳ vọng của các tổ chức tín dụng
do các dấu hiệu của lạm phát đã và đang xuất hiện.
Theo dự báo của TS Lai, mức tăng trưởng cả năm 2009
nếu duy trì ở mức không thể vượt quá, và/hoặc không thể thấp quá so
với mức 5,5% thì mới kìm được lạm phát, đồng thời mới có thể giữ được
tỉ giá và lãi suất ở mức chủ động kiểm soát và mang tính ổn định.
"Bốn chỉ số: Lãi suất, cung tiền, tỉ giá và lạm phát
phải được thường xuyên kiểm soát tốt thì các DN mới có môi trường tốt
để phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả" - TS Lai khẳng định.
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch -
Đầu tư), trong 6 tháng đầu năm, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã giải ngân được 4 tỉ USD (bằng 81,6% so với cùng kỳ 2008
và bằng 50% mục tiêu giải ngân 8 tỉ USD trong năm 2009). Trong đó, vốn
từ nước ngoài dự kiến 3,3 tỉ USD. Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước
ngoài 6 tháng dự kiến đạt 13,6 tỉ USD (3,3 tỉ USD là từ dầu thô). Nhập
khẩu của khu vực này dự kiến đạt 10,5 tỉ USD, chiếm 35% tổng nhập khẩu
cả nước.
Lưu Thủy
Lao động
Powered by vBulletin™ Copyright © 2025 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.