Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT
  • Thông báo


    + Trả lời Chủ đề
    Trang 2 của 4 Đầu tiênĐầu tiên 1 2 3 4 CuốiCuối
    Kết quả 21 đến 40 của 63

    Hybrid View

    1. #1
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Bài 14 - Xu hướng giá trong phân tích kỹ thuật

      Nhà phân tích kỹ thuật trên thị trường chứng khoán là những người có thể dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai bằng việc phát hiện ra xu hướng giá trong quá khứ. Biểu đồ phân tích kỹ thuật Kỹ thuật dùng biểu đồ phân tích kỹ thuật đã rất phổ biến từ cuối...
      Nhà phân tích kỹ thuật trên thị trường chứng khoán là những người có thể dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai bằng việc phát hiện ra xu hướng giá trong quá khứ.

      Biểu đồ phân tích kỹ thuật

      Kỹ thuật dùng biểu đồ phân tích kỹ thuật đã rất phổ biến từ cuối thế kỷ 19, do Charles H. Dow khởi xướng. Sau đó, quan điểm của ông đã trở thành "Lý thuyết Dow" ("Dow Theory"), cho rằng những biến động thị trường với mọi xu hướng đều có thể được dự đoán trước trên cơ sở biến động giá cổ phiếu trên các biểu đồ.

      Cơ sở của việc phân tích là tìm cách xác định giá của cổ phiếu trong tương lai bằng việc nhận diện và đo lường giá trị cổ phần. Các lý thuyết về phân tích kỹ thuật cho rằng, các hành vi thị trường trong quá khứ tự nó sẽ xác định giá tương lai.

      Biểu đồ phân tích kỹ thuật gồm hai trục biểu thị giá và thời gian. Mỗi một cổ phần, thị trường và chỉ số niêm yết trên bảng giao dịch đều được biểu thị bằng một biểu đồ minh hoạ sự biến động giá chứng khoán qua các thời kỳ; mỗi một đồ thị (đường) là tập hợp các điểm chỉ giá đóng cửa (closing price) ngày giao dịch. Đồng thời, có một sự liên hệ giữa giá mở cửa, giá đóng cửa, giá cao nhất / thấp nhất.

      Phân tích biểu đồ có thể được áp dụng cho từng chứng khoán riêng lẻ cũng như một danh mục đầu tư. Các nhà phân tích sử dụng kỹ năng nghiên cứu kỹ thuật các biểu đồ chỉ số để nhận định thị trường đang ở trạng thái "thị trường bò" hay "thị trường gấu". Với các biểu đồ, các nhà đầu tư có thể đưa ra đánh giá tương tự về công ty mà mình lựa chọn.



      Xu hướng

      Sử dụng biểu đồ để nhận diện xu hướng hiện tại: xu hướng phản ánh tỷ lệ biến đổi trung bình của giá cổ phiếu qua thời gian. Các xu hướng tồn tại trong mọi trạng thái thời gian và mọi thị trường. Các nhà đầu tư hàng ngày có thể xây dựng được xu hướng của cổ phiếu mà họ mua (bán) trong vòng vài phút. Về dài hạn, các nhà đầu tư quan sát các xu hướng tồn tại trong nhiều năm.

      Các xu hướng được phân loại: tăng, giảm, hoặc không đổi.

      Theo xu hướng tăng, một cổ phiếu hồi phục thường là với một giai đoạn "quá độ" giữa tính ổn định và những biến động giảm. Do vậy, nó sẽ hình thành lên hàng loạt những đỉnh cao hơn và đáy cao hơn trên biểu đồ cổ phiếu, và người ta dự đoán rằng, khả năng tăng giá cổ phiếu là có thể.

      Theo xu hướng giảm, một cổ phiếu suy yếu thường là với một giai đoạn "quá độ" giữa tính ổn định và biến động tăng. Do vậy, nó sẽ hình thành lên hàng loạt những đỉnh thấp hơn và đáy thấp hơn trên biểu đồ cổ phiếu, và người ta dự đoán rằng, khả năng giảm giá cổ phiếu là có thể.

      Xu hướng không đổi biểu thị bằng sự dao động lên xuống trong một thời gian dài giữa các giới hạn tăng giảm trực quan. Sự biến động giá trên biểu đồ là không rõ ràng và giá cổ phiếu sẽ không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng kể).

      Xu hướng có khả năng ổn định theo thời gian. Một cổ phiếu với xu hướng tăng (giảm) (về giá) sẽ tiếp tục tăng (giảm) cho đến khi có biến động về giá trị hoặc các trạng thái xảy ra. Người "đọc" biểu đồ phải định vị được các đỉnh và đáy - những điểm biểu thị sự chấm dứt khả năng hồi phục hay suy yếu. Lựa chọn tại một điểm gần đỉnh hoặc đáy có thể rất có lợi.

      Một châm ngôn nói rằng, "xu hướng là bạn của anh". Với các nhà kinh doanh và các nhà đầu tư, tuyên ngôn này có ý nghĩa là, bạn sẽ đạt thành công hơn nếu lựa chọn vị thế cổ phiếu theo xu hướng phổ biến, hơn là đi ngược lại với nó..

      Khối lượng

      Khối lượng cổ phiếu giao dịch đánh giá mức độ tham gia của các nhà đầu tư.

      Các biểu đồ cổ phiếu cho thấy khối lượng thông qua đồ thị hình cột dưới các ô giá. Thông thường trong các biểu đồ này, các đường màu xanh chỉ các ngày giá lên và những đường màu đỏ là những ngày giá xuống. Các nhà đầu tư và kinh doanh có thể đánh giá được lãi mua và bán bằng việc theo dõi số lần giá lên xuống trong một đường và mức độ biến động của chúng so với những ngày giá biến động theo chiều hướng ngược lại thì như thế nào.

      Cổ phiếu mua vào với lãi cao hơn khi bán ra được gọi là đang trong trạng thái “tích luỹ”, và ngược lại, trường hợp lãi khi bán ra cao hơn khi mua vào được gọi là đang trong quá trình “phân phối”. “Tích luỹ” và “phân phối” thường dẫn tới sự biến động của giá cả. Hay nói cách khác, các cổ phiếu đang trong trạng thái tích luỹ thường sẽ tăng giá chỉ một thời gian ngắn sau khi hành vi mua bắt đầu. Và ngược lại, những cổ phiếu đang được lưu thông thường rớt giá một thời gian sau khi bán ra.

      Một cổ phiếu có thể hồi phục được hay không đòi hỏi sự tham gia “nhiệt tình” của các nhà đầu tư. Khi sự hồi phục của một cổ phiếu không hấp dẫn được các nhà đầu tư mới thì nó sẽ rất dễ rớt giá. Các nhà đầu tư và kinh doanh sử dụng các tiêu chí như trạng thái cân bằng khối lượng để đánh giá số lượng người tham gia đang chậm lại hay tiến triển nhanh hơn các động thái của giá cả.

      Các cổ phiếu giao dịch thường ngày với một khối lượng trung bình. Khối lượng này có thể xác định được tính lỏng của các cổ phiếu đó. Nhà kinh doanh có thể rất dễ dàng mua và bán các cổ phiếu có tính lỏng cao. Những cổ phiếu không có tính lỏng cao đòi hỏi chi phí giao dịch rất lớn và thường không thể nhanh chóng loại bỏ ra khỏi một danh mục đầu tư. Những phép phân tích biểu đồ cổ phiếu không thể áp dụng cho cổ phiếu không có tính lỏng cao.

      Việc giá cổ phiếu gia tăng đột biến kéo theo một khối lượng giao dịch cao hơn rất nhiều so với mức trung bình là có lợi cho sự tiếp tục biến động của giá cổ phiếu theo chiều hướng đó. Nhưng sau một thời gian dài tăng giảm, các cổ phiếu thường có một ngày có khối lượng giao dịch rất lớn, đạt mức đỉnh điểm. Trong những ngày này, người mua, hoặc người bán cuối cùng sẽ là những người được lợi nhất. Sau đó, giá trị của cổ phiếu đó sẽ thay dổi theo chiều hướng ngược lại vì sẽ không còn có đủ lượng người tham gia giao dịch để làm cho giá biến chuyển theo chiều hướng đó...

      Mô hình và chỉ số

      Làm thế nào bạn có thể biến những đường vô tận biểu thị các dữ liệu trên biểu đồ thành một dạng logic mà không cần sự can thiệp của các thao tác kỹ thuật ? Các biểu đồ cho phép các nhà đầu tư và kinh doanh nhận biết hành vi giá cả thị trường cả trong quá khứ và hiện tại để làm cơ sở hợp lý cho việc dự báo cũng như đưa ra các quyết định khôn ngoan. Nó gần giống như công cụ trực giác, trái ngược với quan điểm của các nhà phân tích giá trị.

      Biểu đồ cổ phiếu có khả năng tác động tới các chức năng của cả hai bán cầu não về tư duy logic và tính sáng tạo. Quan điểm này đã gây tranh cãi trong giới phân tích đầu tư trong suốt thế kỷ qua.

      Dạng "nguyên thuỷ" của việc đọc các biểu đồ là phân tích mô hình. Phương thức này khá phổ biến qua các lý thuyết của Charles Dow và cuốn Technical of Stock Trends (viết ngay sau Chiến tranh thế giới II). Dạng hiện đại hơn là phân tích chỉ số, một phương pháp khảo sát sử dụng các công cụ toán học trong đó các yếu tố cơ bản của giá và số lượng được xem xét thông qua một loạt các phép tính nhằm dự đoán mức tăng giảm tiếp theo của giá cả.

      Phép phân tích mô hình có độ chính xác cao do các đồ thị có xu hướng lặp đi lặp lại sự hình thành các đường. Những mô hình này từ lâu đã được phân loại thành khuynh hướng đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống. Có một số mô hình được nhiều người biết đến như Đầu và Vai (HEAD and SHOULDERS), Tam giác (TRIANGLES), Hình chữ nhật (RECTANGLES), Hai đỉnh (DOUBLE TOPS), Hai đáy (DOUBLE BOTTOMS), và Hình cờ (FLAGS). Hơn nữa, các chi tiết của đồ thị như các khe hở giá (GAPS) và đường chỉ xu hướng (TRENDLINES) được coi là có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình diễn biến tiếp theo của giá.

      Phép phân tích chỉ số sử dụng các phép tính toán học để đánh giá mối quan hệ giữa tình hình diễn biến giá ở thời điểm hiện tại với quá khứ. Hầu hết các chỉ số có thể được phân chia thành các nhóm theo khuynh hướng và giao động. Các chỉ số theo khuynh hướng phổ biến là các chỉ số trung bình biến đổi (MOVING AVERAGES), khối lượng cân bằng (ON BALANCE VOLUME) và MACD. Chỉ số giao động thông thường bao gồm STOCHASTICS, RSI và tỷ lệ thay đổi (RATE OF CHANGE). Chỉ số theo xu hướng thường phản ứng chậm hơn so với chỉ số giao động. Các chỉ số này đi sâu vào phân tích quá khứ để dự đoán tương lai. Chỉ số giao động nhạy cảm hơn với các thay đổi giá cả trong ngắn hạn, giao động qua lại giữa mức OVERBOUGHT và OVERSOLD.

      Cả hai phương pháp mô hình và chỉ số đều có thể đánh giá được tâm lý thị trường. Các nhà đầu tư và giao dịch trên thị trường hằng ngày có xu hướng hành động theo tâm lý chung khi giá cả biến động. Họ có khuynh hướng bộc lộ các đặc tính cố hữu mà lặp đi lặp lại nhiều lần. Việc giải thích rõ biểu đồ có sử dụng hai công cụ phân tích kỹ thuật quan trọng này đã cho thấy những chấn động tâm lý trong giới đầu tư mà rốt cục thì cũng có thể hiểu được là do sự biến động của giá cả.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    2. Những thành viên sau đã cám ơn :
      tigeran (14-08-2013)

    3. #2
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Chỉ số dao động Stochastic trong phân tích kỹ thuật

      Chỉ số dao động Stochastic cho ta so sánh giá một chứng khoán đóng cửa với khoảng giá của nó trong một thời gian xác định. Chỉ số dao động Stochastic được thể hiện thành 2 đường. Đường chính được gọi là “%K”. Đường thứ hai được gọi là “%D” là trung bình trượt của “%K”. ...
      Tổng quan

      Chỉ số dao động Stochastic cho ta so sánh giá một chứng khoán đóng cửa với khoảng giá của nó trong một thời gian xác định.

      Giải thích

      Chỉ số dao động Stochastic trong phân tích kỹ thuật được thể hiện thành 2 đường. Đường chính được gọi là “%K”. Đường thứ hai được gọi là “%D” là trung bình trượt của “%K”.

      Có một số cách để giải nghĩa chỉ báo Stochastic. Ba phương pháp phổ biến là:

      1.Mua khi Stochastic (cả %K hoặc %D) xuống dưới một mức nhất định (ví dụ:20) và rồi tăng lên trên mức đó. Bán khi Stochastic tăng lên trên một mức nhất định (ví dụ: 80) và rồi rơi xuống dưới mức đó.


      2.Mua khi đường %K lên trên đường %D và bán khi đường %K rơi xuống dưới đường %D.


      3.Tìm kiếm các phân kì. Ví dụ, khi giá đang hình thành các mức giá cao mới trong khi Stochastic đang rơi xuống thấp hơn, báo hiệu sắp có khả năng đảo chiều giảm gía.

      Ví dụ

      Đồ thị dưới đây là KDC và chỉ số dao động Stochastic 14 ngày của nó.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/stochastic.jpg[/IMG]

      Mũi tên “mua” được vẽ ra khi đường %K đi xuống dưới và rồi lên trên mức 20. Tương tự, mũi tên “bán” được vẽ ra khi đường %K lên trên và rồi lại xuống dưới mức 80.

      Tính toán

      Chỉ số dao động Stochastic có 4 biến:
      1.Các thời kì %K.


      Đây là số thời kì thời gian được sử dụng trong cách tính Stochastic.

      2.Các thời kì chậm %K .


      Giá trị này kiểm soát quá trình làm trơn của %K. Giá trị 1 được thừa nhận là Stochastic nhanh và giá trị 3 được thừa nhận là Stochastic chậm.

      3.Các thời kì %D.


      Đây là số các thời kì được sử dụng khi tính trung bình trượt của %K. Trung bình trượt được gọi là “%D” và được vẽ ngay trên đồ thị của %K.

      4.Phương pháp tính %D.


      Phương pháp (ví dụ: mũ, giản đơn, theo chuỗi thời gian, tam giác, biến đổi, hoặc tỷ trọng) được sử dụng để tính %D.
      Công thức tính %K là:



      Ví dụ, để tính %K 10 ngày, đầu tiên phải tìm ra giá cao nhất và giá thấp nhất trong vòng 10 ngày của chứng khoán. Vì là ví dụ, sẽ giả định rằng trong 10 ngày mức giá cao nhất là 46 và mức giá thấp nhất là 38 - khoảng giá là 8 điểm. Nếu giá đóng cửa ngày hôm nay là 41, %K được tính là:



      37.5% trong ví dụ cho biết rằng giá đóng cửa ngày hôm nay ở mức 37.5% trong khoảng giao dịch của chứng khoán trong 10 ngày. Nếu giá đóng cửa hôm nay là 42, chỉ báo Stochastic sẽ là 50%. Điều này có nghĩa là chứng khoán đóng cửa hôm nay ở 50% hoặc là điểm giữa của khoảng giao dịch 10 ngày.

      Ví dụ trên sử dụng %K chậm của 1 ngày (tức là không chậm). Nếu bạn sử dụng giá trị lớn hơn 1, bạn sẽ tìm giá trị trung bình của giá cao nhất và giá thấp nhất trong khoảng thời kì của %K chậm trước khi thực hiện phép chia.

      Trung bình trượt của %K rồi được tính bằng cách sử dụng số thời kì xác định trong các thời kì %D. Trung bình trượt được gọi là %D.

      Chỉ báo Stochastic thường giao động trong khoảng 0 đến 100. Giá trị của 0% cho thấy rằng giá đóng cửa của chứng khoán là mức giá thấp nhất mà chứng khoán đã giao dịch trong x- thời kì trước đó. Giá trị 100% cho thấy rằng chứng khoán đóng cửa ở mức giá cao nhất mà chứng khoán đó đã giao dịch trong x- thời kì trước đó.

    4. #3
      Ngày tham gia
      Oct 2012
      Bài viết
      12
      Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi

      Mặc định

      Bài viết hay lắm ! Thanks nha

    5. #4
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Bài 15 - Biểu đồ giá và Support (hỗ trợ), Resistance (kháng cự) trong phân tích kỹ thuật

      Xác lập giá Có 2 phương pháp để biểu diễn mức giá dọc theo trục y (trục tung) là: arithmetic (số học) và logarithmic (thuộc hàm log). Cách arithmetic biểu diễn 10 điểm cách đều nhau trên đường chéo cho dù mức giá có khác nhau. Mỗi đơn vị đo đều như nhau...

      Xác lập giá


      Có 2 phương pháp để biểu diễn mức giá dọc theo trục y (trục tung) là: arithmetic (số học) và logarithmic (thuộc hàm log). Cách arithmetic biểu diễn 10 điểm cách đều nhau trên đường chéo cho dù mức giá có khác nhau. Mỗi đơn vị đo đều như nhau. Nếu giá cổ phần tăng từ 10 lên 80 sau 6 tháng thì sẽ xuất hiện sự dịch chuyển từ 10 lên 20 và sự dịch chuyển này cũng tương đương với sự dịch chuyển từ 70 lên 80. Tuy nhiên sự chuyển dịch trên không tương đương về phần trăm.

      Cách logarithmic đo sự tăng giảm của giá cả theo phần trăm. Tăng từ 10 lên 20 nghĩa là tăng 100%. Cũng thế với bước tăng từ 20 lên 40 và từ 40 lên 80. Cả 3 sự dịch chuyển trên có khoảng cách trên đường chéo như nhau . Hầu hết các chương trình về biểu đồ cho rằng dạng logarithmic là dạng semi-log, vì trục thời gian vẫn được biểu diễn theo kiểu số học.

      Biểu đồ trên minh họa cho sự khác nhau của 2 dạng. Ở dạng semi-log, khoảng cách giữa 50 và 100 cũng bằng khoảng cách giữa 100 và 200. Còn đối với dạng arithmetic thì khoảng cách giữa 100 và 200 lớn hơn nhiều so với 50 và 100.

      Ưu điểm của 2 dạng biểu diễn trên:
      -Dạng arithmetic hữu ích khi biên độ giá tương đối hẹp.
      - Dạng arithmetic hữu ích để biểu diễn những biểu đồ và những giao dịch trong thời gian ngắn. Sự chuyển dịch giá(đặc biệt là giá cổ phần) được biểu diễn tuyệt đối và phản ánh sư chyển dịch của dollar với dollar.
      -Dạng semi-log hữu ích khi giá cả tăng giảm mạnh, vượt hoặc mở rộng khung thời gian.
      -Các đường biểu diễn không quá chênh lệch trong dạng semi-log.
      -Dạng semi-log hợp cho những biểu đồ có thời gian dài để dự đoán mức tăng phần trăm sau 1 khoảng thời gian dài. Những dịch chuyển lớn trở nên cân đối hơn.
      -Cổ phần và tài sản thế chấp được đánh giá tương đối qua việc dùng các tỷ lệ như PE, giá/thu nhập, giá/sổ thu chi. Điều này cũng giúp phân tích sự chuyển dịch giá theo phần trăm 1 cách hợp lý.

      Kết luận

      Cho dù có nhiều kỹ thuật khác nhau về biểu đồ thì không hẳn một phương pháp sẽ tốt hơn phương pháp khác. Dữ liệu có thể giống nhau nhưng mỗi phương pháp có cách trình bày riêng với những ưu và khuyết điểm khác nhau. Mức giá của tài sản thế chấp đươc trình bày thế nào, biểu đồ thanh hay biểu đồ candlestick, biểu diễn dạng arithmetic hay semi-log không phải là yếu tố quan trọng nhất. Và cuối cùng, dữ liệu thì luôn giống nhau và sự biến động giá vẫn là sự biến động giá. Khi tất cả được nói và làm, kỹ năng phân tích sự biến động giá là yếu tố phân loại nhà đánh giá có thành công hay không. Lựa chọn sử dụng biểu đồ nào còn phụ thuộc vào sở thích cá nhân và cách giao dịch hay đầu tư riêng của mỗi người. Môt khi bạn đã chọn được dạng biểu đồ thì nên kèm theo đó nhũng dự đoán và học cách tốt nhất để dự đoán. Đổi đi đổi lại có thể gây ra xáo trộn và không làm rõ đượctrọng tâm của bài phân tích. Lỗi phân tích hiếm khi gây ra bởi biểu đồ. Do đó nên xem lại bài phân tích trước khi đổ lỗi cho biểu đồ.

      Chìa khóa để phân tích biểu đồ là quyết tâm, đặt trọng tâm và sự thống nhất:
      -Quyết tâm: Học những điều cơ bản về phân tích biểu đồ, ứng dụng kiến thức đã học thường xuyên.
      -Trọng tâm: Giới hạn số lượng biểu đồ, dấu hiệu và cách thức thực hiện của bạn. Học cách sư dụng chúng và cách sử dụng chúng cho thật tốt.
      -Sự thống nhất: Duy trì những dạng biểu đồ bạn dùng và nghiên cứu chúng thường xuyên(nghiên cứu mỗi ngày nếu có thể).

      Support and Resistance

      Support và resistance đại diện quan trọng cho mối quan hệ giữa cung và cầu. Trên thị trường tài chính, giá cả phụ thuộc vào sự tăng giảm của cung và cầu. Cung tăng đồng nghĩa với xu hướng giảm, kì vọng giá giảm và việc bán. Cầu tăng đồng nghĩa với xu hướng tăng , kì vọng giá tăng và việc mua. Những từ này được dùng với ý nghĩa như nhau. Khi nhu cầu tăng giá sẽ tăng còn khi cung tăng thì giá sẽ giảm. Khi cung và cầu đạt mức cân bằng thì giá sẽ ổn định.

      Support là gì?

      Support là mức giá mà tại đó người ta cho rằng nhu cầu đủ nhiều để mức giá không giảm mạnh. Khi giá giảm đến mức support hoặc rẻ hơn nữa thì người mua sẽ có khuynh hướng mua tiếp và ngược lại người bán sẽ không bán. Trước khi giá giảm tới mức support, hiện tuợng cầu vượt quá cung xuất hiện và hiện tuợng này sẽ ngăn giá giảm xuống dưới mức support.



      Support không phải luôn ở mức ổn định và việc mức support giảmbáo hiệu cung vượt quá cầu. Khi đó người ta có xu hướng bán nhiều hơn mua. Mức support bị phá vỡ và mức support mới thấp hơn dự báo người bán đang mất hy vọng và họ sẵn sàng bán với giá thấp. Thêm vào đó, người mua sẽ không mua cho đến khi giá giảm dưới support hoặc giảm so với mức trước đó. Khi mức support bị phá vỡ, 1 mức support khác thấp hơn sẽ được thiết lập.

      Mức support được thiết lập căn cứ vào đâu?

      Mức support thường thấp hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường sẽ an toàn nếu giao dịch gần mức support hoặc tại mức support. Kỹ năng phân tích không phải là ngành nghiên cứu chính xác và đôi khi rất khó xác định mức support chính xác. Hơn nữa, sự chuyển dịch giá có thể đột biến và tụt xuống dưới mức support 1 cách đột ngột. Đôi khi không hợp lý khi cho rằng mức support bị phá vỡ nếu giá giảm gần 1/8 so với mức support. Vì lý do này nhiều nhà giao dịch và đầu tư đã tạo ra vùng support.

      Resistance là gì?

      Resistance là mức giá mà tại đó người ta cho rằng việc bán ra đủ nhiều để giữ giá không tăng mạnh. Khi giá tăng đến mức resistance thì người bán có khuynh hướng tiếp tục bán và người mua thường dừng lại. Trước khi gía chạm tới mức resistance thì cung sẽ vượt quá cầu, ngăn giá tăng trên mức resistance.



      Resistance thường không giữ nguyên và mức resistance bị phá vỡ dự báo cầu vượt quá cung. Việc mức resistance bị phá vỡ cho thấy người ta mua nhiều hơn bán. Mức resistance bị phá vỡ và mức resistance mới cao hơn cho thấy người mua sẵn sàng mua ngay cả với giá cao. Hơn nữa, người bán sẽ không bán cho đến khi giá tăng trên mức resistance hoặc tăng hơn trước đó. Khi mức resistance bị phá vỡ thì 1 mức resistance mới cao hơn sẽ được thiết lập.

      Mức resistance được thiết lập căn cứ vào đâu?

      Mức resistance thường cao hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường giao dịch tại mức resistance hoặc gần mức này là an toàn. Thêm vào đó, sự chuyển dịch giá có thể đột biến và tăng trên mức resistance 1 cách đột ngột. Đôi khi thật bất hợp lý khi cho rằng mức resistance bị phá vỡ nếu giá tăng gần 1/8 so với mức resistance được thiết lập. Vì vậy nhiều nhà giao dịch và đầu tư thường lập nên vùng resistance.

      Phương pháp nào để thiết lập support và resistance?

      Support và resistance giống như những hình ảnh phản chiếu trong gương và có nhiều điểm chung.

      Mức cao và mức thấp

      Support có thể được thiết lập dựa vào mức thấp trước đó và tương tự, resistance có thể được tạo bởi mức cao trước đó.



      Biểu đồ trên biểu diễn phạm vi giao dịch rộng từ tháng 7-99 đến tháng 4-2000. Support được tạo nên bởi mức thấp tháng 10 gần mức 33. vào tháng 12, giá cổ phần quay lại mức support vào khoảng 33-35 và mức thấp là gần 34. Cuối cùng vào tháng 2 giá cổ phần 1 lần nữa quay lại mức support và mức thấp là gần 33 1/2.

      Sau mỗi lần mức support dội lên, giá giao dịch cổ phần lại tăng lên mức resistance. Mức resistance ban đầu được tạo nên từ mức support là 42.5 đã bị phá vỡ ở tháng 9. Sau khi mức support bị phá vỡ thì nó trở thành mức resistance. Từ mức thấp của tháng 10, giá cổ phần tăng đến mức resistance mới (mà trước đó là mức support) khoảng gần 42.5. Khi giá cổ phần không vượt qua 42.5 thì lúc đó mưc resistance được xác định. Giá cổ phần sau đó tăng đến mức 42.5 hai lần nữa rồi lại giảm dưới mức resistance hai lần.

      Support = Resistance

      Một điều cơ bản của kỹ năng phân tích kỹ thuật là mức support có thể chuyển thành mức resistance. Khi giá giảm dưới mức support thì mức support ấy có thể trở thành mức resistance. Mức support bị phá vỡ báo hiệu cung vượt qua cầu. Do đó, nếu giá quay trở lại mức này thì cung có thể sẽ tăng.
      Ngược lại mức resistance cũng có thể sẽ chuyển thành mức support. Khi giá vượt qua mức resistance, có thể sẽ xuất hiện sự thay đổi của cung và cầu. Việc mức resistance bị phá vỡ chứng tỏ cầu đã vượt quá cung. Nếu giá quay trở lại mức này, có thể cầu sẽ tăng và mức support có thể được xác định.



      Trong biểu đồ trên, giá cổ phần phá vỡ mức resistance là 935 ở tháng 5-97 và vượt trên mức resistance trong hơn 1 tháng sau. Sau lần thứ 2 mức support là 935, mức giá này được thiết lập.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    6. Những thành viên sau đã cám ơn :
      tigeran (14-08-2013)

    7. #5
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Xu hướng thị trường trong phân tích kỹ thuật - Phần 1

      Xu hướng thị trường trong phân tích kỹ thuật là chiều hướng của thị trường, là con đường mà thị trường đang di chuyển. ...

      TỔNG QUAN VỀ XU HƯỚNG THỊ TRƯỜNG

      Trong các cẩm nang đầu tư và giao dịch chứng khoán chúng ta thường được lĩnh hội các chỉ dẫn cơ bản:

      - Nên giao dịch theo xu hướng thị trường.
      - Tránh giao dịch ngược xu hướng.
      - Xu hướng thị trường luôn là người bạn của chúng ta.

      Vì vậy, nội dung xu hướng thị trường có một tầm quan trọng đặc biệt trong phương pháp Phân tích kỹ thuật và là yếu tố cực kỳ cần thiết để phân tích thị trường.

      Khi phân tích thị trường bằng các đồ thị giá và mô hình giá, chúng ta thường sử dụng:

      - Đường xu hướng, kênh và đường kênh.
      - Các mức hỗ trợ và kháng cự.
      - Các mô hình biến động giá.
      - Các chỉ số: trung bình động.

      đều nhằm mục đích duy nhất: xác định và đánh giá xu hướng thị trường.

      ĐỊNH NGHĨA:

      Xu hướng là chiều hướng của thị trường, là con đường mà thị trường đang di chuyển.

      PHÂN LOẠI:

      Theo thời gian, giá cả một cổ phiếu biến động liên tục trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Vì vậy, có nhiều cách phân loại khác nhau: theo sự biến động giá và theo thời gian.

      A. Phân loại theo biến động giá:

      Về tổng quát, sự biến động giá trong một giai đoạn nhất định gồm hai phần chính: dập dềnh và có xu hướng (tăng hoặc giảm) cụ thể:

      1. Xu hướng dập dềnh (còn gọi: không đổi, không xu hướng)

      Giá cổ phiếu không thực sự tăng/giảm. Giá cổ phiếu luôn xoay quanh một mức giá cố định. Các đỉnh và các đáy nằm ngang, biểu hiện thị trường đang đứng giá hoặc giá thay đổi rất ít.

      Chú ý:

      Mỗi giai đoạn dập dềnh đều có hai giá trị, coi như hai ngưỡng: "hỗ trợ và kháng cự". Hai mức chống đỡ và kháng cự là phạm vi biến động giá của biến động dập dềnh. Nên nắm vững các đặc điểm kể trên vì sau này khi nghiên cứu các chỉ số Phân tích kỹ thuật ta sẽ thấy có những chỉ số không thể áp dụng được với thị trường dập dềnh.

      2. Xu hướng tăng:

      Gồm một chuỗi các đỉnh và các đáy liên tục cao hơn. Biểu hiện thị trường đang tăng giá.

      3. Xu hướng giảm:

      Gồm một chuỗi các đỉnh và các đáy liên tục thấp hơn. Biểu hiện thị trường đang giảm giá.

      B. Phân loại theo thời gian:

      1. Xu hướng chính (còn gọi: dài hạn): Thường kéo dài hơn một năm.
      2. Xu hướng trung gian (còn gọi: trung hạn): Thường từ ba tuần đến vài tháng.
      3. Xu hướng ngắn hạn: Thường kéo dài vài ba tuần.

    8. #6
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Lý thuyết sóng Elliott (Elliott Wave)

      Trở lại thập kỷ 1920 – 1930, có một thiên tài điên khùng tên là Ralph Nelson Elliott người đã khám phá ra là thị trường chứng khoán thực sự không biến động một cách hỗn loạn. Thị trường giao dịch theo các vòng lặp đi lặp lại. Elliot đã giải thích là do các thay đổi lên và xuống của tâm lý mọi người luôn luôn thể hiện theo các mẫu lặp đi lặp lại giống nhau, điều này được chia thành các mẫu gọi là sóng (wave). Elliot đã đưa ra một nguyên lý gọi là “Thuyết sóng Elliot”....
      Trở lại thập kỷ 1920 – 1930, có một thiên tài điên khùng tên là Ralph Nelson Elliott người đã khám phá ra là thị trường chứng khoán thực sự không biến động một cách hỗn loạn.

      Thị trường giao dịch theo các vòng lặp đi lặp lại. Elliot đã giải thích là do các thay đổi lên và xuống của tâm lý mọi người luôn luôn thể hiện theo các mẫu lặp đi lặp lại giống nhau, điều này được chia thành các mẫu gọi là sóng (wave). Elliot đã đưa ra một nguyên lý gọi là “Thuyết sóng Elliot”.

      The 5 – 3 Wave Patterns (Mẫu sóng 5-3)

      Ông Elliot đã chỉ ra rằng một thị trường biến động dưới dạng gọi là “mẫu sóng 5-3”. Mẫu 5-wave đầu tiên được gọi là sóng tới (impulse waves) và mẫu 3-wave sau đó được gọi là sóng lui (corrective waves).

      Trước tiên hãy nhìn mẫu sóng tới 5-wave :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%201.jpg[/IMG]

      Có vẻ như có gì đó lộn xộn. Hãy thêm màu cho hình vẽ :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%202.jpg[/IMG]

      Bây giờ mỗi bước đếm của sóng đã được tô màu khác nhau.

      Đây là một mô tả ngắn gọn cho biết điều gì diễn ra trong mỗi pha sóng. Tôi sẽ sử dụng chứng khoán để làm ví dụ bởi vì Ông Elliott đã sử dụng chứng khoán. Điều này vẫn đúng với tiền tệ, kỳ phiếu, vàng, dầu … Điều quan trọng là Thuyết sóng Elliott vẫn đúng đối với forex.

      Wave 1 (Sóng – 1)

      Chứng khoán tăng lần đầu tiên. Điều này thường là do một lượng khá nhỏ người bất ngờ nghĩ rằng giá trước đó của chứng khoán là một món hời và đáng để mua, khi họ thực hiện mua và đã tạo nên giá tăng.

      Wave 2 (Sóng – 2)

      Chứng khoán được quan tâm đánh giá quá cao. Tại điểm này đã đủ lượng người đánh giá cao chứng khoán trong pha sóng ban đầu và người ta bắt đầu thu lợi bằng cách bán ra. Điều này làm cho chứng khoán đi xuống. Tuy nhiên, chứng khoán không đạt trở lại mức thấp trước đó trước khi chứng khoán một lần nữa được nghĩ là rẻ.

      Wave 3 (Sóng – 3)

      Đây là pha sóng dài nhất và mạnh nhất. Nhiều người đã để ý đến chứng khoán, nhiều người muốn chứng khoán và họ mua nó với giá ngày càng cao. Pha sóng này thường vượt qua đỉnh cuối cùng của pha sóng thứ nhất.

      Wave 4 (Sóng – 4)

      Tại điểm này người ta một lần nữa thu lợi bởi vì chứng khoán một lần nữa được xem như giá cao. Pha sóng này có xu hướng yếu bởi vì thường vẫn có nhiều người tiếp tục đầu cơ chứng khoán và sau khi một số người thu lợi pha sóng thứ 5 xuất hiện.

      Wave 5 (Sóng – 5)

      Đây là thời điểm nhiều người quan tâm đến chứng khoán nhất và hầu hết bị ảnh hưởng bởi tâm lý. Mọi người sẽ nghĩ ra nhiều lý do để mua chứng khoán và sẽ không lắng nghe các lời khuyên ngăn cản. Đây là thời điểm giá chứng khoàn tăng cao nhất. Tại thời điểm này sẽ có sự kháng cự và mọi người bắt đầu bán và giá chứng khoán chuyển sang mẫu ABC.

      ABC Correction (Điều chỉnh ABC)

      Xu hướng sóng tới (5-wave) sau đó giảm và đảo chiều sang xu hướng sóng lui (3-wave). Các ký tự được sử dụng thay thế cho số để đánh dấu. Xem ví dụ về sóng lui (3-wave) bên dưới :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%203.jpg[/IMG]

      Chúng ta sử dụng thị trường tăng giá (Bull market) là ví dụ, điều này không có nghĩa là thuyết sóng Elliot không đúng đối với thị trường giảm giá (Bear market). Đối với thị trường giảm giá, mẫu sóng 5-3 có dạng như sau :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%204.jpg[/IMG]

      Các pha sóng phụ trong một sóng :

      Một điều quan trọng khác mà bạn phải biết về thuyết sóng Elliot là một sóng được tạo bởi các sóng phụ (sub-wave). Hãy để tôi chỉ cho bạn một hình khác.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%205.jpg[/IMG]

      Bạn có thấy cách sóng-1 được tạo bởi một mẫu sóng tới (5-wave) nhỏ hơn và sóng 2 được tạo bởi một mẫu sóng lui (3-wave) nhỏ hơn? Mỗi sóng gồm các mẫu sóng nhỏ hơn

      Hãy xem một ví dụ thật tế :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%206.jpg[/IMG]

      Như bạn thấy, các pha sóng trong thực thế không hoàn toàn giống như trong lý thuyết và đôi khi rất khó để đặt tên cho các pha sóng.

      Đó là tất cả những gì bạn cần biết về Thuyết Sóng Elliot. Hãy nhớ rằng thì trường biến động theo các pha sóng. Bây giờ khi bạn nghe một ai nói rằng “sóng 2 kết thúc” thì bạn sẽ biết anh ta đang nói về cái gì

      Tóm tắt :

      Theo Thuyết Sóng Elliot, thị trường biến động theo các mẫu lặp lại gọi là sóng
      Một thị trường có xu hướng biến động theo mẫu sóng 5-3. Mẫu 5-wave đầu tiên gọi là sóng tới (impulse-wave). Mẫu 3-wave tiếp theo gọi là sóng lui (corrective wave)
      Nếu bạn cố gằng xem một đồ thị bạn sẽ thấy là thị trường thật sự biến động theo sóng.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    9. #7
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Bài 16 - Các hình mẫu phân tích kỹ thuật (Chart Patterns) - Phần 7

      Mẫu Tweezer Top là 1 mẫu nến đảo chiều giảm giá thường thấy ở đỉnh của một xu hướng tăng giá, và mẫu Tweezer Bottom là 1 mẫu nến đảo chiều tăng giá thường thấy ở đáy của 1 xu hướng giảm giá....

      Mô hình Tweezer Top và Tweezer Bottom


      Mẫu Tweezer Top là 1 mẫu nến đảo chiều giảm giá thường thấy ở đỉnh của một xu hướng tăng giá, và mẫu Tweezer Bottom là 1 mẫu nến đảo chiều tăng giá thường thấy ở đáy của 1 xu hướng giảm giá.

      Mẫu Tweezer Top bao gồm 2 nến:

      * Nến tăng (ngày thứ 1)
      * Nến giảm (ngày thứ 2)

      Mẫu Tweezer Bottom bao gồm 2 nến:

      * Nến giảm (ngày thứ 1)
      * Nến tăng (ngày thứ 2)

      Thỉnh thoảng Tweezer Top và Tweezer Bottom cũng có dạng 3 nến.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/Tweezers1.jpg[/IMG]

      Mẫu giảm giá Tweezer Top xảy ra trong xu hướng tăng giá. Khi sự tăng giá đẩy đường giá lên cao, thông thường giá đóng cửa nằm gần với vùng giá cao nhất trong ngày (đây là dấu hiệu tăng giá). Tuy nhiên ở ngày thứ 2, nhà đầu tư đã thay đổi ý kiến hoàn toàn trái ngược. Sau khi thị trường mở cửa (ngang bằng với giá đóng cửa ngày hôm trước) thì sự giảm giá xuất hiện đã đẩy giá xuống thẳng đứng và lấy đi những lợi nhuận do tăng giá của ngày hôm trước.

      Ngược lại, mẫu tăng giá Tweezer Bottom xảy ra trong xu hướng giảm giá. Khi sự giảm giá tiếp tục đẩy đường giá xuống mức thấp hơn, thông thường mức giá đóng cửa ở gần với vùng giá thấp nhất trong ngày (dấu hiệu giảm giá). Tuy nhiên ngày thứ 2 thì trái ngược hoàn toàn bởi sự tăng giá đã xuất hiện sau khi mở cửa thị trường, nó đã lấp đầy những mất mát của ngày hôm trước gây ra.

      Ví dụ minh hoạ:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/Tweezers2..jpg[/IMG]

      Xu hướng giảm giá trước đó đã tiếp tục đẩy đường giá xuống ở ngày thứ 1. Tuy nhiên, thị trường mở cửa ở ngày thứ 2 tại mức giá đóng cửa của ngày thứ 1 và sau đó đường giá được đẩy lên cao tương đương với sự mất mát của ngày hôm trước. Thông thường thì tín hiệu mua sẽ xuất hiện sau khi mẫu Tweezer Bottom đã hoàn thành. Ta cũng nên xem xét thêm những dấu hiệu của các chỉ báo thị trường khác để xác nhận tín hiệu mua trên.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    10. Những thành viên sau đã cám ơn :
      tigeran (14-08-2013)

    11. #8
      Ngày tham gia
      Aug 2010
      Bài viết
      648
      Được cám ơn 325 lần trong 218 bài gởi

      Mặc định 10 Quy tắc vàng của bậc thầy Phân tích kỹ thuật John Murphy

      John Murphy được xem là một trong những bậc thầy về phân tích kỹ thuật hiện nay của thế giới.
      John Murphy còn là tác giả nổi tiếng chuyên viết về các đề tài phân tích kỹ thuật, với các tác phẩm bán chạy (best seller) như Technical of the Financial Markets, Trading with Intermarket , và The Visual Investor.


      Ông hiện là Giám đốc Phân tích Kỹ thuật (Chief Technical Analyst) của StockCharts.com

      10 quy tắc vàng trong giao dịch dưới đây của John Murphy đã trở nên nổi tiếng trong giới trader trên toàn thế giới.

      1. Phân tích biểu đồ dài hạn để có bức tranh toàn cảnh về xu hướng thị trường. Hãy bắt đầu phân tích với biểu đồ tháng và biểu đồ tuần trong vài năm liên tục.

      Bức tranh toàn cảnh trong một giai đoạn dài hơn sẽ giúp tăng khả năng nhận biết và thấu hiểu về triển vọng dài hạn của thị trường.

      Sau khi đã có quan điểm về xu hướng dài hạn của thị trường, hãy phân tích biểu đồ giao dịch ngày (daily) và trong phiên (intra-day).

      Cần lưu ý là bạn có thể phạm sai lầm nếu chỉ phân tích xu hướng thị trường ngắn hạn.

      Thậm chí nếu bạn giao dịch trong khung thời gian cực ngắn thì cũng sẽ hiệu quả hơn nếu bạn giao dịch cùng hướng với xu hướng trung hạn và dài hạn của thị trường.

      2. Xác định xu hướng và đi theo nó. Xu hướng thị trường có thể là dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn.

      Đầu tiên, hãy xác định khung thời gian mà bạn sẽ giao dịch và sử dụng biểu đồ thích hợp.

      Hãy chắc chắn rằng bạn đang giao dịch theo đúng hướng của xu hướng đó. Mua vào lúc thị trường giảm khi xu hướng đang là tăng giá, và bán vào lúc thị trường tăng khi khi xu hướng đang là giảm giá.

      Nếu bạn đang giao dịch theo trung hạn, thì nên sử dụng biểu đồ ngày và tuần. Nếu bạn là người giao dịch trong ngày, thì nên dùng biểu đồ ngày và trong ngày.

      Nhưng cần lưu ý rằng trong mọi trường hợp, hãy xác định xu hướng bằng biểu đồ dài hạn hơn, rồi sau đó sử dụng biểu đồ ngắn hạn hơn để xác định thời điểm giao dịch (timing).

      3. Tìm đỉnh/đáy hay là ngưỡng hỗ trợ/kháng cự. Điểm tốt nhất để mua vào là gần ngưỡng hỗ trợ, ngưỡng này thường là đáy liền trước đó.

      Ngược lại, điểm tốt nhất để bán ra là gần ngưỡng kháng cự, thường là đỉnh liền trước đó.

      Sau khi đỉnh kháng cự bị phá vỡ thì thông thường nó sẽ tạo (trở thành ngưỡng) hỗ trợ cho những đợt hồi phục sau đó. Nói cách khác, đỉnh cũ sẽ trở thành đáy mới.

      Tương tự, khi ngưỡng hỗ trợ bị phá vỡ thì thông thường nó sẽ khiến người ta đẩy mạnh bán ra trong những đợt phục hồi trở lại sau đó; và đỉnh cũ có thể trở thành đáy mới.

      4. Tỷ lệ % “dội ngược” trở lại (Retracement). Sau khi thị trường điều chỉnh tăng hoặc giảm thì thường diễn ra một đợt “dội ngược” trở lại của xu hướng trước đó.

      Chúng ta có thể đo sự điều chỉnh “dội ngược” trong xu hướng hiện tại của thị trường theo tỷ lệ phần trăm. Mức 50% của xu hướng trước là phổ biến nhất. Mức tối thiểu thường là 1/3 của xu hướng trước, trong khi mức tối đa thường là 2/3.

      Cũng cần theo dõi các mức retracement theo các mốc Fibonacci 38% và 62%.

      Vì vậy, có thể thấy trong quá trình điều chỉnh giảm của một xu hướng tăng giá, điểm mua ban đầu thường nằm trong khu vực retracement 33%-38%.


      5. Vẽ đường xu hướng (Trendline). Đường xu hướng là một trong những công cụ phân tích đơn giản nhưng có hiệu quả nhất. Tất cả những gì bạn cần là một đường thẳng và 2 điểm trên đồ thị.

      Đường xu hướng đi lên được vẽ qua 2 điểm thấp nhất kế tiếp. Đường xu hướng đi xuống được vẽ qua 2 điểm cao nhất kế tiếp.

      Giá thường quay trở lại các đường xu hướng trước khi tiếp tục xu hướng của nó.

      Việc giá phá vỡ đường xu hướng thường báo hiệu sự thay đổi về xu hướng. Một xu hướng đúng khi đường xu hướng được chạm (test) ít nhất là 3 lần.

      Đường xu hướng tồn tại càng lâu và được test nhiều lần thì càng trở nên quan trọng (tức là cho tín hiệu đúng).

      6. Theo sát các chỉ báo trung bình động (Moving average). Trung bình động (MA) có thể đưa ra các tín hiệu mua hoặc bán khách quan. MA cho bạn biết liệu xu hướng hiện tại có còn tiếp diễn hay không, và giúp xác nhận sự thay đổi trong xu hướng.

      Tuy nhiên, MA không cho bạn biết trước rằng sự thay đổi xu hướng sẽ diễn ra, nói cách khác MA là một chỉ báo cho tín hiệu trễ (lagging indicator).

      Một trong những cách phổ biến nhất để tìm tín hiệu giao dịch là kết hợp 2 MA. Một số cặp MA được sử dụng phổ biến trong giao dịch thị trường tương lai là MA 4 ngày và MA 9 ngày, MA 9 ngày và MA 18 ngày, MA 5 ngày và MA 20 ngày.

      Tín hiệu xuất hiện khi đường MA ngắn hạn hơn giao cắt với đường MA dài hạn hơn. Giá cắt lên trên hoặc xuống dưới đường MA 40 ngày cũng tạo ra những tín hiệu giao dịch hiệu quả.

      Vì MA là chỉ báo giao dịch theo xu hướng nên chúng chỉ hoạt động tốt nhất trong thị trường có xu hướng rõ ràng (trending market).

      7. Nhận biết điểm đảo chiều bằng cách theo dõi các chỉ báo dao động (oscillators). Các chỉ báo dao động giúp nhận diện liệu thị trường có đang trong tình trạng quá mua (overbought) hay quá bán (oversold) hay không.

      Trong khi MA giúp xác nhận sự thay đổi xu hướng thì các chỉ báo dao động thường giúp cảnh báo trước rằng thị trường đã tăng giá hoặc giảm giá quá mức và sẽ sớm quay đầu.

      Hai chỉ báo dao động phổ biến nhất là RSI (Relative Strength Index) và Stochasics. Hai chỉ báo này dao động trong phạm vi từ 0 đến 100.

      RSI trên mức 70 báo hiệu ở vùng quá mua, trong khi dưới mức 30 thì ở vùng quá bán. Các giá trị quá mua và quá của Stochastics lần lượt là 80 và 20.

      Phần lớn các nhà giao dịch sử dụng 14 ngày hoặc tuần đối với Stochastics, và 9 hoặc 14 ngày hoặc tuần đối với RSI.

      Sự phân kỳ (divergence) của chỉ báo dao động thường cảnh báo sự đảo chiều thị trường. Những công cụ này hoạt động tốt nhất trong thị trường dao động với biên độ hẹp.

      Các tín hiệu tuần có thể sử dụng làm bộ lọc cho các tín hiệu ngày. Các tín hiệu ngày có thể sử dụng làm bộ lọc cho đồ thị trong ngày.

      8. Nhận biết tín hiệu cảnh báo - Giao dịch theo MACD. Chỉ báo Trung bình động Hội tụ - Phân kỳ (Moving Average Convergence Divergence, MACD) do Gerald Appel phát triển là kết hợp của hệ thống giao cắt các MA với các yếu tố quá mua/quá bán của một chỉ báo dao động.

      Tín hiệu mua xuất hiện khi đường chạy nhanh hơn giao cắt lên trên đường chạy chậm hơn và cả hai đường nằm dưới mức 0.

      Tín hiệu bán xuất hiện khi đường chạy nhanh hơn giao cắt xuống dưới đường chạy chậm hơn từ trên đường số 0.

      Các tín hiệu tuần ưu tiên hơn các tín hiệu ngày. Chỉ báo MACD Histogram biểu thị sự chênh lệch giữa 2 đường MA này và cho những cảnh báo sớm hơn về sự thay đổi xu hướng. Nó được gọi là “Histogram” bởi vì các thanh dọc được sử dụng để biểu thị sự chênh lệch giữa 2 đường MA trên đồ thị.

      9. Thị trường có xu hướng hay không. Đường chỉ số xu hướng trung bình (Average Directional Movement Index, ADX) giúp xác định thị trường đang có xu hướng hay không. ADX đo mức độ và hướng của xu hướng trong thị trường.

      Đường ADX tăng lên cho thấy sự hiện diện của một xu hướng mạnh. Đường ADX giảm xuống cho thấy thị trường không có xu hướng rõ ràng.

      Bằng cách đánh dấu hướng của đường ADX, trader có thể xác định cách giao dịch và bộ chỉ báo nào là phù hợp nhất đối với hoàn cảnh thị trường hiện tại.

      10. Nhận biết các tín hiệu xác nhận (Confirming Sign), bao gồm khối lượng (volume) và hợp đồng tương lai đang hiệu lực (open interest).

      Khối lượng và hợp đồng tương lai đang hiệu lực là những chỉ báo xác nhận quan trọng trong các thị trường tương lai.

      Khối lượng giao dịch đi trước giá. Cần phải chắc chắn rằng khối lượng giao dịch cao hơn xuất hiện theo hướng của xu hướng chi phối. Trong một xu hướng tăng giá, khối lượng giao dịch cao hơn phải xuất hiện vào những ngày tăng giá.

      Số hợp đồng tương lai đang hiệu lực tăng lên xác nhận rằng lượng tiền mới vào thị trường đang hỗ trợ xu hướng chi phối. Ngược lại, hợp đồng tương lai đang hiệu lực giảm thường là một cảnh báo cho biết xu hướng gần kết thúc.

      Một xu hướng tăng giá vững chắc cần được đi kèm theo bằng khối lượng tăng và hợp đồng tương lai đang hiệu lực tăng.

    12. Những thành viên sau đã cám ơn :
      1nightdream (31-03-2014)

    13. #9
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Fibonacci trong phân tích kỹ thuật

      Có một “tỷ lệ” rất đặc biệt được sử dụng để mô tả tính cân đối của vạn vật từ những khối cấu trúc nhỏ nhất của thiên nhiên như nguyên tử cho đến những thực thể có kích thước cực kỳ khổng lồ như thiên thạch. Không chỉ thiên nhiên phụ thuộc vào nó để duy trì sự cân bằng mà thị trường tài chính có vẻ như cũng vận động theo một quy luật tương tự. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ xem qua một vài công cụ phân tích kỹ thuật được phát triển dựa trên các nghiên cứu trên cái mà người ta gọi là “tỷ lệ vàng” này....
      Có một “tỷ lệ” rất đặc biệt được sử dụng để mô tả tính cân đối của vạn vật từ những khối cấu trúc nhỏ nhất của thiên nhiên như nguyên tử cho đến những thực thể có kích thước cực kỳ khổng lồ như thiên thạch. Không chỉ thiên nhiên phụ thuộc vào nó để duy trì sự cân bằng mà thị trường tài chính có vẻ như cũng vận động theo một quy luật tương tự. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ xem qua một vài công cụ phân tích kỹ thuật được phát triển dựa trên các nghiên cứu trên cái mà người ta gọi là “tỷ lệ vàng” này.

      Các nhà toán học, khoa học, và tự nhiên học đã biết đến “tỷ lệ vàng” này trong nhiều năm. Nó được rút ra từ dãy Fibonacci, do nhà toán học người Ý, Leonardo Fibonacci (1175-1250) tìm ra. Trong dãy Fibonacci (1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 610, etc), mỗi số trong dãy là tổng của hai số trước đó. Điều đặc biệt nhất trong dãy này là bất kỳ một số nào cũng đạt giá trị xấp xỉ 1.618 lần số đứng trước và 0.618 lần số đứng sau nó (0.618 là nghịch đảo của 1.618). Tỷ lệ này được biết đến với rất nhiều tên gọi: tỷ lệ vàng, tỷ lệ thần thánh, PHI … Vậy thì, tại sao tỷ lệ này lại quan trọng đến vậy? Vạn vật dường như có thuộc tính gắn kết với tỷ lệ 1.618, có lẽ vì thế mà nó được coi là một trong những nhân tố cơ bản cấu thành nên các thực thể trong tự nhiên. Nếu chia tổng số ong cái cho tổng số ong đực trong một tổ ong bất kỳ, bạn sẽ có giá trị là 1.618. Nếu lấy khoảng cách từ vai đến móng tay chia cho khoảng cách giữa cùi chỏ và móng tay thì bạn cũng có được giá trị 1.618. Tính xác thực của các ví dụ trên bạn có thể từ từ kiểm chứng nhưng chúng ta hãy cùng xem “tỷ lệ vàng” có ứng dụng gì trong tài chính. Khi sử dụng phân tích kỹ thuật, “tỷ lệ vàng” thường được diễn giải theo 3 giá trị phần trăm: 38.2%, 50%, và 61.8%. Nhiều tỷ lệ khác có thể được sử dụng khi cần thiết, như 23.6%, 161.8%, 423%... Có 4 phương pháp chính trong việc áp dụng dãy Fibonacci trong tài chính: Retracements, arcs, fans, và time zones. Fibonacci Arcs (FA) được thiết lập đầu tiên bằng cách vẽ đường thẳng kết nối 2 điểm có mức giá cao nhất và thấp nhất của giai đoạn phân tích. 3 đường cong sau đó được vẽ với tâm nằm trên điểm có mức giá cao nhất và có khoảng cách bằng 38.2%, 50.0%, 61.8% độ dài đường thẳng thiết lập

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%201.JPG[/IMG]

      FA dùng để dự đoán mức hỗ trợ và kháng cự khi đồ thị giá tiếp cận với đường cong. Một kỹ thuật phổ biến là theo dõi cả hai đường FA, FF (Fibonacci Fan) và dự đoán mức hỗ trợ/kháng cự tại điểm giao giữa đồ thị giá và đường FA/FF.

      Lưu ý rằng đồ thị giá cắt đường FA tại điểm nào còn tùy thuộc vào kích cỡ của đồ thị, nói cách khác đường FA được vẽ lên đồ thị nên nó có mối tương quan với kích cỡ cân đối của đồ thị trên màn hình vi tính hoặc trên giấy. Đồ thị giá của Đồng Bảng Anh mô tả cách mà đường FA tìm ra các điểm hỗ trợ và kháng cự (điểm A, B, C) Fibonacci Fan (FF) được vẽ bằng cách kết nối hai điểm giá cao nhất và thấp nhất của giai đoạn phân tích. Sau đó một đường thẳng đứng “vô hình” sẽ được vẽ qua điểm giá cao nhất. Tiếp theo đó 3 đường chéo sẽ được vẽ từ điểm giá thấp nhất cắt đường thẳng đứng “vô hình” tại 3 mức 38.2%, 50.0%, 61.8%. Đồ thị sau của Taxaco cho thấy các ngưỡng hỗ trợ/kháng cự trên đường FF

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%202.JPG[/IMG]

      Bạn có thể thấy khi đồ thị giá gặp đường FF cao nhất (điểm A), đồ thị giá không thể vượt qua đường FF trong nhiều ngày. Khi giá vừa vượt qua đường FF, nó liền rớt nhanh chóng đến điểm đáy trên đường FF thứ 3 (điểm B và C) trước khi tìm được ngưỡng hỗ trợ. Cũng lưu ý rằng khi giá di chuyển qua điểm đáy (điểm C), nó di chuyển một mạch tới điểm cao nhất (điểm D) trên đường FF thứ 1 và cũng là điểm kháng cự, sau đó rơi xuống điểm giữa trên đường FF thứ hai (điểm E) trước khi đổi chiều đi lên. Fibonacci Retracements (FR) được xác định trước tiên bằng cách vẽ đường thẳng nối kết giữa hai điểm giá cao nhất và thấp nhất của đồ thị giá trong giai đoạn phân tích. Một loạt 9 đường nằm ngang sau đó được vẽ lên tại các mức Fibonacci 0.0%, 23.6%, 38.2%, 50%, 61.8%, 100%, 161.8%, 261.8%, và 423.6% tương ứng với chiều cao tính từ điểm giá cao nhất đến thấp nhất (một số đường có thể không được vẽ ra khi nằm ngoài quy mô phân tích của đồ thị) Sau mỗi giai đoạn biến động giá chính (có thể lên hoặc xuống), giá thường có xu hướng đảo ngược xu hướng (toàn bộ hoặc một phần). Khi giá đảo chiều, các ngưỡng hỗ trợ hoặc kháng cự mới thường nằm trên hoặc gần đường FR (xem đồ thị - ngưỡng hỗ trợ và kháng cự xuất hiện tại đường Fibonacci 23.6% và 38.2%)

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%203.JPG[/IMG]

      Fibonacci Time Zones bao gồm một loạt các đường thẳng đứng. Sắp xếp theo trật tự của dãy Fibonacci 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, … Cũng như các đường khác, diễn biến thay đổi của giá thường có mức hỗ trợ/kháng cự nằm gần hoặc trên các đường thẳng đứng này.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%204.JPG[/IMG]

      Các kết quả nghiên cứu về Fibonacci này không có ý định làm kim chỉ nam cho việc xác định thời gian xâm nhập hoặc thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên, nó có thể hữu ích trong việc xác định vùng hỗ trợ và kháng cự. Đa phần các nhà đầu tư sử dụng kết hợp cả 4 phương pháp Fibonacci này để có thể đưa ra các mức dự đoán chính xác hơn. Một nhà phân tích có thể chỉ sử dụng Fibonacci Arcs và các điểm giao tại vùng hỗ trợ hoặc kháng cự. Nhiều người khác kết hợp các nghiên cứu về Fibonacci với các dạng thức phân tích kỹ thuật khác như “lý thuyết sóng Elliot” để dự đoán mức độ đảo ngược xu hướng sau mỗi bước sóng khác nhau. Trong phạm vi bài viết, tôi chỉ xin dừng lại ở mức độ ứng dụng cơ bản của dãy Fibonacci, hy vọng có thể cung cấp cho các bạn vài thông tin hữu ích.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    14. #10
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Bài 17 - Các hình mẫu phân tích kỹ thuật (Chart Patterns) - Phần 8

      Mẫu Piercing là một mẫu nến đảo chiều làm tăng giá. Mẫu gồm 2 nến cơ bản: * Nến giảm (ngày thứ 1) * Nến tăng (ngày thứ 2)...
      Mô hình Piercing


      Mẫu Piercing là một mẫu nến đảo chiều làm tăng giá. Mẫu gồm 2 nến cơ bản:

      * Nến giảm (ngày thứ 1)
      * Nến tăng (ngày thứ 2)


      + Mẫu Piercing xảy ra khi nến tăng của ngày thứ 2 có mức giá đóng cửa nằm trên mức 1 nửa (50%) thân nến giảm của ngày thứ 1.

      + Ngoài ra khoảng trống giảm của ngày thứ 2 không chỉ được lấp đầy mà cần phải có giá đóng cửa cao đáng kể; tương đương với sự mất mát của nến giảm ngày hôm trước (thân nến tăng của ngày thứ 2 tương đương với thân nến giảm của ngày thứ 1).

      + Sự loại bỏ khoảng trống giảm ở ngày thứ 2 đã là 1 dấu hiệu tăng giá và 1 phần của sự tăng giá này đã có thể đẩy giá lên tương đương với sự sụt giảm của ngày hôm trước. Sự tăng giá này đã thành công khi đẩy giá lên được ở mức cao, đây là điểm hấp dẫn sức cầu và đánh dấu mức suy giảm của lực cung thị trường.

      Ví dụ minh hoạ:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/piercing2.jpg[/IMG]

      Tín hiệu mua của mẫu nến Piercing

      Nói chung chúng ta nên sử dụng những chỉ báo phân tích kỹ thuật khác để xác nhận tín hiệu mua của mẫu nến Piercing hay đường xu hướng giá bị bẻ gãy. Trong mẫu Piercing tồn tại ý nghĩa sự tăng giá đã không hoàn toàn đảo ngược tình trạng mất mát của ngày thứ 1, sự tăng giá đã tác động lên sự hy vọng trước khi tín hiệu mua lộ diện. Cần quan sát thêm khối lượng giao dịch, nếu nó lớn hơn mức thông thường là một dấu hiệu xác nhận sự tăng giá, còn nếu xảy ra ở ngày thứ 2 thì đây là tín hiệu khá mạnh cho sự tăng giá trở lại và những phiên giảm giá trước đó được xem như đã kết thúc.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    15. Những thành viên sau đã cám ơn :
      tigeran (14-08-2013)

    16. #11
      Ngày tham gia
      Mar 2014
      Bài viết
      1
      Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi

      Mặc định

      Bài viết hay quá mà các hình minh họa bị hư link hết rồi (. ai đã đọc và cop ra bản word hay pdf thì cho em xin với

    17. #12
      Ngày tham gia
      Aug 2010
      Bài viết
      648
      Được cám ơn 325 lần trong 218 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Xu thế, Đường xu thế, Kênh

      Xu thế Khái niệm xu thế sẽ được giới thiệu kĩ hơn trong phần Lý thuyết Dow. Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn...
      Xu thế

      Khái niệm xu thế sẽ được giới thiệu kĩ hơn trong phần Lý thuyết Dow. Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại xu thế giá giảm cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện một đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó.

      Đường xu thế

      Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là đường nối các điểm đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các đỉnh thấp dần. Đường xu thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ một đường xu thế khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối). Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.



      Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế thị trường vẫn đang ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động giá. Tương tự, với thị trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu hợp lý.

      Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới đường xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu thế thị trường.

      Kênh

      Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường xu thế và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề là làm sao có thể xác định được hai đường này.



      Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta vẽ đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất đầu tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá. Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự, tất nhiên là theo hướng ngược lại.

      Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều lần thử thành công thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị trường nhằm tìm kiếm những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị trường có thể là một chiến thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.

      Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra sự đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ (khi giá vượt ra ngoài đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những hợp đồng dài hạn.

      Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu hiệu cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế.

      Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường biên của kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi và khả năng chuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh. Với xu thế giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên - xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn xem xét đối với xu thế giá giảm).

      Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế mới dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ.

      Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế thì điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh mới xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ vẽ đường kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại.

      Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.

      Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của kênh thì đường xu thế luôn có vai trò quan trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế)

      Last edited by tradingpro8x; 30-10-2012 at 03:51 PM.

    18. #13
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Bài 18 - Các hình mẫu phân tích kỹ thuật (Chart Patterns) - Phần 9

      Mẫu Morning Star (MS) là một mẫu đảo chiều giảm giá, nó thường xảy ra ở đáy của xu hướng giảm giá. Mẫu MS gồm 3 nến: * Nến lớn: là nến giảm (ngày thứ 1) * Nến nhỏ: là nến giảm hoặc nến tăng (ngày thứ 2) * Nến lớn: là nến tăng (ngày thứ 3)...

      Mô hình Morning Star


      Mẫu Morning Star (MS) là một mẫu phân tích kỹ thuật đảo chiều giảm giá, nó thường xảy ra ở đáy của xu hướng giảm giá. Mẫu MS gồm 3 nến:

      * Nến lớn: là nến giảm (ngày thứ 1)
      * Nến nhỏ: là nến giảm hoặc nến tăng (ngày thứ 2)
      * Nến lớn: là nến tăng (ngày thứ 3)


      - Phần đầu tiên của mẫu đảo chiều MS là một nến giảm lớn màu đỏ. Ở ngày thứ 1 này sự giảm giá là hết sức rõ ràng (liên tục tạo ra những điểm thấp mới).

      - Phần thứ 2 vẫn bắt đầu là 1 xu hướng giảm thể hiện bởi 1 khoảng trống giảm, sự giảm giá vẫn chiếm chủ đạo. Tuy nhiên, sự giảm giá này đã không đẩy đường giá xuống thấp hơn được nữa. Nến ngày thứ 2 phải là 1 nến có thân nến rất nhỏ và có thể là nến tăng hoặc giảm hay nến bình thường (Doji).

      Nói chung 1 nến tăng ở ngày thứ 2 sẽ là 1 dấu hiệu mạnh của sự đảo chiều sắp xảy ra. Nhưng ngày thứ 3 mới đóng vai trò quan trọng hơn cả.

      - Ngày thứ 3 bắt đầu bằng 1 khoảng trống tăng (dấu hiệu tăng giá). Sự tăng giá này có thể đẩy đường giá lên cao hơn nữa, thông thường nó phải lấp đầy sự giảm giá của ngày thứ 1.

      Ví dụ minh hoạ:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MorningStar2.jpg[/IMG]

      Ngày thứ 1 của mẫu MS ở ví dụ trên là 1 sự giảm giá mạnh (biểu hiện qua nến giảm lớn màu đỏ). Ngày thứ 2 vẫn tiếp tục quan điểm giảm giá của ngày thứ 1 bởi đã có 1 khoảng trống giảm. Tuy nhiên, ngày thứ 2 đã hình thành 1 Doji (biểu hiện sự do dự), sự giảm giá đã không tiếp tục giảm sâu hơn như ngày hôm trước nhưng chúng cũng chỉ có thể đưa giá đóng cửa xấp xỉ với giá mở cửa mà thôi.

      Ngày thứ 3 bắt đầu 1 khoảng trống tăng (dấu hiệu tăng giá), sự tăng giá này đã kéo thêm những nhà đầu tư tham gia vào thị trường. Hơn nữa ngày thứ 3 đã bẻ gãy xu hướng giảm giá được tồn tại trong vài tuần trước. Cả 2 dấu hiệu: xu hướng giá bị bẻ gãy và mẫu MS xảy ra đã giúp cho nhà đầu tư ra quyết định mua và nắm giữ chứng khoán này một cách lâu hơn.

      Điều cần nhớ rằng mẫu MS là 1 mẫu 3 nến đảo chiều tăng giá rất chắc chắn.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    19. Những thành viên sau đã cám ơn :
      tigeran (14-08-2013)

    20. #14
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Phân tích kỹ thuật PTKT - Kinh nghiệm phân tích đầu tư & Những câu nói bất hủ với thời gian

      Ông John này phân tích kỹ thuật khá hay, tiếc là già rùi nên không chọc trời khuấy nước như xưa nữa
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    21. #15
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Các hình mẫu phân tích kỹ thuật

      Các mô hình tam giác...
      Mô hình tam giác


      Mô hình “tam giác” cũng là mô hình biến động liên tục và sử dụng các khái niệm hỗ trợ và kháng cự và điểm đột phá về giá. Mô hình này được xếp vào mẫu đồ thị tiếp tục xu hướng giá. Đồ thị dưới đây của AMZN cho thấy mô hình “Tam giác”:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/triangle1.jpg[/IMG]

      Nhìn chung khi giá có những biến động đáng kể chúng sẽ vượt qua trạng thái dừng. Khi sử dụng mô hình “Tam giác”, giai đoạn ổn định giá sẽ bao gồm các đáy giá cao hơn và thấp hơn, hình thành nên hình “Tam giác”. Khi đường hỗ trợ và kháng cự bắt đầu hội tụ, thì giá sẽ bùng nổ thoát ra ngoài khu vực ổn định và tiếp tục khuynh hướng biến động trước đó.

      Tín hiệu mua:
      Là khi đường giá cắt đường kháng cự (Resistance) theo hướng đi lên. Tín hiệu thường mạnh hơn khi giá ở giai đoạn tăng vượt qua điểm bứt phá.

      Tín hiệu bán:
      Khi đường giá cắt đường hỗ trợ (Support) theo hướng đi xuống. Thông thường tín hiệu bán sẽ mạnh hơn khi giá ở giai đoạn đi xuống và vượt qua điểm bứt phá.

      hai loại biến thể của mô hình “Tam giác” là mô hình “Tam giác” đi lên và đi xuống.

      Mô hình Tam giác đi lên và Tam giác đi xuống

      Hai biến thể gần nhất của mô hình “Tam giác” là mô hình “Tam giác đi lên” và “Tam giác đi xuống” được thể hiện trong đồ thị của hợp đồng vàng futures 100 ounce:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/triangle2.jpg[/IMG]

      Mô hình “Tam giác đi lên”

      Tam giác đi lên cho thấy khuynh hướng thị trường đi lên so với mô hình tam giác thông thường. Cùng với mô hình tam giác đi lên, các mức giá đáy ngày càng cao hơn (dấu hiệu thị trường tăng) và đôi lúc là các mức giá đỉnh cũng ngày càng cao hơn (cũng là dấu hiệu thi trường tăng) được hình thành

      Tín hiệu mua:
      Cũng như cách hình thành mô hình “Tam giác” thông thường, mô hình “Tam giác đi lên” đưa ra tín hiệu mua khi đường giá cắt đường kháng cự theo hướng đi lên và tín hiệu cũng sẽ mạnh hơn khi giá đang trong giai đoạn tăng vượt qua điểm bứt phá.

      Mô hình “Tam giác đi xuống”

      Tam giác đi xuống cho thấy khuynh hướng thị trường đi xuống so với mô hình tam giác thông thường. Khi mô hình tam giác đi xuống được hình thành, các mức giá đáy ngày càng thấp hơn (dấu hiệu thị trường giảm) và thường là các mức giá đỉnh ngày càng thấp hơn được hình thành (nhìn chung là dấu hiệu thị trường giảm)

      Tín hiệu bán:
      Cũng như cách hình thành mô hình “Tam giác” thông thường, mô hình “Tam giác đi xuống” đưa ra tín hiệu bán khi đường giá cắt đường hỗ trợ theo hướng đi xuống và tín hiệu cũng sẽ mạnh hơn khi giá đang trong giai đoạn giảm vượt qua điểm bứt phá.

      Mô hình tam giác là một công cụ phân tích kỹ thuật hiệu quả cho việc đặt lệnh mua bán.

      Mô hình lá cờ (Flag Continuation)...
      Mô hình lá cờ


      Mô hình “lá cờ” thường xuất hiện sau một giai đoạn biến động tăng hoặc giảm đáng kể của thị trường.

      Sau mỗi đợt biến động mạnh, thông thường đường giá cần có điểm dừng. Trạng thái dừng của thị trường thường xuất hiện dưới dạng “lá cờ”. Sau trạng thái dừng thì giá sẽ tiếp tục khuynh hướng của nó trước đó, do vậy “lá cờ” được coi là mô hình biến động liên tục và được xếp vào mẫu đồ thị tiếp tục xu hướng.

      Đồ thị EBAY dưới đây chỉ ra mô hình “lá cờ”:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/flag.jpg[/IMG]

      Tín hiệu mua:

      Khi giá chuyển động nhiều hơn và các mức giá khá ổn định sẽ tạo ra các đường hỗ trợ và kháng cự, tín hiệu mua xuất hiện khi đường giá cắt đường kháng cự (Resistance) và giá đóng cửa có chiều hướng đi lên.

      Tín hiệu bán:

      Giả sử giá đang đi xuống trước đó và sau một thời gian ổn định thì tín hiệu bán là khi đường giá cắt đường hỗ trợ (support) và giá đóng cửa nằm dưới đường hỗ trợ.

      Mô hình Shooting Star

      Mẫu nến Shooting Star (SS) có ý nghĩa là mẫu nến đảo chiều giảm giá, chủ yếu xảy ra ở đỉnh của xu hướng tăng giá.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/shooting-star.jpg[/IMG]

      · Mẫu SS được tạo ra khi giá mở cửa, giá thấp nhất, giá đóng cửa có mức gần giống nhau. Ngoài ra nó còn có 1 bóng trên dài; thông thường được định nghĩa ít nhất là gấp 2 lần độ dài của thân nến.
      · Khi giá thấp nhất và giá đóng cửa ở mức gần giống nhau thì mẫu nến SS được hình thành và chứa đựng dấu hiệu giảm giá, nó được xem như là 1 mẫu nến giảm giá mạnh bởi vì sự giảm giá đã loại bỏ được hoàn toàn xu hướng tăng giá mạnh trước đó, sự tăng giá này đã đẩy giá lên rất cao nhưng cuối cùng lực bán đã xuất hiện ở mức giá cao nhất trong ngày và đã đưa giá đóng cửa thấp hơn mức giá mở cửa.
      · Mẫu nến SS được xem như là dấu hiệu giảm giá yếu khi giá mở cửa và thấp nhất xấp xỉ nhau. Sự tăng giá đã có thể chống lại sự giảm giá đôi chút nhưng cũng không thể đẩy mức giá đóng cửa xa hơn mức giá mở cửa.
      · Bóng trên dài của mẫu SS ngụ ý rằng: thị trường đã thử thách nhà đầu tư để tìm kiếm mức kháng cự hay chỗ mà lực cung được thiết lập. Khi thị trường tìm được vùng kháng cự là mức giá cao nhất trong ngày, lúc này sự giảm giá cũng đã bắt đầu đẩy đường giá đi xuống thấp hơn và cuối cùng dừng lại gần với mức giá mở cửa. Như vậy sự giảm giá đã loại bỏ phần lớn xu hướng tăng giá được hình thành trước đó.

      Ví dụ minh hoạ:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/shooting-star2.jpg[/IMG]

      Theo đồ thị trên, thị trường đã bắt đầu thử thách nhà đầu tư để tìm kiếm nơi mà lực cung sẽ tham gia vào thị trường, cuối cùng đường giá cũng đã tìm thấy ngưỡng kháng cự tại mức giá cao nhất trong ngày. Trên thực tế, đã có ngưỡng kháng cự rất mạnh xảy ra khi có sự bán tháo tích cực ở mức giá cao nhất trong ngày. Đường giá đã đóng cửa thấp hơn so với mức mở cửa; đây là 1 dấu hiệu giảm giá. Đối với những nhà đầu tư năng động thì mẫu nến SS được dùng để làm rõ thêm tín hiệu bán. Một thân nến đỏ (có sự khác biệt giữa giá đóng của và mở cửa) được xem như là 1 tín hiệu khá mạnh. Nếu như ngày kế tiếp lại là 1 nến giảm thì cảnh báo của mẫu SS phải được sử dụng bởi vì giá đóng cửa của mẫu SS (ví dụ trên) vẫn nằm trên đường hỗ trợ của xu hướng giá.

      Mẫu SS là 1 mẫu nến hết sức hữu ích để các nhà đầu tư xác định ngưỡng hỗ trợ hoặc nơi mà lực cung được thiết lập. Sau một xu hướng tăng giá, mẫu nến SS xuất hiện có thể cảnh báo nhà đầu tư xu hướng tăng giá đó đã kết thúc hoặc có khả năng sẽ rút ngắn chu kỳ tăng giá đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên sử dụng những chỉ báo thị trường khác kết hợp với mẫu nến SS để xác định tín hiệu bán. Ví dụ như chờ đợi ngày tiếp theo nếu vẫn là 1 ngày mất điểm hoặc những chỉ báo khác gây bất lợi cũng như đường xu hướng tăng giá bị bẻ gãy.

      Nói chung, nhà đầu tư nên chờ đợi thêm dấu hiệu của nến xác nhận trước khi ra quyết định chính thức.
      Last edited by tigeran; 06-11-2012 at 08:06 AM.

    22. #16
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Bài 19 - Các hình mẫu phân tích kỹ thuật (Chart Patterns) - Phần 10

      Mẫu nến Inverter Hammer (IH) xảy ra chủ yếu tại đáy của xu hướng giảm giá và là 1 cảnh báo có khả năng đảo chiều tăng giá. Nó là một mẫu đảo ngược rất quan trọng và là cảnh báo khả năng thay đổi hướng đi của đường giá, nó không phải là một tín hiệu, bản thân nó chỉ mang tính chất như là 1 dấu hiệu mua....
      Mô hình Inverted Hammer


      Mẫu nến Inverter Hammer (IH) xảy ra chủ yếu tại đáy của xu hướng giảm giá và là 1 cảnh báo có khả năng đảo chiều tăng giá. Nó là một mẫu đảo ngược rất quan trọng và là cảnh báo khả năng thay đổi hướng đi của đường giá, nó không phải là một tín hiệu, bản thân nó chỉ mang tính chất như là 1 dấu hiệu mua.

      - Mẫu IH cũng rất giống mẫu Shooting Star, nó được sinh ra khi giá mở cửa, giá thấp nhất và giá đóng cửa xấp xỉ nhau. Ngoài ra, nó còn phải có 1 bóng trên dài ít nhất là 2 lần độ dài của thân nến.

      - Khi giá thấp nhất và giá mở cửa gần giống nhau thì được gọi là mẫu IH tăng giá, đây là mẫu thông dụng và là 1 dấu hiệu cảnh báo có khả năng tăng giá mạnh vì giá thấp nhất và giá đóng cửa gần giống nhau. Mẫu nến IH có hình dạng đối lập với mẫu đảo chiều giảm giá Hanging Man (mẫu nến giảm giá Hanging Man vẫn chứa đựng sự tăng giá nhưng không nhiều bởi vì mức giá đóng cửa đã không bị mất mát quá nhiều).

      - Sau một xu hướng giảm giá dài, mẫu IH xuất hiện là một dấu hiệu tăng giá bởi vì nó đã có sự lưỡng lự của nhà đầu tư, đường giá đang trong xu hướng giảm nhưng đã có sự trỗi dậy mạnh mẽ và đáng kể của sự tăng giá ngay trong ngày giao dịch. Tuy nhiên, người bán đã quay lại thị trường và đẩy giá xuống gần với giá mở cửa. Nhưng với việc đường giá có thể tăng đáng kể đã nói lên lực cầu đang thử thách sức mạnh lực cung của thị trường. Những điều gì sẽ xảy ra ở ngày tiếp theo sau khi mẫu IH đã hình thành, thì đó là những ý định của nhà đầu tư cho dù đường giá có tăng hay giảm.

      Ví dụ minh hoạ:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MorningStar2.jpg[/IMG]

      Ở ví dụ trên, thị trường đã được khởi đầu bằng 1 khoảng trống giảm. Đường giá được đẩy lên cao và đến mức kháng cự, lực cung đã xuất hiện ngay tại giá cao nhất trong ngày, lực cung này đã đẩy đường giá trở lại trạng thái ban đầu. Sự tăng giá trong phiên giao dịch đã làm cho nhà đầu tư do dự, lưỡng lự và cuối cùng kết thúc phiên bằng 1 giá đóng cửa xấp xỉ giá mở cửa.

      Để xác nhận xu hướng giảm giá có vấn đề, nhà đầu tư nên xem xét ngay ngày hôm sau khi IH hoàn thành. Ngày hôm sau có 1 khoảng trống giảm nhỏ nhưng sau đó lực cầu đã tăng mạnh và tiếp tục đẩy giá lên cao, điều này đã tạo nên 1 nến xanh khẳng định lực cầu đã chiến thắng hoàn toàn. Một số nhà đầu tư cho rằng đây là nến xác nhận của IH, nếu kết hợp với đường kháng cự của xu hướng giảm giá bị bẻ gãy thì đây là tín hiệu tăng giá khá chắc chắn.

      Xin nhắc lại 1 điều khá quan trọng là mẫu IH không phải là 1 tín hiệu chắc chắn. Cần sử dụng kết hợp thêm các dấu hiệu của những chỉ báo thị trường khác cũng như xem xét đường xu hướng có bị bẻ gãy? Hoặc sử dụng nến xác nhận để nhận biết tín hiệu mua.

    23. Những thành viên sau đã cám ơn :
      1nightdream (21-08-2013)

    24. #17
      Ngày tham gia
      Aug 2010
      Bài viết
      648
      Được cám ơn 325 lần trong 218 bài gởi

      Mặc định Kinh nghiệm phân tích kỹ thuật PTKT và đầu tư trên thị trường chứng khoán

      Nến và tâm lí thị trường:

      1) Cơ sở lí luận:
      5 đặc điểm trong PTKT khi dùng đồ thị nến:
      Tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật gồm năm khía cạnh dưới đây.
      Đầu tiên, trong khi sự phân tích cơ bản có thể cung cấp quy mô cung cầu, những tỷ lệ giá/lợi nhuận, những thống kê kinh tế học, v.v…, không có thành phần tâm lý học kéo theo trong sự phân tích đó. Vậy mà nhiều thị trường, đôi khi bị ảnh hưởng, thậm chí nặng nề, bởi sự đa cảm. John Manyard Keynes phát biểu, "Không có gì bất hạnh như­ một chính sách đầu t­ư hợp lý trong một thế giới vô lý". Phân tích kỹ thuật cung cấp cơ chế duy nhất để đo "sự vô lý" hiện diện trong mọi thị trường.
      Thứ hai, những kỹ thuật cũng là một thành phần quan trọng trong việc khép mình vào kỷ luật giao dịch. Kỷ luật trong giao dịch giúp những thương gia làm dịu bớt những căng thẳng. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy giao dịch trên giấy (tập mua bán bằng cách viết ra giấy). Rồi thử buôn bán với những quĩ của chính mình. Bạn sẽ sớm khám phá sự căng thẳng, nghi ngờ, băn khoăn trong cách mà bạn mua bán và nhìn nhận thị tr­ường. Những kỹ thuật cũng mang lại tính khách quan trong việc đưa ra các quyết định. Chúng cung cấp một cơ chế để thiết lập những điểm vào/ra, để đặt những tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận, hoặc những mức dừng/thoát. Sử dụng chúng sẽ giúp bạn phát triển kỹ năng quản lý rủi ro và lợi nhuận trong giao dịch.
      Thứ ba, đi theo các nhà phân tích kỹ thuật cũng khá quan trọng dù bạn không hoàn toàn tin tư­ởng vào sự sử dụng của họ. Bởi vì đôi khi kỹ thuật là lý do chính cho một sự chuyển động của thị trư­ờng.
      Thứ tư, lý thuyết bước ngẫu nhiên giải thích việc thị trường có những ngày mà giá không có mối quan hệ với giá của ngày tiếp theo.
      Và cuối cùng, quan sát hoạt động giá là ph­ương pháp trực tiếp và có thể tiếp cận dễ dàng nhất để nhận ra những mối quan hệ cung cầu của thị trường. Có thể có những tin tức quan trọng không được phổ biến, nhưng bạn có thể chờ đợi nó phản ánh vào giá. Những người có kiến thức sâu rộng về những chuyển động của thị trường có thể sẽ mua hoặc bán khi giá cả hiện thời phản chiếu thông tin của họ. Vì vậy, giá cả hiện thời đã phản chiếu tất cả thông tin sẵn có, được phổ biến rộng khắp hoặc một nhóm nào đó.

      2)Nhận xét:
      _Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật, bạn sẽ khám phá ra cách kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật khác của bạn để có thể tạo ra một sức mạnh tổng hợp của kỹ thuật.
      _Những biểu đồ hình nến cung cấp nhiều dấu hiệu mua bán rất hữu ích. Tuy nhiên, chúng không cung cấp những mục tiêu giá.
      _Phân tích kỹ thuật qua lăng kính đồ thị nến cũng là cách để đo lường cảm xúc thị trường. Những người PTKT chờ đợi những manh mối giá có thể báo động cho họ 1 sự thay đổi trong tâm lí thị trường và xu hướng.

      3)Một vài hạn chế:

      _Cũng như tất cả những phương pháp sử dụng biểu đồ, những mẫu hình biểu đồ hình nến tùy thuộc vào sự giải thích của ngư­ời sử dụng. Điều này có thể coi là một hạn chế. Nếu bạn có nhiều kinh nghiệm với biểu đồ hình nến trong lĩnh vực của mình, bạn sẽ thấy những mẫu hình, và những sự biến đổi nào của những mẫu hình này, hoạt động tốt. Trong trường hợp này, chủ quan có thể không phải là nguy hiểm.
      _Có quá nhiều mô hình, và bạn phải mất nhiều thời gian để hiểu và nắm bắt nó. Và từng cây nên riêng biệt, nếu kết hợp với 1-2 cây nến liền kề, ở từng vị trí trong từng giai đoạn up/down/sideway sẽ có ý nghĩa riêng biệt.
      _Có gần đến 1000 trang về nến, bạn có tin chăng ??? Và tôi ước rằng trong tương lai xa nũa mình có thể là người đi tìm "linh hồn của cây nến".


      4)Một vài ưu điểm:
      Với những kinh nghiệm bạn có đư­ợc qua kỹ thuật hình nến, bạn sẽ khám phá ra những sự kết hợp nào hoạt động tốt trong thị trư­ờng của bạn. Điều này có thể mang lại cho bạn một lợi thế đối với những người đã không dành thời gian và sức lực trong việc theo dõi sát sao thị trường như­ bạn.
      Nếu biết khéo léo kết hợp nến theo 1 chuỗi thời gian, ta sẽ thấy được đường đi của xu hướng giá và tâm lí nhà đầu tư (hưng phấn/thận trọng/bi quan)
      Last edited by tradingpro8x; 27-06-2013 at 10:42 AM.

    25. Có 4 thành viên đã cám ơn tradingpro8x :
      1nightdream (13-08-2013), anhrin07091992 (30-04-2014), duyenht (27-06-2013), heoden (29-06-2013)

    26. #18
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Bài 20 - Các hình mẫu phân tích kỹ thuật (Chart Patterns) - Phần 11

      Harami (trong tiếng Nhật có nghĩa là “người có mang”) là một mẫu nến đảo chiều, nó bao gồm 2 nến cơ bản: Nến lớn: là nến tăng hoặc giảm (ngày thứ 1) Nến nhỏ: là nến tăng hoặc giảm (ngày thứ 2)...
      Mô hình Harami


      Harami (trong tiếng Nhật có nghĩa là “người có mang”) là một mẫu nến đảo chiều, nó bao gồm 2 nến cơ bản:

      Nến lớn: là nến tăng hoặc giảm (ngày thứ 1)
      Nến nhỏ: là nến tăng hoặc giảm (ngày thứ 2)


      Mẫu Harami được xem hoặc là tăng giá hoặc là giảm giá theo những tiêu chuẩn cơ bản như sau:

      Harami tăng giá: 1 Harami tăng giá xảy ra khi có 1 nến giảm lớn màu đỏ ở ngày thứ 1, tiếp theo là 1 nến nhỏ giảm hoặc tăng ở ngày thứ 2. Ngoài ra, điều quan trọng là cái hướng của Harami phải là tăng giá; nghĩa là đường giá phải tạo được 1 khoảng trống tăng giá ở ngày thứ 2, tức là đường giá được đẩy lên và không để đường giá quay trở lại mức giá đóng cửa của ngày thứ nhất.

      Harami giảm giá: 1 Harami giảm giá xảy ra khi có một nến lớn tăng giá màu xanh ở ngày thứ 1, tiếp sau đó là 1 nến nhỏ tăng hoặc giảm ở ngày thứ 2. Điều quan trọng là cái hướng của Harami phải là giảm giá, nghĩa là đường giá phải tạo ra 1 khoảng trống giảm ở ngày thứ 2 và đường giá không tăng hơn mức đóng cửa của ngày thứ 1. Đây là dấu hiệu không chắc chắn để tiếp tục tham gia vào thị trường.

      Ví dụ minh hoạ:


      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/Harami2.jpg[/IMG]

      Mẫu Harami đầu tiên (phiá dưới) theo ví dụ trên là mẫu Harami đảo chiều tăng giá. Đầu tiên, nó có 1 nến đỏ dài (nến giảm), thứ nhì nó có 1 khoảng trống tăng ở giá mở cửa ngày hôm sau. Theo trường hợp trên, ngày thứ 2 là 1 nến tăng, điều này làm cho mẫu Harami tăng giá thêm phần vững chắc.

      Tín hiệu mua của mẫu nến Harami: tín hiệu mua được xuất hiện ở ngày hôm sau khi mẫu Harami tăng giá xảy ra, đường giá phải được đẩy lên cao, giá đóng cửa phải nằm trên đường kháng cự của đường xu hướng giảm giá. Mẫu Harami tăng giá và đường xu hướng giá bị bẻ gãy là 1 sự kết hợp rất hiệu nghiệm để cảnh báo tín hiệu mua mạnh và chắc chắn.

      Mẫu Harami thứ 2 (phiá trên) theo ví dụ trên là mẫu Harami đảo chiều giảm giá. Nến đầu tiên là 1 nến tăng dài màu xanh. Ở nến thứ 2 đã xảy ra 1 khoảng trống giảm tại giá mở cửa. Theo ví dụ trên thì ngày thứ 2 là 1 nến giảm, điều này làm cho mẫu Harami giảm giá thêm phần vững chắc.

      Tín hiệu bán của mẫu nến Harami: tín hiệu bán được xảy ra ngay sau ngày Harami giảm giá xuất hiện, đường giá đã tiếp tục rơi thêm nữa; giá đóng cửa nằm dưới đường hỗ trợ của xu hướng tăng giá. Khi kết hợp giữa mẫu Harami giảm giá với hiện tượng đường xu hướng giá bị bẻ gãy sẽ là 1 cảnh báo mạnh cho tín hiệu bán.

    27. Có 2 thành viên đã cám ơn tigeran :
      1nightdream (21-08-2013), vickyzao (02-04-2014)

    28. #19
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Phân tích kỹ thuật PTKT - Candlesticks

      Bạn vào trang dưới đây là có đầy đủ từ A đến Z lun

      http://www.candlecharts.com/

    29. #20
      Ngày tham gia
      Apr 2014
      Bài viết
      5
      Được cám ơn 1 lần trong 1 bài gởi

      Mặc định

      Anh có tài liệu nào đầy đủ về mô hình nến không, em tìm trên mạng nó thiếu trước thiếu sau không ak, thanks anh trước

    Thông tin của chủ đề

    Users Browsing this Thread

    Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)

       

    Similar Threads

    1. Những series bài hay về phần mềm phân tích kỹ thuật MetaStock
      By tigeran in forum Phân tích kỹ thuật MetaStock
      Trả lời: 37
      Bài viết cuối: 27-11-2017, 03:15 PM
    2. Những series bài hay về phần mềm phân tích kỹ thuật AmiBroker
      By tigeran in forum Phân tích kỹ thuật AmiBroker
      Trả lời: 37
      Bài viết cuối: 15-11-2016, 04:27 PM
    3. Phân tích kỹ thuật (PTKT) – lý thuyết, ứng dụng và phản biện
      By tigeran in forum Kiến thức về Phân tích kỹ thuật
      Trả lời: 14
      Bài viết cuối: 15-09-2012, 10:34 AM
    4. Một bài phân tích hay, có lý và khách quan
      By Brainstorm in forum Thảo luận Tình hình
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 17-06-2012, 11:41 PM
    5. Những kinh nghiệm về phân tích kỹ thuật được chia sẻ tại buổi ofline CLB PTKT
      By tigeran in forum Nhận định thị trường bằng Phân tích kỹ thuật
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 06-07-2010, 09:08 AM

    Bookmarks

    Quyền viết bài

    • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
    • Bạn Không thể Gửi trả lời
    • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
    • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình