Lý thuyết danh mục đâu tư hiện đại
  • Thông báo


    + Trả lời Chủ đề
    Kết quả 1 đến 7 của 7

    Hybrid View

    1. #1
      Ngày tham gia
      Jul 2010
      Bài viết
      75
      Được cám ơn 4 lần trong 4 bài gởi

      Mặc định Lý thuyết danh mục đâu tư hiện đại

      1. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán

      Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất? Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khoán được giao dịch trên thị trường như cổ phiếu, trái phiếu, hay các giấy tờ sở hữu bất động sản...
      Vì sao cần quản lý danh mục đầu tư?

      - Thứ nhất, đa dạng hoá danh mục đầu tư là nhu cầu của người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư.

      - Thứ hai, việc lựa chọn danh mục đầu tư phải tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế cao thường không muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống như trong danh mục của những người chịu thuế thấp. - Thứ ba, quản lý danh mục đầu tư là cần thiết vì liên quan đến lứa tuổi của khách hàng đầu tư. Các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có nhu cầu riêng trong chính sách lựa chọn danh mục đầu tư và liên quan đến rủi ro. Thông thường người già ưa thích đầu tư vào những chứng khoán có độ an toàn cao như trái phiếu Chính phủ, còn giới trẻ lại thích đầu tư vào những chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng kỳ vọng mức lợi tức cao.

      Quy trình quản lý danh mục đầu tư

      Quản lý danh mục đầu tư là quá trình liên tục và có hệ thống gồm 4 bước:

      - Thứ nhất, xác định mục tiêu đầu tư. Trọng tâm của việc xác định mục tiêu là xác định rõ mức độ rủi ro có thể chấp nhận được của chủ đầu tư và mức độ lợi nhuận mong đợi tương thích với mức độ rủi ro đó.

      - Thứ hai, xây dựng các chiến lược phù hợp với mục tiêu bao gồm việc lập các tiêu chuẩn và phân bổ đầu tư.

      - Thứ ba, giám sát theo dõi những diễn biến giá cả tương đối của chứng khoán trên thị trường, cả mức độ rủi ro và lợi nhuận mong đợi.

      - Thứ tư, điều chỉnh danh mục đầu tư phù hợp với diễn biến của thị trường và mục tiêu của người đầu tư.

      Một nguyên tắc nữa của danh mục là chính sách đầu tư được viết ra bằng văn bản và có sự cam kết của nhà đầu tư. Điều này rất cần thiết vì nó đảm bảo tính nhất quán, không xét lại theo tính ngẫu hứng, không phụ thuộc vào quan điểm ngắn hạn của chủ đầu tư.

      Quản lý danh mục đầu tư một cách chủ động hay bị động?
      Học thuyết về thị trường hữu hiệu cho rằng, việc quản lý danh mục đầu tư chủ động (tức là dựa vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại để phân tích, đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó) chỉ là sự lãng phí thời gian và tiền bạc. Học thuyết này khuyến khích cho chiến lược đầu tư bị động. Mục tiêu duy nhất của chiến lược đầu tư bị động là tạo dựng một danh mục đầu tư được đa dạng hóa hoàn toàn. Điều này trái ngược hẳn với quản lý chủ động là luôn đi tìm những chứng khoán định giá thấp hơn hay cao hơn giá thị trường để mua hoặc bán kiếm lời.

      Những yêu cầu của quản trị viên chuyên nghiệp

      - Thứ nhất, phải tạo ra mức lợi nhuận trung bình đối với mức độ rủi ro cụ thể. Lý thuyết phân tích danh mục đầu tư hiện đại đã chứng minh được mức sinh lời sau khi đã loại trừ rủi ro có thể vượt trội thông qua nắm bắt thời cơ thị trường hoặc khả năng lựa chọn cơ cấu chứng khoán trong danh mục đầu tư.

      Đối với một quản trị viên danh mục cổ phiếu, nếu có khả năng dự báo thời điểm lên hoặc xuống của thị trường cổ phiếu, có thể điều chỉnh thành phần cấu tạo của danh mục đầu tư để đón đầu xu hướng thị trường thì có thể nắm giữ những cổ phiếu có lợi nhuận mong đợi cao khi thị trường đang lên giá.

      Đối với một quản trị viên danh mục trái phiếu, nếu có khả năng dự báo xu hướng vận động của lãi suất, sẽ điều chỉnh kịp thời mức đáo hạn bình quân để đón đầu những biến động lãi suất thị trường. Kết quả đạt được sao cho nắm giữ được danh mục trái phiếu có mức đáo hạn bình quân cao khi lãi suất có xu hướng giảm và ngược lại, nắm giữ thời hạn trung bình của những trái phiếu thấp khi lãi suất thị trường có xu hướng tăng.

      - Thứ hai, khả năng đa dạng hóa chứng khoán trong một danh mục để loại bỏ rủi ro không hệ thống (rủi ro không hệ thống là rủi ro chỉ tác động vào một tài sản hoặc một chủ thể nào đó). Mức độ đa dạng hóa có thể được đánh giá trên cơ sở mối tương quan giữa mức sinh lời danh mục do thành viên đó thiết lập với danh mục thị trường.

      Vì vậy, quản lý danh mục đầu tư có vai trò rất quan trọng. Tối ưu trong danh mục đầu tư phụ thuộc vào tuổi tác mức thuế, tâm lý đối với rủi ro.... Nhiệm vụ của nhà quản lý danh mục đầu tư là tập hợp danh mục các chứng khoán phù hợp với đòi hỏi này.

    2. #2
      Ngày tham gia
      Jul 2010
      Bài viết
      75
      Được cám ơn 4 lần trong 4 bài gởi

      Mặc định

      2. Biên bản thỏa thuận về chính sách đầu tư

      Là một tài liệu soạn thảo giữa người quản lý danh mục đầu tư và khách hàng để thiết lập một quy tắc chung cho người quản lý danh mục đầu tư đó.

      Biên bản này cung cấp các mục tiêu đầu tư nói chung, mục tiêu của khách hàng và mô tả các chiến lược mà người quản lý nên sử dụng để đáp ứng những mục tiêu này. Thông tin cụ thể về những vấn đề như phân bổ tài sản, dung sai rủi ro, và các yêu cầu thanh khoản cũng sẽ được bao gồm trong biên bản này.

      Ví dụ, một cá nhân có thể lập một điều khoản trong biên bản với nhu cầu là khi anh ta nghỉ hưu ở tuổi 60, anh ta sẽ có thu nhập hàng năm tại thời điểm đó là $ 65,000 so với khoản tiền đầu tư hiện tại (đã điều chỉnh lạm phát) của mình. Điều này sẽ chỉ là một trong nhiều điểm bao gồm trong một biên bản thỏa thuận về chính sách đầu tư. Ngoài ra, biên bản cũng có thể bao gồm những thông tin khác như các hướng dẫn chung đề cập đến những gì họ mong muốn để lại cho người thân khi họ qua đời.

    3. #3
      Ngày tham gia
      Jul 2010
      Bài viết
      75
      Được cám ơn 4 lần trong 4 bài gởi

      Mặc định

      3. Các phương pháp phân bổ tài sản

      1. Phương pháp Trung bình – Phương sai: Xác định danh mục có mức rủi ro thấp nhất cho mỗi mức lợi nhuận kỳ vọng.

      2. Mô phỏng đường biên hiệu quả: Sử dụng tỷ trọng trung bình cho từng mã chứng khoán trong một tập hợp các đường biên hiệu quả.

      3. Phương pháp Black – Litterman: Mức lợi nhuận được tính từ các chỉ số thị trường toàn cầu dựa trên tỷ trọng về giá trị.

      4. Sử dụng giả định Monte – Carlo: Một phương pháp phân tích Trung bình – Phương sai dựa vào giả định Monte – Carlo.

      5. Phương pháp quản lý căn cứ vào tài sản và nợ: Tìm kiếm một danh sách phân bổ dựa vào việc tối đa hóa sự khác biệt giữa tài sản và nợ tương ứng với từng mức độ rủi ro.

      6. Dựa vào kinh nghiệm cá nhân.

    4. #4
      Ngày tham gia
      Jul 2010
      Bài viết
      75
      Được cám ơn 4 lần trong 4 bài gởi

      Mặc định

      4. Quỹ đầu tư – Các loại hình và chiến lược đầu tư

      Các loại hình quỹ đầu tư
      Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác.

      Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác.

      Tại sao nhà đầu tư sử dụng quỹ đầu tư?

      Nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân thường quyết định đầu tư thông qua quỹ bởi 05 yếu tố:
      o Giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hóa danh mục đầu tư
      o Tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt các yêu cầu về lợi nhuận
      o Được quản lý chuyên nghiệp
      o Giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan thẩm quyền
      o Tính năng động của quỹ đầu tư.

      Mỗi nhà đầu tư tham gia đầu tư vào quỹ sẽ sở hữu một phần trong tổng danh mục đầu tư của quỹ. Việc nắm giữ này được thể hiện thông qua việc sở hữu các chứng chỉ quỹ đầu tư.

      Các loại hình quỹ đầu tư

      Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo các tiêu chí phân loại khác nhau.

      1. Căn cứ vào nguồn vốn huy động:

      + Quỹ đầu tư tập thể (quỹ công chúng)
      Là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ công chúng cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu quả cao do tính chuyên nghiệp của đầu tư mang lại.

      + Quỹ đầu tư cá nhân (Quỹ thành viên)
      Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn trước, là các cá nhân hay các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường với lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ.

      2. Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn:

      + Quỹ đóng
      Đây là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Hình thức quỹ đóng này mới được áp dụng tại Việt Nam, đó là Quỹ đầu tư VF1 do công ty VFM huy động vốn và quản lý.

      + Quỹ mở
      Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do tính chất đặc thù của nó là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam.

      3. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ:

      + Quỹ đầu tư dạng công ty
      Trong mô hình này, quỹ đầu tư là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn công ty quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý quỹ. Trong mô hình này, công ty quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi theo quy định của UBCKNN, quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân.

      + Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
      Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty, mô hình này quỹ đầu tư không phải là pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó, ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty) và ủy thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.


      Chức năng hoạt động của Công ty quản lý quỹ
      Theo khái niệm về công ty quản lý quỹ đầu tư (Fund Management) tại thị trường chứng khoán Mỹ, công ty quản lý quỹ là công ty chuyên trách thực hiện việc quản lý các quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư được tổ chức dưới dạng một công ty, phát hành cổ phần. Công ty đầu tư sử dụng nhà tư vấn đầu tư, hay người quản lý đầu tư đề quyết định loại chứng khoán nào sẽ đưa vào danh mục đầu tư của quỹ. Người quản lý quỹ đuợc toàn quyền quản lý danh mục đầu tư, mua bán chứng khóan phù hợp với các mục tiêu đầu tư của quỹ. Công ty quản lý quỹ được cấu trúc dưới hai dạng: quản lý quỹ đầu tư quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở.

      Ở Việt Nam, theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thì công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán có thể ở dạng quỹ công chúng hoặc quỹ thành viên, và là dạng đóng.

      Chức năng hoạt động và các sản phẩm của công ty quản lý quỹ

      Thực chất về hoạt động của công ty quản lý quỹ là thực hiện chức năng về quản lý vốn tài sản thông qua việc đầu tư theo danh mục đầu tư hiệu quả nhất làm gia tăng giá trị của quỹ đầu tư.


      a. Quản lý quỹ đầu tư (Asset management)

      - Huy động và quản lý vốn và tài sản
      - Tập trung đầu tư theo danh mục đầu tư
      - Quản lý đầu tư chuyên nghiệp

      Các quỹ đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia có kỹ năng và giàu kinh nghiệm người mà được lựa chọn định kỳ căn cứ vào tổng lợi nhuận họ làm ra. Những chuyên gia không tạo ra lợi nhuận sẽ bị thay thế. Một trong những nhân tố quan trọng trong việc chọn lựa quỹ đầu tư tốt là quỹ đó phải được quản lý tốt nhất.

      b. Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính

      - Thực hiện việc tư vấn đầu tư và tư vấn về quản trị cho các khách hàng
      - Hỗ trợ khách hàng tối ưu hóa các khoản đầu tư thông qua các công cụ tài chính
      - Tối ưu hóa các nguồn vốn cho các nhà đầu tư

      c. Nghiên cứu

      Thông qua việc phân tích đánh giá về thị trường, phân tích giá trị tài chính và giá trị đầu tư và hỗ trợ cho các hoạt động quản lý đầu tư và các tư vấn như đã nêu trên.

      Cơ chế giám sát của quỹ, công ty quản lý quỹ và các cơ quan chức năng

      a. Cơ quan quản lý chủ quan của công ty quản lý quỹ là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam giám sát toàn bộ các hoạt động của công ty quản lý quỹ, các quỹ đầu tư và các ngân hàng giám sát về mặt vĩ mô.

      b. Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư.

      c. Công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ việc đầu tư theo danh mục đầu tư được nêu trong cáo bạch của quỹ.

      d. Công ty kiểm toán thực hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan và chính xác tình hình hoạt động của quỹ đầu tư, bảo đảm sự minh bạch.

      Giá trị tài sản ròng và các loại phí
      Mỗi nhà đầu tư vào quỹ đều có mục tiêu đầu tư khác nhau, nhưng lý tưởng đối với tất cả các nhà đầu tư khi đầu tư vào quỹ là họ có thể nhận được lợi nhuận càng cao càng tốt bằng việc nhận cổ tức, hay giá trị tài sản đầu tư gia tăng hay cả hai. Giả sử với cùng điều kiện như nhau, thì khoản đầu tư nào có lợi nhuận cao hơn sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Nhưng để đánh giá hay so sánh lợi nhuận của các khoản đầu tư thì chúng ta sẽ làm như thế nào?
      Cách tốt nhất là chúng ta sẽ đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của các khoản đầu tư này. Kết quả hoạt động của một quỹ đầu tư dạng đóng và dạng mở sẽ được phản ánh qua tỷ lệ tăng giảm của giá trị tài sản ròng của chứng chỉ quỹ đầu tư hay nói cách khác là sự thay đổi giá của chứng chỉ quỹ đầu tư sẽ phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của quỹ đó trong một khoảng thời gian (tuy nhiên đối với quỹ đóng, phần trăm tăng giảm của giá chứng chỉ quỹ được xem là sự tăng giảm giá trị tài sản ròng của quỹ). Kết quả hoạt động kinh doanh của quỹ thường được phản ánh bằng tổng thu của quỹ, tổng thu này phản ánh việc tăng giảm giá trị tài sản ròng của quỹ hay sự tăng giảm giá chứng chỉ quỹ cũng như việc phân chia lợi nhuận của quỹ (lợi nhuận chia cho nhà đầu tư). Nó có thể được thể hiện bằng các con số trong một bảng thống kê hoặc được biểu diễn trên đồ thị, và nhà đầu tư có thể tra cứu giá trị này bằng nhiều nguồn khác nhau.

      Công thức để tính kết quả hoạt động kinh doanh được căn cứ vào tỷ lệ phần trăm tăng giảm của giá trị tài sản ròng của quỹ qua một khoảng thời gian được thể hiện rất đơn giản như sau:

      Trong đó:
      - P: Kết quả hoạt động (tính theo %)
      - B: Thị giá chứng chỉ quỹ tại phiên giao dịch cuối cùng vào thời điểm định giá
      - A: Thị giá chứng chỉ quỹ vào ngày giao dịch đầu tiên

      Giá trị tài sản ròng của chứng chỉ quỹ vào ngày giao dịch cuối cùng được tính bằng thương số của tổng tài sản trừ đi tổng nợ và tổng số chứng chỉ quỹ

      Các khoản phí

      Phí và chi phí của một quỹ đầu tư cho các dịch vụ quản lý và hành chính bao gồm 02 loại chính: loại mà nhà đầu tư chỉ trả khi họ bắt đầu tham gia và khi rút tiền khỏi quỹ, và loại chi phí trực tiếp lên quỹ.

      Có thể tóm tắt các khoản phí và chi phí như sau:

      Loại phí và chi phí Định nghĩa
      A. Phí mà nhà đầu tư chỉ trả khi họ bắt đầu tham gia và khi rút tiền khỏi quỹ
      Phí phát hành Phí trả cho công ty quản lý quỹ khi đăng ký mua chứng chỉ quỹ
      Phí hoàn tiền Phí trả cho công ty quản lý quỹ khi nhà đầu tư rút lại tiền từ quỹ

      B. Loại chi phí trực tiếp lên quỹ
      Phí quản lý hàng năm Phí trả hàng năm cho công ty quản lý quỹ cho việc quản lý đầu tư và điều hành quỹ, dựa trên phần trăm giá trị tài sản ròng trung bình của quỹ.
      Phí thành công Phí trả cho công ty quản lý quỹ dựa trên hoạt động của quỹ so với một mức lợi nhuận so sánh được một định mức đặt ra ban đầu, thông thường là tính theo tỷ lệ phần trăm trên phần vượt định mức.
      Chi phí của Ban đại diện Phí trả cho ban đại diện của quỹ.
      Phí giám sát, lưu ký Phí (thường dựa trên mức phần trăm của NAV trung bình hàng năm) và các chi phí trả cho ngân hàng giám sát, lưu ký.
      Phí dịch vụ cho các nhà đầu tư Chi phí đăng ký, hành chính, thanh toán cổ tức, v.v…
      Phí kiểm toán Phí trả cho công ty kiểm toán
      Phí định giá Phí trả cho công ty định giá, đánh giá độc lập
      Phí liên quan tới luật pháp Phí phải trả cho các đơn vị luật pháp
      Phí vay Chi phí, lãi vay cho các khoản vay của quỹ
      Thuế Bất kỳ loại thuế nào mà quỹ phải trả
      Đại hội nhà đầu tư Chi phí hội họp cho các nhà đầu tư
      Phí pháp lý Phí liên quan tới các hồ sơ thành lập, pháp lý
      Phí môi giới Chi phí trong việc giao dịch tài sản của quỹ
      Phí thành lập Thông thường cho các quỹ công ty, chi phí thành lập quỹ (bản cáo bạch, phí pháp lý, phí hành chính, vv…) và chi phí marketing (đối với hình thức quỹ đóng)

      Phí quản lý
      Quỹ đầu tư phải trả phí quản lý cho công ty quản lý quỹ hàng năm là từ 2% - 5% / giá trị tài sản thuần của quỹ, và được trả hàng tháng tương ứng bằng 1/12 của phí quản lý phải trả hàng năm (Khoản phí này được ghi rõ trong bản cáo bạch của từng quỹ)

      Thưởng khuyến khích
      Công ty quản lý quỹ đầu tư được hưởng một khoản thưởng khuyến khích nhằm mục đích khuyến khích việc quản lý quỹ có hiệu quả cao nhất.

      Thưởng khuyến khích được ấn định trên khoản lợi nhuận vượt so với lợi nhuận căn bản (lợi nhuận căn bản được xác định là lãi suất trái phiếu chính phủ do chính phủ phát hành hàng năm cộng thêm một khoản % nào đó) và được thanh toán cho công ty quản lý quỹ trong khoảng thời gian 14 ngày sau ngày Ban Đại Diện của quỹ phê duyệt các bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán của quỹ đầu tư trong năm, cách tính thưởng khuyến khích như sau:

      Công thức tính khoản lợi nhuận vượt (L) so với lợi nhuận căn bản:

      L = Q – [R+(R x S)]

      Trong đó:
      - Q: là giá trị tài sản ròng của quỹ đầu tư vào ngày 31/12 hàng năm và do tổ chức lưu ký công bố hoặc một công ty tài chính độc lập hay công ty kiểm toán được Ban Đại Diện của quỹ đầu tư chấp nhận.

      - R: là số vốn mà quỹ huy động được và đã ký hợp đồng với công ty quản lý quỹ trên cơ sở số vốn đó, (ví dụ: theo kế họach huy động vốn của bản cáo bạch này là 100 tỷ đồng và trong trường hợp 100 tỷ đồng sẽ được các nhà đầu tư mua hết, như vậy 100 tỷ đồng chính là R).

      - S: là lãi suất trái phiếu chính phủ phi rủi ro được nhà nước Việt Nam phát hành hàng năm cộng với một khoản % xác định trước (ví dụ: trái phiếu chính phủ được phát hành năm 2002 là 6.5%/năm cộng với 2%, vậy S của năm 2002 là 8.5%).
      Ví dụ: để tính số tiền thưởng khuyến khích (L) của công ty quản lý quỹ vào năm 2002, cách tính như sau:

      Q = 110 tỷ đồng.
      R = Số vốn được huy động là 100 tỷ đồng.
      S của 2002= 6.5% + 2% = 8.5%.

      Như vậy: L = 110 – [100 + (100 x 8.5%)].
      L = 1.5 tỷ đồng.

      => Thưởng khuyến khích của công ty quản lý quỹ trong năm 2002 là: 20% x 1.5 tỷ = 300 triệu đồng.


      Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ trong chiến lược chuyển đổi các tổng công ty nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh tế
      Để thực hiện việc đầu tư - kinh doanh chứng khoán trên thị trường tài chính, đòi hỏi công chúng và các nhà đầu tư không chỉ có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán (TTCK) mà còn phải thường xuyên quan tâm, theo dõi, bám sát thực trạng, phân tích xu hướng phát triển của thị trường vốn. Để làm được điều này đòi hỏi các nhà đầu tư phải tiến hành khảo sát thực tiễn, thu thập thông tin, tài liệu để tiến hành phân tích từng chứng khoán cụ thể, lập và quản lý danh mục đầu tư… nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.

      Với lĩnh vực nghiệp vụ, chuyên môn đặc biệt này, chỉ những chuyên gia và các nhà đầu tư chuyên nghiệp mới có thể thực hiện được. Vì vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư với khả năng hạn chế về tri thức, thông tin và công nghệ đã được giải quyết bởi quá trình hợp tác và phân công lao động xã hội trong hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán. Từ nhu cầu thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành từng bước những mối quan hệ kinh tế tất yếu trên cơ sở của sự phân công và phối hợp những quan hệ về sở hữu vốn, quản trị và điều hành việc sử dụng vốn đầu tư một cách có tổ chức... Cùng với nó, những người chủ sở hữu vốn đầu tư thành lập những tổ chức tài chính dưới mô hình như: “quỹ đầu tư”, “công ty đầu tư”, “công ty quản lý quỹ đầu tư”...

      Quỹ đầu tư (QĐT) và công ty quản lý quỹ đầu tư (CtyQLQ) ra đời xuất phát từ nhu cầu nội tại của thị trường tài chính và khi TTCK đã phát triển ở mức độ nhất định. Thực tiễn đã chứng minh rằng, mặc dù TTCK đã xuất hiện từ giữa thế kỷ XV nhưng các QĐT, CtyQLQ mới chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX đến nay.



      QĐT và CtyQLQ thường được hình thành một cách tuần tự, từ đơn giản đến phức tạp, quy mô từ nhỏ đến lớn và mô hình tổ chức - quản lý ngày càng hoàn thiện, phạm vi hoạt động từ quốc gia đến quốc tế. Lịch sử phát triển của các QĐT, CtyQLQ cho thấy, mô hình khởi điểm là các QĐT tập thể, chưa phải là pháp nhân, sau đó là thời kỳ phát triển của các QĐT dưới dạng công ty theo mô hình “đóng” rồi mới xuất hiện và phát triển dưới mô hình “mở”.

      Từ thực tiễn, sự phát triển không ngừng của các QĐT và CtyQLQ trên thị trường tài chính là một trong những kết quả trực tiếp của sự phát triển của phân công lao động xã hội trong lĩnh vực tài chính.

      Các QĐT và CtyQLQ đầu tư có những nhiệm vụ chủ yếu như sau:

      - Huy động vốn đầu tư;

      - Quản lý và thực hiện quá trình đầu tư trên cơ sở các nguồn vốn đã huy động được;

      - Lưu ký, bảo quản tài sản và tổ chức giám sát các hoạt động đầu tư;



      Để thực hiện những nhiệm vụ này, QĐT và CtyQLQ đầu tư phải giải quyết tốt những mối quan hệ trên TTCK, thị trường tiền tệ. Trong đó, có những mối quan hệ với các ngân hàng, công ty tài chính… với tư cách là tổ chức bảo lãnh phát hành, lưu ký, bảo quản tài sản, giám sát hoạt động của các CtyQLQ đầu tư hoặc thực hiện các hợp đồng ủy thác huy động vốn, quản lý danh mục đầu tư cho các QĐT.

      Những nội dung cơ bản của hoạt động đầu tư:

      Hoạt động đầu tư là nhiệm vụ quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại đối với mọi QĐT, CtyQLQ đầu tư. Vì vậy, để tiến hành đầu tư, các QĐT, CtyQLQ đầu tư phải tổ chức thực hiện nghiêm túc quy trình hoạt động đầu tư (theo Sơ đồ a)

      Để nghiên cứu đầu tư, các QĐT và CtyQLQ đầu tư sử dụng công cụ phân tích cơ bản, nhằm tập trung giải quyết những vấn đề vĩ mô như: phân tích sự tác động của lãi suất, tỷ giá, chính sách kinh tế - xã hội, các quan hệ kinh tế quốc tế… tác động tới hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán; phát hiện, dự đoán khuynh hướng phát triển và những biến động có thể sảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế - đặc biệt là đối với thị trường tài chính và triển vọng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Đồng thời, để tính toán khả năng sinh lời, triển vọng tăng trưởng, phân tích rủi ro đối với từng loại chứng khoán cụ thể; QĐT, CtyQLQ đầu tư sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật để thực hiện điều này.



      Mục tiêu đầu tư được xác định và thiết lập trên cơ sở những kết quả nghiên cứu thị trường và phân tích lợi nhuận, rủi ro theo quy trình như sơ đồ 3. Đồng thời, phải xuất phát từ khả năng tài chính, khả năng tham gia của các nhà đầu tư, những đặc điểm và mục tiêu thành lập quỹ... Trên cơ sở đó, phải xác định mục tiêu đầu tư là thu nhập, lãi vốn hay kết hợp cả hai mục tiêu này để bảo tồn và phát triển quỹ một cách hiệu quả nhất.

      Mục tiêu đầu tư được thực hiện thông qua các chiến lược đầu tư. Nghĩa là, chiến lược đầu tư phải được thành lập trên cơ sở mục tiêu đầu tư. Căn cứ vào mục tiêu đầu tư chủ động xây dựng chiến lược đầu tư để xác định cơ cấu tài sản (phân bố tài sản) và lựa chọn chứng khoán theo hướng năng động hoặc theo cơ cấu ổn định. Từ đó hình thành chiến lược đầu tư mang tính chủ động hay thụ động hoặc sử dụng chiến lược hỗn hợp cả hai thuộc tính này để hình thành danh mục đầu tư.

      Chiến lược đầu tư mang tính chủ động: áp dụng chiến lược này, danh mục đầu tư thường tập trung vào các công cụ tài chính mang tính mạo hiểm, mức độ rủi ro cao như đối với việc đầu tư - kinh doanh cổ phiếu, các công cụ tài chính phái sinh và liên quan nhiều đến yếu tố tạo lập thị trường.

      Với việc áp dụng chiến lược này, các nhà hoạch định kỳ vọng vào sự tăng trưởng về giá trị tương lai hoặc vào sự phát triển đột biến để lựa chọn ngành, lĩnh vực và các chứng khoán cụ thể. Điều này đòi hỏi phải sử dụng thuần thục cả hai loại công cụ phân tích nêu trên để có thể phát huy tính chủ động, không ngừng chuyển hóa cơ cấu tài sản và đổi mới chứng khoán.

      Ngược lại, chiến lược đầu tư mang tính thụ động thường dàn trải tài sản và đa dạng hóa chứng khoán trong danh mục đầu tư; nhằm bù đắp giữa lợi nhuận và rủi ro để có được thu nhập ổn định, hạn chế rủi ro đến mức có thể chấp nhận được đối với từng chứng khoán cụ thể. Với việc áp dụng chiến lược này, các nhà hoạch định thường phân bổ tài sản chủ yếu vào các công cụ tài chính có thu nhập tương đối ổn định như trái phiếu Chính phủ, hoặc thiết lập danh mục đầu tư theo kết cấu chỉ số. Về bản chất, đây chỉ là sự sao chép lại một cách thụ động mức lợi nhuận của toàn thị trường và không kỳ vọng vào loại hình chứng khoán và lĩnh vực kinh tế cụ thể nào, còn kết quả hoạt động đầu tư thì bị lệ thuộc vào diễn biến khách quan của thị trường. Trong những điều kiện đặc biệt, chiến lược này phát huy được hiệu quả đầu tư rất cao. Ví dụ, trong thời kỳ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) mới triển khai hoạt động ở Việt Nam, mặc dù các nhà đầu tư đã thực hiện chiến lược đầu tư một cách thụ động theo chỉ số cổ phiếu với danh mục đầu tư rất đơn điệu và chỉ tập trung vào cổ phiếu. Nhưng, do giá cả cổ phiếu liên tục tăng lên trong khoảng thời gian khá dài nên việc áp dụng chiến lược đầu tư thụ động là hợp lý, đơn giản và hiệu quả nhất.

      Các QĐT và CtyQLQ cũng có thể áp dụng chiến lược đầu tư mang tính hỗn hợp trên cơ sở phối hợp cả hai chiến lược nêu trên. Ví dụ, phát huy tính chủ động trong việc phân bố tài sản, thường xuyên thay đổi cơ cấu chứng khoán trong danh mục đầu tư nhưng trong việc lựa chọn chứng khoán thì nắm giữ các danh mục đầu tư theo chỉ số đối với từng loại chứng khoán cụ thể. Tính chất hỗn hợp của chiến lược đầu tư cũng có thể được thực hiện theo hướng thụ động trọng tâm. Để thực hiện chiến lược này, trọng tâm của danh mục đầu tư là những chứng khoán được lựa chọn theo chỉ số. Bộ phận còn lại của danh mục đầu tư được thực hiện theo phương thức chủ động.

      Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư; việc quản trị, điều hành QĐT, CtyQLQ đầu tư phải luôn luôn hướng vào các chỉ tiêu kinh tế cơ bản như: tổng thu nhập, tỷ lệ thu nhập, tổng chi phí, tỷ lệ chi phí và chất lượng hoạt động của bộ máy quản trị điều hành. Đồng thời, các QĐT, CtyQLQ đầu tư không chỉ khai thác và sử lý tốt các thông tin thị trường, mà còn phải cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ về tình hình tài chính và hoạt động QĐT, CtyQLQ đầu tư. Hội đồng quản trị phải cung cấp cho các NĐT các báo cáo về tình hình hoạt động đầu tư, tình hình tài chính. Nếu QĐT theo mô hình hợp đồng thì phải cung cấp cho nhà đầu tư các tài liệu báo cáo định kỳ của CtyQLQ đầu tư, báo cáo của người thụ ủy và các báo cáo tài chính (bao gồm: báo cáo về tài sản và công nợ, thu nhập và chi phí, sự thay đổi giá trị tài sản ròng…).

      Danh mục đầu tư thể hiện một cách tổng thể mục tiêu, chiến lược đầu tư, việc phân bố tài sản và lựa chọn chứng khoán không chỉ đối với các loại hình chứng khoán, ngành, lĩnh vực mà QĐT, CtyQLQ đầu tư quan tâm; mà còn thể hiện cả mục tiêu, phạm vi hoạt động của chúng trên thị trường tài chính thế giới. Danh mục đầu tư của các QĐT, CtyQLQ ở các nước trên thế giới trong những năm qua đã không chỉ tập trung việc phân bố tài sản và lựa chọn những chứng khoán ở các thị trường vốn phát triển mà còn tranh thủ những cơ hội đầu tư vào những TTCK đang phục hồi ở những quốc gia thực hiện việc chuyển đổi mô hình kinh tế (đặc biệt là đối với TTCK của một số nước Đông Âu, Nga và Trung Quốc).

      Tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) cũng đã bắt đầu quan tâm, tiến hành đầu tư, thành lập CtyQLQ ở Việt Nam để tận dụng những cơ hội đầu tư xuất hiện trên TTCK và trong quá trình cổ phần hóa (CPH) doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Năm 2003, lần đầu tiên ở Việt Nam, CtyQLQ đầu tư đã được thành lập, đó là Công ty Liên doanh QLQ đầu tư chứng khoán Việt Nam- VietFund Management (VFM). Đây là một liên doanh giữa Công ty Dragon Capital Management và Ngân hàng Thương mại (NHTM) Cổ phần Sài Gòn Thương Tín.

      QĐT và CtyQLQ đầu tư đối với việc chuyển đổi các Tổng công ty (TCty) nhà nước sang mô hình tập đoàn kinh tế

      Việc đổi mới các TCty nhà nước thành các tập đoàn kinh tế để thích ứng với những điều kiện của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, trước ngưỡng cửa của việc Việt Nam ra nhập WTO và của quá trình hội nhập, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đã trở thành một trong những nhiệm vụ trong tâm của cải cách khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

      Thực tiễn thế giới cho thấy, để tăng cường sự chủ động về vốn và phát triển lĩnh vực đầu tư tài chính, ngoài những “công ty con” là ngân hàng, công ty tài chính (CtyTC), các tập đoàn kinh tế phi ngân hàng còn có CtyQLQ đầu tư và hàng loạt các QĐT chứng khoán. CtyQLQ đầu tư (còn được gọi là CtyQLQ) và các QĐT đã và đang tạo tiền đề cho sự phát triển hùng mạnh của hầu hết các tập đoàn kinh tế (đặc biệt là đối với các công ty xuyên quốc gia - Trannationanl Corporations). Vì vậy, việc thành lập các QĐT và CtyQLQ đầu tư sẽ trở thành vấn đề tất yếu để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - đặc biệt là đối với việc chuyển đổi và phát triển các TCty nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh tế.

      Cho đến nay tất cả các TCty nhà nước đều chưa thành lập QĐT và CtyQLQ. Mặc dù đã có một vài TCty nhà nước thành lập CtyTC, nhưng với mô hình và phương thức hoạt động như hiện nay, các CtyTC ở các TCty nhà nước không thể đẩy mạnh lĩnh vực hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán. Điều này đã và đang diễn ra đối với những CtyTC của các TCty nhà nước có quy mô lớn nhất. Ví dụ: Theo mô hình tổ chức hiện nay, TCty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) có 117 đơn vị thành viên, bao gồm: các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị hạch toán độc lập, các đơn vị sự nghiệp và các công ty có vốn góp chi phối của VNPT. Trong đó, 70 đơn vị thành viên của VNPT hoạt động theo chế độ hạch toán phụ thuộc gồm 61 Bưu điện tỉnh, thành phố và 9 Công ty chuyên ngành. Những doanh nghiệp này chiếm trên 90% tổng vốn đầu tư phát triển hàng năm của VNPT và tạo ra gần 85% doanh thu của VNPT. Các đơn vị thành viên của VNPT có liên quan mật thiết với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông và các lĩnh vực liên quan đến việc phát triển ngành Bưu chính - Viễn thông. Năm 2003 tổng doanh thu của VNPT đạt 24.997 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu từ dịch vụ bưu chính - viễn thông chiếm 91,3%, nộp ngân sách nhà nước 4.145 tỷ đồng; nguồn vốn chủ sở hữu của VNPT đã lên tới 29.608 tỷ đồng. Để có được những thành tựu này, ngay từ khi thực hiện “Quy hoạch phát triển bưu chính viễn thông giai đoạn 1996-2000” VNPT đã vận dụng sáng tạo và triệt để chủ trương đa dạng hóa các nguồn vốn: thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC); liên doanh góp vốn với các đối tác nước ngoài, khai thác nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) và các nguồn vốn tín dụng từ các NHTM. Đồng thời, để khắc phục thói quen trông chờ vào các nguồn vốn từ TCty và để khai thác những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị thành viên, khai thác các nguồn vốn trên thị trường tài chính, thực hiện việc đầu tư tài chính, năm 1998 VNPT đã thành lập CtyTC Bưu điện (PTF) để kinh doanh tài chính thông qua các hoạt động như: huy động và cho vay vốn; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá; kinh doanh dịch vụ ngân quỹ…

      Mặc dù PTF đã tích cực hoạt động trong lĩnh vực tài chính nhưng cho đến nay hoạt động chủ yếu của PTF là thực hiện cho vay theo ủy thác, cho vay trực tiếp, cho vay đồng tài trợ còn đối với hoạt động đầu tư không đáng kể. Năm 2003, quy mô hoạt động đầu tư - kinh doanh chứng khoán và góp vốn liên doanh mua cổ phần mới chỉ đạt hơn 3 tỷ 107 triệu đồng. Thực trạng này cũng đang diễn ra tại các CtyTC hiện có ở các TCty nhà nước (CtyTC Dệt may, CtyTC Cao su, CtyTC Tàu thuỷ, CtyTC Dầu khí). Trong khi đó, tháng 8/2004 QĐT Chứng khoán Việt Nam (VF1) khi tổ chức khai trương đã huy động huy động đủ 300 tỷ đồng vốn điều lệ được phép phát hành. Như vậy có thể khẳng định rằng, một trong những nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ: các CtyTC không phải là doanh nghiệp chuyên hoạt động kinh doanh các sản phẩm tài chính dưới hình thức chứng khoán. Vì vậy, để có thể bắt nhịp và hoà nhập vào thị trường tài chính, đồng thời, để thúc đẩy sự chuyển đổi từ mô hình TCty sang mô hình tập đoàn dưới dạng “công ty mẹ-công ty con” việc thành lập QĐT chứng khoán và CtyQLQ là phù hợp với xu hướng phát triển và những tiềm năng hiện có của các TCty nhà nước.

      Kết luận

      QĐT và CtyQLQ đầu tư là tất yếu khách quan và là sản phẩm trực tiếp của quá trình phát triển của phân công lao động xã hội đối với thị trường tài chính. Hoạt động của QĐT, CtyQLQ đầu tư không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà còn phát triển trên phạm vi quốc tế - một trong những nhân tố của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thị trường tài chính hiện đại. Vì vậy, sự ra đời và phát triển của các QĐT, CtyQLQ ở Việt Nam là sản phẩm tất yếu của cải cách từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế thị trường. Căn cứ vào phương thức hoạt động, các QĐT có thể được thành lập theo mô hình “đóng” hoặc “mở”, dưới dạng “hợp đồng” hay “công ty”. Tuy nhiên, do những đặc điểm và các nhân tố của việc thiết lập quỹ được hình thành từng bước, cho nên, ở giai đoạn đầu phải thành lập các QĐT dưới dạng “hợp đồng” và tổ chức - quản lý theo mô hình “đóng”. Đồng thời, việc thành lập CtyQLQ có thể bắt đầu từ mô hình công ty tư vấn đầu tư chứng khoán.

      Kiến nghị

      Để thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của các TCty nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh tế, có thể, mỗi TCty nhà nước sẽ thành lập thí điểm một vài QĐT và chuẩn bị điều kiện để tiến tới việc thành lập CtyQLQ; các TCty nhà nước thành các tập đoàn kinh tế, các TCty nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ CPH theo hướng chuyển đổi sang mô hình tập đoàn kinh tế.

      Để đảm bảo tính chuyên nghiệp trong việc quản trị các danh mục đầu tư và nâng cao hiệu quả phần vốn đầu tư của các TCty tại công ty cổ phần (CtyCP) - (các doanh nghiệp trong ngành), các TCty nhà nước có thể giao cho các QĐT hoặc CtyQLQ thực hiện việc quản trị kinh doanh và quản lý tập trung vốn cổ phần của TCty tại các CtyCP./.

    5. #5
      Ngày tham gia
      Jul 2010
      Bài viết
      75
      Được cám ơn 4 lần trong 4 bài gởi

      Mặc định

      5. Tìm hiểu về quỹ đầu tư chứng khoán

      Thế nào là Quỹ đầu tư chứng khoán?

      Trong hoạt động kinh doanh, đầu tư được hiểu là việc cá nhân, tổ chức sử dụng tài sản để tiến hành hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu thu được lượng tài sản nhiều hơn trong tương lai. Lĩnh vực đầu tư rất phong phú, từ việc sản xuất, kinh doanh hàng hoá, đến việc góp vốn, mua cổ phần hay đơn giản là việc gửi tiết kiệm tại ngân hàng hoặc tham gia vào một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Một trong những lĩnh vực đầu tư rất hấp dẫn, không những về khả năng sinh lời mà còn ở tính hấp dẫn của nó, đó chính là đầu tư chứng khoán. Đầu tư chứng khoán được hiểu là việc một chủ thể nắm giữ chứng khoán để kỳ vọng vào lợi nhuận do chứng khoán đó mang lại trong tương lai. Lợi nhuận có thể thu được từ lãi chứng khoán đang nắm giữ hoặc chênh lệch từ hoạt động mua, bán chứng khoán.

      Tình huống: Ông Lợi quyết định mua 1000 chứng chỉ quỹ đầu tư mệnh giá 10000đ với giá 12000 đ/chứng chỉ vào ngày 31/12/2004. Lợi tức trả năm 2005 của quỹ là 10%. Sau khi nhận lợi tức, ông Lợi quyết định bán số chứng khoán này cho bà Nhuận, với mức giá 13500 đ/chứng chỉ.

      Như vậy, lợi nhuận mà ông Lợi thu được là:

      (13500 x 1000 + 10000 x 1000 x 10%) – 12000 x 1000 = 2500000 đ

      Cũng giống như các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư chứng khoán có thể được phân chia thành hai loại là đầu tư chuyên nghiệp và đầu tư không chuyên nghiệp.

      Đầu tư chuyên nghiệp là hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán như các công ty chứng khoán, ngân hàng hoặc những định chế đầu tư chuyên nghiệp khác. Những chủ thể này có nguồn vốn dồi dào, có kỹ năng chuyên môn và sẵn sàng chấp nhận rủi ro để thu lợi nhuận. Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thường có những dấu hiệu như:

      - Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động chính của chủ thể đó;

      - Hoạt động đầu tư chứng khoán mang lại nguồn thu nhập chính;

      - Nhà đầu tư chứng khoán có kiến thức và kỹ năng tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán.

      Những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thường được biết đến là các công ty chứng khoán tự doanh, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm và một số tổ chức tài chính khác.

      Bên cạnh những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, có những chủ thể có thể không đủ kiến thức hoặc kỹ năng để tự mình đầu tư, hoặc không coi đó là nghề nghiệp của mình nhưng vẫn có nguyện vọng tham gia đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán để tăng thu nhập. Những chủ thể này được gọi là những nhà đầu tư không chuyên nghiệp.

      Ông An là một nhà giáo đã nghỉ hưu. Ông có một khoản tiết kiệm và muốn nó sinh lời nhiều hơn so với việc ông gửi tiền vào ngân hàng. Ông quyết định đầu tư vào chứng khoán, nhưng ông không am hiểu lắm về lĩnh vực này. Thông qua tư vấn của luật sư, ông quyết định mở một tài khoản tại công ty chứng khoán ABC và uỷ thác việc đầu tư cho công ty này. Nhân viên hành nghề chứng khoán của công ty có trách nhiệm sử dụng tiền và chứng khoán trên tài khoản của ông An để mua, bán chứng khoán vì lợi ích của ông.

      Trong những trường hợp như vậy, những chủ thể này có thể đầu tư thông qua việc uỷ thác cho công ty chứng khoán hoặc tham gia góp vốn để hình thành một quỹ tài chính, gọi là Quỹ đầu tư chứng khoán.

      Quỹ đầu tư chứng khoán là mô hình đầu tư mà theo đó, nguồn vốn của quỹ được đầu tư chủ yếu vào chứng khoán và các nhà đầu tư uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quyền trực tiếp điều hành quỹ.

      Thực tiễn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển cho thấy, quỹ đầu tư hình thành trong rất nhiều lĩnh vực đầu tư khác nhau như khai thác kim loại quý, dầu mỏ v.v., nhưng quỹ đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán là phổ biến nhất. Ngay trong lĩnh vực chứng khoán, sự chuyên biệt trong lĩnh vực đầu tư cũng này càng rõ nét[1]. ở Mỹ, có khoảng 9000 quỹ đầu tư chứng khoán được thành lập dưới nhiều hình thức[2]. Tại Hàn Quốc, riêng quỹ đầu tư chứng khoán đầu tư vào trái phiếu đã có trên 500 quỹ khác nhau[3]. Tại Thái Lan hiện có trên 70 quỹ đầu tư chứng khoán, còn ở Malaysia có khoảng 17 triệu dân sở hữu chứng khoán của quỹ đầu tư chứng khoán

      [4].

      Xét một cách khái quát, mô hình quỹ đầu tư chứng khoán có những đặc điểm sau đây:

      Thứ nhất, quỹ đầu tư chứng khoán luôn dành đa số vốn đầu tư của Quỹ để đầu tư vào chứng khoán. Đặc điểm này phân biệt quỹ đầu tư chứng khoán với các loại quỹ đầu tư khác. Quỹ có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng và hợp lý theo quyết định của các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP quy định quỹ đầu tư chứng khoán phải dành tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào lĩnh vực chứng khoán. Ngoài việc chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán cũng có thể tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực khác như góp vốn, kinh doanh bất động sản v.v..

      Thứ hai, quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý và đầu tư một cách chuyên nghiệp bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Nói một cách khác, các nhà đầu tư đã uỷ thác cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán việc quản lý quỹ và tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ số vốn của quỹ. Công ty quản lý quỹ có thể cử ra một cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện việc quản lý quỹ gọi là nhà quản trị quỹ. Nhà quản trị được chọn thường phải là người có thành tích và được sự ủng hộ của đa số nhà đầu tư. Để đảm bảo công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tiến hành hoạt động đúng như mong muốn của các nhà đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán cần phải có một ngân hàng giám sát. Ngân hàng này sẽ thay mặt các nhà đầu tư để giám sát cũng như giúp đỡ quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động đúng mục tiêu mà các nhà đầu tư đã đề ra, tránh tình trạng công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhà đầu tư.

      Thứ ba, quỹ đầu tư chứng khoán có tài sản độc lập với tài sản của công ty quản lý quỹ và các quỹ khác do công ty này quản lý. Đặc điểm này đảm bảo việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán tuân thủ đúng mục đích đầu tư, không bị chi phối bởi lợi ích khác của công ty quản lý quỹ. Sự tách bạch về tài sản giữa công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán nhằm đảm bảo công ty quản lý quỹ hoạt động quản lý vì lợi ích của các nhà đầu tư vào quỹ chứ không vì mục đích của riêng mình. Từ yêu cầu tách bạch về tài sản đã chi phối rất lớn đến nội dung những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công ty quản lý quỹ.

      [5]

      Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán

      Quỹ đầu tư chứng khoán có thể được thành lập theo nhiều loại khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Sự phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán trên thế giới đã dẫn đến có nhiều tiêu chí để phân loại quỹ đầu tư chứng khoán.

      Phân loại theo phương thức huy động vốn và quyền quản lý

      Nếu phân loại theo phương thức huy động vốn thì quỹ đầu tư chứng khoán có hai loại là quỹ đại chúng (trước đây gọi là quỹ công chúng) và quỹ thành viên.

      Quỹ đại chúng

      Quỹ đại chúng là loại quỹ đầu tư chứng khoán được chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng. Quỹ đại chúng thường không bị pháp luật giới hạn về số lượng nhà đầu tư tối đa vào quỹ. Tuy nhiên, do số lượng các nhà đầu tư lớn nên quỹ đại chúng có nhiều giới hạn đầu tư do pháp luật quy định nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn vốn các nhà đầu tư vào quỹ. Trên thế giới, quỹ đại chúng có nhiều dạng khác nhau. Cách phân loại phổ biến dựa vào tiêu chí nghĩa vụ của quỹ đối với nhà đầu tư, theo đó, quỹ đại chúng có hai loại là quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở.

      [6]

      Quỹ đại chúng dạng đóng là loại quỹ mà theo đó, quỹ không có nghĩa vụ mua lại chứng chỉ quỹ đầu tư được phát hành ra công chúng theo yêu cầu của nhà đầu tư. Do vậy, nhà đầu tư chỉ có thể thu hồi số vốn đầu tư bằng cách chuyển nhượng chứng chỉ quỹ đầu tư cho nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán

      [7].

      Quỹ đại chúng dạng mở là loại quỹ mà theo đó, quỹ có nghĩa vụ mua lại chứng chỉ quỹ đầu tư theo yêu cầu của nhà đầu tư. Loại quỹ này có số vốn và số thành viên luôn biến động, nên thường chỉ xuất hiện ở những quốc gia có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, Canada, Anh, Đức, Nhật Bản v.v..

      Pháp luật chứng khoán ở một số quốc gia quy định, quỹ đại chúng dạng đóng chỉ được phép phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi thành lập quỹ, còn quỹ đại chúng dạng mở có thể phát hành chứng chỉ quỹ nhiều lần. Vấn đề này chưa được Luật chứng khoán 2006 quy định một cách rõ ràng.

      Ưu điểm của quỹ đại chúng

      - Thứ nhất, quỹ đại chúng có khả năng huy động vốn rộng rãi thông qua việc chào bán chứng khoán ra công chúng. Điều này cho phép quỹ có thể được niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung và như vậy, khả năng thu hút các nhà đầu tư và làm gia tăng giá trị cho chứng chỉ quỹ. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư còn ưa thích loại quỹ này ở khả năng thanh khoản cao của chứng chỉ quỹ.

      - Thứ hai, quỹ đại chúng có khả năng thu hút được những nhà đầu tư nhỏ và không chuyên nghiệp. Mặc dù từng nhà đầu tư không chuyên nghiệp có thể không có nhiều vốn, nhưng thực tế đã cho thấy lượng vốn do những chủ thể này nắm giữ trong nền kinh tế là rất đáng kể. Nếu quỹ thu hút được nguồn vốn này, sức mạnh tài chính của quỹ sẽ tăng lên rất nhiều.

      - Thứ ba, đối với công ty quản lý quỹ, quỹ đại chúng chính là mô hình đầu tư mà công ty có cơ hội thể hiện hết khả năng quản lý của mình, do được các nhà đầu tư trao quyền điều hành quỹ hàng ngày. Chính vì vậy, chiến lược đầu tư của công ty quản lý được thực thi một cách dễ dàng hơn, thuận lợi hơn so với mô hình quỹ thành viên.

      Nhược điểm của quỹ đại chúng

      - Thứ nhất, quỹ đại chúng có số lượng nhà đầu tư tham gia lớn nên có thể gây ảnh hưởng đến giá trị của quỹ vì hai nguyên nhân:

      (i) Việc mua bán chứng chỉ quỹ diễn ra liên tục và do đó, có thể làm ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến hình ảnh của quỹ.

      (ii) Đối với quỹ đại chúng dạng mở, việc số lượng nhà đầu tư và giá trị ròng của quỹ luôn biến đổi có thể làm sai lệch các biện pháp đầu tư hoặc vi phạm các giới hạn tài chính do pháp luật quy định

      - Thứ hai, quỹ đại chúng thường chịu sự giám sát khá chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ. Pháp luật thường có những yêu cầu đối với quỹ đại chúng cao hơn so với quỹ thành viên.

      Quỹ thành viên

      Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán được lập bằng vốn góp của một số nhà đầu tư nhất định và không phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng. Nhà đầu tư vào quỹ thành viên được gọi là thành viên góp vốn hay thành viên quỹ đầu tư. Pháp luật thường có quy định giới hạn số lượng thành viên góp vốn của Quỹ thành viên. Luật chứng khoán năm 2006 quy định quỹ thành viên có tối đa không quá 30 thành viên và tất cả thành viên phải là pháp nhân. Thành viên của quỹ thông thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có năng lực tài chính mạnh như công ty tài chính, ngân hàng hoặc doanh nghiệp bảo hiểm. Các thành viên góp vốn có quyền tham gia quản lý quỹ nhiều hơn so với nhà đầu tư trong quỹ đại chúng, đồng thời khả năng chịu đựng rủi ro cũng tốt hơn nên quỹ thành viên không chịu nhiều hạn chế đầu tư như quỹ công chúng.

      Ưu điểm của quỹ thành viên

      - Thứ nhất, quỹ thành viên thường đưa ra những quyết định quan trọng một cách nhanh chóng do số thành viên ít nên dễ nhóm họp hơn. Bên cạnh đó, tính chuyên nghiệp của những thành viên và kiến thức chuyên môn của họ là một nhân tố quyết định đến sự thành công của quỹ.

      - Thứ hai, thành viên của quỹ có quyền năng cao hơn trong điều hành quỹ so với quỹ đại chúng. Pháp luật cũng không có những đòi hỏi khắt khe đối với quỹ trong hoạt động đầu tư chứng khoán như đối với quỹ đại chúng.

      Nhược điểm của quỹ thành viên

      - Thứ nhất, quỹ thành viên thường không dành cơ hội cho những nhà đầu tư nhỏ tham gia. Những nhà đầu tư nhỏ không thể có đủ khả năng góp những khoản vốn lớn để đảm bảo nguồn vốn của quỹ.

      - Thứ hai, quỹ thành viên không bắt buộc phải có ngân hàng giám sát, do đó, nếu cơ chế quản lý lỏng lẻo, có thể sẽ không kiểm soát được một cách tốt nhất những rủi ro trong đầu tư hay ngăn chặn những hành vi gian lận từ công ty quản lý quỹ hoặc của nhân viên.

      Phân loại theo tư cách chủ thể của quỹ

      Phân loại theo tư cách chủ thể của quỹ thì Quỹ đầu tư chứng khoán có hai loại là quỹ không có tư cách chủ thể và quỹ có tư cách chủ thể.

      Quỹ không có tư cách chủ thể

      [8] là loại quỹ do công ty quản lý quỹ thành lập và không phải là một chủ thể pháp luật. Mọi hoạt động của quỹ đều do công ty quản lý quỹ thực hiện trên cơ sở thoả thuận với các nhà đầu tư vào quỹ. Bản chất của quỹ đầu tư chứng khoán không có tư cách chủ thể là một quỹ tài chính, chứ không phải là một công ty. Tuy nhiên, nguồn vốn của quỹ lại không phải là nguồn vốn của công ty quản lý quỹ. Nó được quản lý một cách độc lập với nguồn vốn các quỹ khác và nguồn vốn của công ty quản lý quỹ. Theo Luật chứng khoán 2006, loại quỹ này được gọi là Quỹ đầu tư chứng khoán.

      Quỹ có tư cách chủ thể là một loại quỹ được thành lập dưới dạng công ty, gọi là công ty đầu tư hoặc công ty đầu tư chứng khoán (investment company)[9]. Công ty đầu tư chứng khoán là công ty cổ phần được thành lập theo sự cho phép của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, có hoạt động đầu tư chủ yếu vào chứng khoán. Luật chứng khoán năm 2006 đã quy định về địa vị pháp lý của mô hình này, và đây được coi là một trong những sự khác biệt cơ bản của Luật chứng khoán năm 2006 với những văn bản pháp luật chứng khoán trước đây. Cuốn sách này không đi sâu vào nghiên cứu mô hình đầu tư này, mà chỉ nghiên cứu về mô hình quỹ đầu tư không có tư cách chủ thể (hay Quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật chứng khoán 2006). Việc phân biệt này chỉ giúp độc giả hiểu đầy đủ bản chất của mô hình quỹ đầu tư chứng khoán mà thôi.

      [10]

      Phân loại theo mục tiêu đầu tư của quỹ

      Nếu phân loại theo mục tiêu đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán rất đa dạng về loại hình. Sau đây xin được nêu một số loại quỹ đầu tư phổ biến trên thị trường chứng khoán ở các nước có nền kinh tế phát triển:

      Quỹ đầu tư trái phiếu

      Đây là loại quỹ đầu tư mà chứng khoán do nó nắm giữ là các loại trái phiếu, bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Đầu tư vào trái phiếu được coi là giải pháp đầu tư khá an toàn, vì nó luôn bao hàm khả năng được hoàn trả từ phía những chủ thể phát hành trái phiếu. Đổi lại, mức lợi tức mà quỹ thu được lại không cao nên không phải lúc nào cũng hấp dẫn được các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các quỹ này lại có một ưu điểm là chi phí quản lý thấp do sự ổn định của việc đầu tư, và thường được ưu đãi về thuế hơn các lĩnh vực đầu tư khác.

      Quỹ đầu tư mạo hiểm

      Loại quỹ đầu tư chuyên tìm kiếm và đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh mới mẻ hoặc những công ty mới được thành lập. Việc đầu tư như vậy có thể đem đến những rủi ro nhiều hơn cho quỹ, nhưng đổi lại, nếu thành công thì mức độ lợi nhuận sẽ cao hơn bình thường. Nhìn chung, mặc dù gọi là đầu tư mạo hiểm nhưng việc đầu tư này không phải là đánh bạc mà luôn có sự cân nhắc, tính toán cụ thể dựa trên những thông tin có thể tin cậy. Trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, trình độ của quản trị viên giữ một vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của quỹ.

      Quỹ đầu tư ngành kinh doanh

      Quỹ đầu tư ngành kinh doanh là loại quỹ chuyên đầu tư vào chứng khoán của một hoặc một số ngành nhất định như dầu mỏ, điện tử, công nghệ thông tin, v.v.. Việc đầu tư theo ngành thể hiện mối quan tâm của nhà đầu tư và sự hiểu biết của quản trị viên về một ngành nghề nhất định. Đôi khi, các quỹ đầu tư theo ngành sẽ đầu tư vào những ngành có liên quan với nhau nhằm hạn chế rủi ro, ví dụ như đầu tư vào lĩnh vực dầu mỏ và vận tải. Nếu dầu mỏ giảm giá thì đồng nghĩa với việc ngành vận tải sẽ làm ăn phát đạt và ngược lại.

      Quỹ đầu tư có mục tiêu đạo đức

      Đây là loại quỹ đầu tư đặt mục tiêu đạo đức không thấp hơn mục tiêu lợi nhuận. Quỹ tập trung đầu tư theo những tiêu chí đạo đức mà quỹ đặt ra. Ví dụ: quỹ có thể chỉ đầu tư cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều người lao động là đối tượng chính sách, hoặc cho những doanh nghiệp trên địa bàn kinh tế còn nhiều khó khăn v.v.. Cần nhấn mạnh rằng, đây không phải là một quỹ từ thiện. Đơn giản là, các nhà đầu tư mong muốn kết hợp mục tiêu lợi nhuận với mục tiêu xã hội trong hoạt động đầu tư mà thôi.

      Quỹ đầu tư chủ động

      Đây là loại quỹ đầu tư mà chiến lược đầu tư thường xuyên thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình đầu tư trên thị trường chứng khoán. Những quỹ đầu tư chủ động cần đến những nhà quản trị tài ba kể cả về sách lược và chiến lược đầu tư. Hơn những thế, thông tin và phương pháp xử lý thông tin cũng góp phần quan trọng vào thành công của quỹ.

      Quỹ đầu tư thụ động

      Ngược lại với quỹ đầu tư chủ động, quỹ đầu tư thụ động coi trọng tính ổn định của danh mục chứng khoán do quỹ nắm giữ. Quỹ tuân thủ những tiêu chí nhất định khi xây dựng danh mục này và thường không có sự thay đổi lớn. Mặc dù có phương pháp tiếp cận ngược hẳn với quỹ đầu tư chủ động, nhưng thực tiễn cho thấy ở Hoa Kỳ, sự thành công của hai dạng quỹ này là ngang nhau.

      Rõ ràng với cách phân loại này, không thể kể hết các loại quỹ đầu tư chứng khoán. Thực chất, mỗi quỹ đầu tư đều có một phương thức đầu tư nhất định và điều quan trọng là nó đem lại sự hài lòng cho các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ, chủ yếu trên hai phương diện là phương thức đầu tư và lợi nhuận thu được.

    6. #6
      Ngày tham gia
      Jul 2010
      Bài viết
      75
      Được cám ơn 4 lần trong 4 bài gởi

      Mặc định 6. Đánh giá kết quả hoạt động (theo quan điểm CAPM)

      6. Đánh giá kết quả hoạt động (theo quan điểm CAPM)

      1) Thước đo của Sharpe: Thể hiện tỷ suất lợi nhuận thực tế dưới dạng tỷ suất lợi nhuận vượt trội so với lợi nhuận phi rủi ro trên một đơn vị rủi ro của danh mục (tối đa hóa hệ số Sharpe tương đương với việc tối đa hóa độ dốc của đường CML)
      S= (Ri − Rf)/σi
      2) Thước đo của Treynor:
      Hệ số phần bù cho độ biến động (được giải thích bằng đồ thị SML)
      T= (Ri – Rf)/βi
      3) Hệ số Alpha của Jensen
      Thước đo này dùng để thể hiện sự khác nhau giữa lợi nhuận vượt quá thực tế hoặc kỳ vọng (nếu dương thể hiện lợi nhuận vượt quá khả năng và ngược lại)
      α p = (Ri − Rf) − βp*(Rm − Rf)
      4) Hệ số Treynor-Black (Hệ số này chính là hệ số Alpha của Jensen đối với độ rủi ro không hệ thống)
      Do việc quản lý chủ động tạo ra sự lựa chọn chứng khoán tốt hơn, độ lệch so với chỉ số tạo ra rủi ro có thể đa dạng hóa σε. Hệ số này cung cấp cách đo điều chỉnh rủi ro thể hiện khả năng của người quản lý trong việc lựa chọn chứng khoán.
      APp = αp/σε

    7. #7
      Ngày tham gia
      Jul 2010
      Bài viết
      75
      Được cám ơn 4 lần trong 4 bài gởi

      Mặc định 7.Ứng dụng lý thuyết hiện đại trong quản lý danh mục đầu tư

      7.Ứng dụng lý thuyết hiện đại trong quản lý danh mục đầu tư

      Tại Việt Nam việc ứng dụng các lý thuyết hiện đại vào quản lý danh mục đầu tư còn là một vấn đề khá mới và chưa thật sự mang tính chuyên nghiệp.
      Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, tất yếu sẽ tồn tại các doanh nghiệp làm ăn rất hiệu quả. Đồng vốn dư thừa của họ sẽ có xu hướng chảy vào những lĩnh vực đầu tư hấp dẫn hơn. Đầu tư chứng khoán ra đời để giải quyết nhu cầu đó. Khi đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, nhà đầu tư có thể đầu tư cùng một lúc vào nhiều sản phẩm khác nhau chứ không nhất thiết họ phải phụ thuộc vào một vài sản phẩm cố định như khi họ đầu tư thực. Đầu tư chứng khoán không chỉ làm mở rộng môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư mà tự thân nó len lỏi vào từng ngõ ngách trong nền kinh tế thu hút đầu tư dòng vốn cực nhỏ cho đến nguồn lực dồi dào nhất. Tại Việt Nam việc ứng dụng các lý thuyết hiện đại vào quản lý danh mục đầu tư còn là một vấn đề khá mới và chưa thật sự mang tính chuyên nghiệp.

      Tất cả các quyết định đầu tư đều được cân nhắc dưới góc độ rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong đợi và những tác động của chúng trên giá chứng khoán cũng như kết quả tài chính cuối cùng đạt được trong quyết định đầu tư. Ở một số quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển, từ rất lâu nhà đầu tư đã biết áp dụng nguyên tắc “không bỏ trứng vào cùng một rổ”, thông qua mô hình quản lý danh mục đầu tư hiệu quả kết hợp lý luận có liên quan đến rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong đợi (Mô hình định giá tài sản vốn - CAMP) và lý thuyết định giá chênh lệch (APT) để lựa chọn tập hợp chứng khoán hiệu quả nhất.Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của danh mục, nhà đầu tư phải đánh giá dựa trên hai yếu tố quan trọng: đó là rủi ro và tỷ suất sinh lợi. Tất cả các quyết định đầu tư đều dựa trên hai yếu tố này và những tác động của chúng đối với vốn đầu tư.

      Rủi ro được xem như là khả năng xuất hiện các khoản thiệt hại về tài chính. Những chứng khoán nào có khả năng xuất hiện những khoản lỗ lớn được xem như có rủi ro cao hơn chứng khoán có khả năng xuất hiện những khoản lỗ thấp hơn. Vì vậy, rủi ro được mô tả bằng sự biến đổi của các tỷ suất sinh lợi của chứng khoán đó trong thời kỳ nghiên cứu.

      Tỷ suất sinh lợi của chứng khoán chịu tác động của rất nhiều yếu tố rủi ro, những yếu tố này có thể bị triệt tiêu hoàn toàn thông qua việc kết hợp danh mục đầu tư hiệu quả của nhiều chứng khoán được gọi là rủi ro không hệ thống, phần lợi nhuận mong đợi để bù đắp cho loại rủi ro này chính là phần bù rủi ro chứng khoán bx (Xm – Xf). Loại rủi ro không thể triệt tiêu được gọi là rủi ro hệ thống, phần lợi nhuận mong đợi tương ứng với loại rủi ro này chính là tỷ suất sinh lợi phi rủi ro Xf.

      Mô hình APT

      Vào thập niên 1970 S.A Ross đã triển khai mô hình APT (Arbitrage pricing theory) trong việc mua bán các loại chứng khoán hàng hoá khối lượng lớn, ngoại tệ giữa các thị trường để hưởng chênh lệch giá..Lý thuyết APT cho rằng tỷ suất sinh lợi của chứng khoán là một hàm số tuyến tính của tập hợp các yếu tố có khả năng xảy ra rủi ro đến tỷ suất sinh lợi của chứng khoán.

      CAPM (Capital asset pricing model) được phát triển trong đầu thập kỷ 60. Thay thế cho CAPM, lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá (APT) đã được phát triển trong thời gian gần đây. Vì mục đích của nhà đầu tư, những khác nhau giữa hai mô hình xuất phát từ cách xử lý của APT đối với sự phụ thuộc giữa tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán. APT cho rằng tỷ suất sinh lợi của chứng khoán được tạo bởi một số các nhân tố của toàn ngành và toàn thị trường. Mối tương quan giữa một cặp chứng khoán xảy ra khi hai chứng khoán này bị ảnh hưởng bởi cùng một hay nhiều nhân tố. Ngược lại, CAPM cho phép các chứng khoán tương quan lẫn nhau, nó không chỉ rõ các nhân tố tạo ra sự tương quan này.

      Cả APT và CAPM hàm ý mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ suất sinh lợi kỳ vọng và rủi ro. Theo ý kiến (có phần hơi thiên lệch) của chúng tôi, APT cho phép mối quan hệ này được phát triển theo một cách thức trực quan riêng biệt. Ngoài ra APT nhìn nhận rủi ro một cách khái quát hơn chứ không thuần túy là độ lệch chuẩn hay beta của chứng khoán tương ứng với danh mục thị trường. Vì vậy chúng tôi đưa ra cách tiếp cận này như là một sự thay thế cho CAPM.

      Thành phần của mô hình: Thông tin được công bố, sự đột biến, và tỷ suất sinh lợi mong đợi.

      Để cụ thể hơn, giả sử chúng ta xem xét tỷ suất sinh lợi cổ phiếu của công ty F. Điều gì sẽ xác định tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu này trong tháng tới?

      Tỷ suất sinh lợi của bất kỳ cổ phiếu nào giao dịch trên thị trường tài chính cũng bao gồm 2 phần. Phần thứ nhất gọi là tỷ suất thông thường hay tỷ suất kỳ vọng của cổ phiếu mà các cổ đông trên thị trường tiên đoán hay mong đợi. Tỷ suất này phụ thuộc vào tất cả các thông tin gắn liền với cổ phiếu mà các cổ đông tiếp cận được, và nó sử dụng tất cả những hiểu biết của chúng ta về những yếu tố sẽ tác động lên cổ phiếu vào tháng tiếp theo. Phần thứ hai được gọi là tỷ suất sinh lợi rủi ro hay không chắc chắn của cổ phiếu. Thành phần này do những thông tin được hé mở trong tháng. Không thể liệt kê hết những thông tin này, ví dụ:

      - Tin tức về nghiên cứu mới của công ty.

      - Số liệu thống kê về GNP được chính phủ công bố.

      - Phát hiện sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh.

      - Thông tin về sự tăng trưởng doanh số của công ty cao hơn dự kiến.

      - Sự sụt giảm đột biến của lãi suất.

      . . .

      Cần thận trọng khi nghiên cứu những tác động của những thông tin kể trên hay những tin tức khác đối với tỷ suất sinh lợi. Đơn cử như chính phủ phải cung cấp số liệu về GNP hay tỷ lệ thất nghiệp cho tháng này, nhưng hiện nay các cổ động nắm được đến mức độ nào về những thông tin trên? Chắc chắn rằng vào đầu tháng các cổ đông chỉ có thể tiên đoán GNP tháng này là bao nhiêu. Trong phạm vi tiên đoán của các cổ đông về các công bố của chính phủ thì những tiên đoán này là nhân tố của tỷ suất sinh lợi mong đợi vào đầu tháng. Mặt khác, ở mức độ các công bố bất ngờ của chính phủ và trong phạm vi tác động đến lợi nhuận của cổ phiếu, các công bố sẽ là một phần của U, phần không thể tiên liệu của tỷ suất sinh lợi.

      Bất kỳ một công bố nào có thể được chia làm 2 phần, phần dự đoán hay mong đợi và phần đột biến: Công bố = Phần mong đợi + Đột biến

      Phần mong đợi của bất kỳ một công bố nào là một phần của thông tin mà thị trường sử dụng để tạo lập tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của cổ phiếu (R). Phần đột biến của thông tin tác động đến tỷ suất sinh lợi không mong đợi của cổ phiếu (U)...

      Cần lưu ý rằng rủi ro trong một danh mục lớn và phân tán hóa đúng mức là các rủi ro hệ thống bởi vì rủi ro phi hệ thống đã bị phân tán hóa hoàn toàn. Có một sự ngầm hiểu rằng khi một cổ đông sử dụng phân tán hóa đầy đủ quan tâm đến việc nắm giữ một cổ phiếu nào đó thì anh ta có thể bỏ qua rủi ro phi hệ thống của chứng khoán đó


      Các danh mục và các mô hình nhân tố

      Chúng ta hãy xem điều gì sẽ xảy ra với một danh mục cổ phiếu khi mỗi cổ phiếu thành phần tuân theo mô hình một nhân tố. Để bàn luận, chúng ta sẽ chọn một tháng kế tiếp và quan sát tỷ suất sinh lợi. Lẽ ra chúng ta cũng có thể sử dụng một ngày hay một năm hay một khoảng thời gian bất kỳ. Tuy nhiên nếu là khoảng thời gian năm giữa những quyết định chúng ta nên chọn khoảng thời gian ngắn, một tháng là khung thời gian lý tưởng cần chọn.

      Chúng ta sẽ tạo những danh mục từ n cổ phiếu, và sử dụng mô hình một nhân tố để đo lường rủi ro hệ thống. Do đó cổ phiếu thứ i trong danh sách sẽ có tỷ suất sinh lợi là

      Ri = Ri + b iF + e (1)

      trong đó i đại diện cho cổ phiếu thứ i. Chú ý rằng yếu tố F không có chỉ số dưới. Nhân tố đại diện cho rủi ro hệ thống có thể là sự đột biến trong GNP, hay chúng ta có thể sử dụng mô hình thị trường và chênh lệch giữa tỷ suất sinh lợi của S&P 500 và kỳ vọng của chúng ta về tỷ suất này, RS&P500 - RS&P500 làm nhân tố. Trong cả hai trường hợp, nhân tố được chọn áp dụng cho tất cả các cổ phiếu.

      bi được đặt chỉ số dưới bởi vì nó thể hiện một cách đơn nhất mà nhân tố tác động đến cổ phiếu. Để tóm tắt bàn luận của chúng ta, nếu bằng không, tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu thứ i sẽ là : Ri = Ri + ei

      Với ý nghĩa rằng tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu thứ i không bị tác động bởi nhân tố, F, nếu bi bằng không. Nếu bi dương những biến động tăng giảm của nhân tố sẽ làm tăng giảm tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu i. Ngược lại nếu bi âm tỷ suất lợi nhuận và nhân tố sẽ vận động ngược chiều.

      Bây giờ chúng ta hãy xây dựng một danh mục trong đó mỗi cổ phiếu tuân theo mô hình một nhân tố và xem điều gì sẽ xảy ra. Cho Xi là tỷ lệ chứng khoán i trong danh mục. Do X thể hiện phần đầu tư của chúng ta vào mỗi cổ phiếu nên sẽ có tổng số là 100% hay 1. Ta có:

      X1 + X2 +......+ XN =1

      Chúng ta biết rằng tỷ suất sinh lợi của danh mục bằng trung bình trọng số của các tỷ suất sinh lợi của từng chứng khoán cấu thành danh mục. Ta có thể viết lại theo đại số như sau:

      RP = X1R1 + X2R2 + X3R3 + ..... XNRN (2)

      Chúng ta đã thấy trong phương trình (1) mỗi cổ phiếu lại bị tác động bởi cả nhân tố F và rủi ro không hệ thống ei. Do đó thay thế mỗi Ri từ phương trình (1) vào phương trình (2) ta có:

      Rp = X1(R1 + b1F + e1) + X2 (R2 + b2F + e2) + X3(R3 + b3F + e3) + ... ... + XN(RN + bNF + eN) (3) .

      Phương trình cho chúng ta thấy rằng tỷ suất sinh lợi của danh mục được xác định bởi ba tập hợp các tham số:

      1. Tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của mỗi chứng khoán thành phần, Ri

      2. Tích số giữa Beta và nhân tố F, biF

      3. Rủi ro phi hệ thống của mỗi chứng khoán, ei.

      Chúng ta có thể viết lại phương trình (3) theo tập hợp 3 tham số như sau:

      Rp = X1R1 + X2R2 + X3R3 + ...... + XNRN

      + (X1b1 + X2b2 + X3b3 +......+ XNbN)F

      + X1e1 + X2e2 + X3e3 + .......+ XNeN (4)

      Phương trình tuy khá dài dòng nhưng dễ hiểu. Hàng đầu tiên là trung bình trọng số tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của mỗi chứng khoán. Các phần tử trong ngoặc đơn của hàng thứ hai là trung bình trọng số các beta của các chứng khoán. Số trung bình này được nhân với nhân tố F. Hàng thứ ba biểu hiện trung bình trong số rủi ro phi hệ thống của các chứng khoán.

      Các danh mục và sự phân tán rủi ro

      Do các nhà đầu tư thường cầm giữ các danh mục phân tán hóa rủi ro nên phương trình (4) sẽ như thế nào trong trường hơp một danh mục lớn hay phân tán hóa rủi ro. Mặc dù chúng ta đang nói đến đầu tư chứng khoán không phải may rủi như trò chơi quay số nhưng một số nguyên lý chung vẫn được áp dụng. Mỗi chứng khoán có rủi ro phi hệ thống riêng trong đó sự đột biến không tương quan với sự đột biến của chứng khoán khác. Bằng cách đầu tư chia nhỏ trong cho mỗi chứng khoán, rủi ro phi hệ thống trung bình sẽ tiến đến không đối với một danh mục lớn. Cho dù hàng thứ ba sẽ triệt tiêu hoàn toàn trong một danh mục lớn, không có gì bất thường đối với hàng thứ nhất và hàng thứ hai. Hàng thứ nhất vẫn là trung bình trong số tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của các chứng khoán được chọn vào danh mục. Do không có sự đột biến nào ở hàng thứ hai nên chúng ta không thể phân tán hóa nhằm triệt tiêu hàng này. Các phần tử trong ngoặc đơn của hàng thứ hai vẫn là trung bình trọng số của các beta. Chúng vẫn không bị triệt tiêu khi chúng ta tăng số lượng các chứng khoán. Bởi vì nhân tố F không bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng các chứng khoán trong danh mục nên hàng thứ hai không thể bị triệt tiêu.

      Tại sao hàng thứ ba bị triệt tiêu trong khi hàng thứ hai thì không mặc dù cả hai hàng đều biểu hiện sự không chắc chắn? Điểm mấu chốt là có nhiểu rủi ro phi hệ thống ở hàng thứ 3. Do bởi những rủi ro này độc lập với nhau nên tác động của phân tán hóa càng lớn khi chúng ta chọn thêm nhiều chứng khoán vào danh mục. Danh mục này càng ít rủi ro hơn và tỷ suất sinh lợi trở nên chắc chắn hơn. Tuy nhiên rủi ro hệ thống tác động đến mọi chứng khoán do nó nằm ngoài ngoặc đơn trong hàng thứ hai. Do nhà đầu tư không thể tránh được nhân tố này khi đầu tư vào nhiều chứng khoán nên sự phân tán hóa không thể diễn ra trong hàng này.

      Cần lưu ý rằng rủi ro trong một danh mục lớn và phân tán hóa đúng mức là các rủi ro hệ thống bởi vì rủi ro phi hệ thống đã bị phân tán hóa hoàn toàn. Có một sự ngầm hiểu rằng khi một cổ đông sử dụng phân tán hóa đầy đủ quan tâm đến việc nắm giữ một cổ phiếu nào đó thì anh ta có thể bỏ qua rủi ro phi hệ thống của chứng khoán đó. Các cổ phiếu cũng như một danh mục không có rủi ro phi hệ thống. Cũng như chúng ta không nói rằng rủi ro phi hệ thống sẽ không tác động gì đến tỷ suất sinh lời của chúng. Cổ phiếu luôn có rủi ro phi hệ thống và tỷ suất sinh lợi thực tế của nó phụ thuộc vào rủi ro phi hệ thống. Tuy nhiên do rủi ro này triệt tiêu lẫn nhau trong một danh mục được phân tán đúng mức các cổ đông có thể bỏ qua rủi ro phi hệ thống này khi họ quan tâm đến việc có hay không chọn một cổ phiếu vào danh mục. Do đó nếu các cổ đông bỏ qua rủi ro phi hệ thống chỉ còn rủi ro hệ thống của một cổ phiếu được liên hệ với tỷ suất sinh lợi của nó.

      Một danh mục lớn, phân tán không có rủi ro phi hệ thống bởi vì rủi ro phi hệ thống của mỗi chứng khoán đã được phân tán hoàn toàn. Giả định có đủ chứng khoán để danh mục thị trường được phân tán đúng mức và không có chứng khoán nào có tỷ lệ áp đảo trên thị trường, danh mục này được phân tán hoàn toàn và không có rủi ro phi hệ thống. Nói cách khác, danh mục thị trường có tương quan hoàn toàn với nhân tố đơn, nghĩa là danh mục thị trường là phiên bản to hoặc nhỏ hơn về quy mô của nhân tố. Sau khi mô phỏng với tỷ lệ thích hợp chúng ta có thể xem danh mục thị trường như là nhân tố.

      Trong quản lý danh mục đầu tư Mô hình định giá chứng khoán vốn và lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá CAPM và APT là hai mô hình có thể thay thế lẫn nhau của rủi ro và tỷ suất sinh lợi. Thật quan trọng nếu ta quan tâm đến sự khác nhau giữa hai mô hình cả về lý luận lẫn ứng dụng trong thực tế.

      Các đặc tính của cổ phiếu ngoài việc được sử dụng làm nền tảng cho việc ước lượng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng chúng còn được sử dụng rộng rãi như là một cách mô tả phong cách quản lý vốn đầu tư. Ví dụ một danh mục có tỷ số P/E vượt mức trung bình của thị trường có thể được mô tả như danh mục P/E cao hay danh mục cổ phiếu tăng trưởng.
      Khác nhau về lý luận

      Mô hình CAPM mang đến cho chúng ta lý thuyết về những tập hợp hiệu quả. Cách hành xử này bắt đầu từ trường hợp của hai chứng khoán rủi ro cho đến trường hợp nhiều chứng khoán và kết thúc khi một chứng khoán phi rủi ro được kết hợp với nhiều chứng khoán rủi ro có giá trị rất lớn về mặt trực giác. Cách trình bày này không dễ gì đạt được đối với APT.

      Tuy nhiên, APT cũng có một lợi điểm đối trọng. Mô hình cộng thêm các yếu tố cho đến khi rủi ro phi hệ thống của bất kỳ một chứng khoán không tương quan với rủi ro phi hệ thống của mỗi chứng khoán còn lại. Với công thức này, nó dễ dàng được chỉ ra rằng (1) rủi ro phi hệ thống giảm đều (và cuối cùng triệt tiêu) khi số lượng các chứng khoán trong danh mục tăng nhưng (2) rủi ro hệ thống không tăng. Điều này cũng được chỉ ra trong CAPM mặc dù về mặt trực giác có mờ nhạt hơn do các rủi ro phi hệ thống có thể tương quan lẫn nhau giữa các chứng khoán.

      Khác nhau trong ứng dụng

      Một trong những lợi thế của APT là nó có thể xử lý đa nhân tố trong khi CAPM bỏ qua chúng. Mặc dù rất nhiều các trình bày của chúng tôi trong chương này tập trung vào mô hình một nhân tố nhưng mô hình đa nhân tố có lẽ phản ánh thực tế nhiếu hơn. Có nghĩa rằng ta phải lấy ra từ các nhân tố của toàn thị trường và toàn ngành trước khi rủi ro phi hệ thống của một chứng khoán tương quan với rủi ro phi hệ thống của các chứng khoán khác. Ở dạng đa nhân tố của APT, mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và rủi ro có thể được biểu hiện như sau:

      R = RF + (R1 - RF) b1 + (R2 - RF) b2 + (R3 - RF) b3 + ...... + (RK - RF) bK ( 5)

      Trong phương trình này b1 ký hiệu cho beta của chứng khoán ứng với nhân tố thứ nhất, b2 ký hiệu cho beta của chứng khoán ứng với nhân tố thứ hai và tiếp diễn như vậy. Ví dụ nếu nhân tố thứ nhất là GNP thì b1 là beta GNP của chứng khoán. Ký hiệu là tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của chứng khoán (hay danh mục) mà có beta ứng với nhân tố thứ nhất là 1 và có beta ứng với các nhân tố khác bằng 0. Do thị trường bù đắp cho rủi ro nên (R1-RF) sẽ dương trong trường hợp bình thường. Phương trình này thể hiện tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của chứng khoán liên quan đến beta của chứng khoán tương ứng với mỗi nhân tố. Ý nghĩa của phương trình (5) rất đơn giản. Mỗi nhân tố đại diện cho một rủi ro không thể phân tán hóa hoàn toàn. Beta của chứng khoán tương ứng với một nhân tố càng cao thì rủi ro của chứng khoán phải gánh chịu càng cao. Phương trình trên thể hiện tỷ suất sinh lợi là tổng của lãi suất phi rủi ro cộng với phần đền bù cho mỗi loại rủi ro mà chứng khoán phải gánh chịu.

      Do rất nhiều nhân tố xuất hiện APT có khả năng tiềm ẩn đo lường tỷ suất sinh lợi kỳ vọng chính xác hơn CAPM. Tuy nhiên như chúng tôi đã đề cập ta không thể xác định dễ dàng đâu là nhân tố thích hợp. Các nhân tố của ví dụ trên được sử dụng vì cả hai lý do thuận tiện và dễ hiểu. Chúng không được suy ra từ lý thuyết.

      Cách tiếp cận thực nghiệm đối với định giá chứng khoán

      Các mô hình thực nghiệm CAPM và APT không làm giảm đi chút nào các mô hình và các phương pháp sử dụng trong thực tế để đo lường tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của chứng khoán. Cả CAPM và APT là những mô hình dựa vào rủi ro. Mỗi mô hình đo lường rủi ro của chứng khoán bằng beta của nó tương ứng với một nhân tố hệ thống và luận giải rằng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng phải tỷ lệ với beta. Mặc dù chúng ta nhận thấy điều này có một sức hút hiển nhiên và có nền tảng vững chắc về lý thuyết, nhưng vẫn còn những cách tiếp cận khác.

      Hầu hết các cách tiếp cận đó có thể được gộp chung lại dưới một tên gọi chung là những phương pháp tham số hay thực nghiệm. Thuật ngữ thực nghiệm đề cập đến một thực tế rằng những cách tiếp cận này ít dựa vào các lý thuyết về sự vận động của thị trường tài chính mà chỉ đơn thuần dựa vào các trạng thái lặp lại và các liên hệ trong quá khứ của dữ liệu thị trường. Trong các cách tiếp cận này nhà nghiên cứu định rõ những tham số hay các đặc tính liên đới với các chứng khoán rồi khảo sát trực tiếp dữ liệu nhằm tìm mối liên hệ giữa những đặc tính này và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng. Đơn cử như có rất nhiều các nghiên cứu đã được thực hiện về mối liên quan giữa tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của công ty và quy mô của nó. Có đúng hay không những công ty nhỏ có tỷ suất lợi kỳ vọng cao hơn những công ty lớn? Những nhà nghiên cứu đã khảo sát các tỷ số tài chính khác nhau như tỷ số giữa giá cổ phần và thu nhập giữ lại, P/E, và tỷ số có quan hệ gần gũi là tỷ số giữa giá trị thị trường và của chứng khoán và giá trị sổ sách của công ty, M/B. Từ đây có thể có một tranh luận rằng những công ty với tỷ số P/E hoặc M/B thấp bị định giá thấp và có thể được kỳ vọng có tỷ suất sinh lợi cao hơn trong trương lai.

      Nhằm sử dụng các tiếp cận thực nghiệm để xác định tỷ suất sinh lợi kỳ vọng, chúng ta phải ước lượng phương trình sau:

      Ri= RF + kP/E (P/E)i + kM/B(M/B)i + ksize(size)p

      trong đó là tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của công ty i, và các hệ số k là hệ số tương quan mà chúng ta đã ước lượng từ dữ liệu của thị trường, Chú ý rằng đây là một dạng tương tự phương trình trên trong đó các đặc tính của công ty đóng vai trò beta và hệ số k trong vai trò nhân tố chênh lệch tỷ suất sinh lợi của danh mục.

      Khi chúng ta kiểm chứng số liệu , các phương thức tiếp cận tham số tỏ ra vận hành rất tốt. Thật vậy, khi so sánh giữa việc sử dụng các tham số và việc sử dụng beta để dự đoán tỷ suất sinh lợi kỳ vọng các tham số như P/E và M/B tỏ ra hữu hiệu hơn. Có nhiều giải thích khả dĩ cho các kết quả này, và vấn đề vẫn chưa được luận giải hoàn toàn. Những nhà phê bình về cách tiếp cận thực nghiệm rất thận trọng đối với cái mà họ gọi là sự đào bới dữ liệu. Những tham số mà nhà nghiên cứu sử dụng thường được chọn bởi vì chúng đã được biết có liên quan đến tỷ suất sinh lợi. Chúng ta thấy rằng bất kỳ những mối liên hệ nào như vậy là do ngẫu nhiên nhưng nếu bạn tìm kiếm đủ lâu và có đủ các chọn lựa bạn có thể tìm thấy cái mà thậm chí như không phải như vậy. Nó cũng khá giống với việc nhìn lên các đám mây. Sau một lúc bạn sẽ thấy các đám mây trông giống bất kỳ thứ gì bạn muốn như anh hề, gấu, hay bất kỳ thứ gì, nhưng tất cả những gì bạn đang làm là gọi là đào bới dữ liệu. Không cần phải nói những nhà nghiên cứu các vấn đề trên bảo vệ công việc của họ bằng tranh luận rằng họ không hề đào bới dữ liệu và họ đã rất cẩn thận tránh những cạm bẫy qua việc chúi mũi vào dữ liệu để xem việc gì sẽ xảy ra.

      Dĩ nhiên, như là một vấn đề về lý thuyết thuần túy, vì bất kỳ ai trên thị trường có thể dễ dàng truy tìm được tỷ số P/E của các công ty, anh ta chắc chắn sẽ không mong đợi những công ty với P/E thấp hoạt động tốt hơn những công ty có tỷ số này cao đơn giản chỉ vì các công ty này bị định giá thấp. Trong một thị trường hoàn hảo, những tính toán của công chúng về định giá thấp sẽ nhanh chóng bị phá vỡ và không trong mong có thể tồn tại.

      Có lẽ giải pháp tốt hơn cho sự thành công của phương thức tiếp cận thực nghiệm nằm ở sự tổng hợp giữa các cách tiếp cận dựa vào rủi ro và bản thân phương thức thực nghiệm. Trong thị trường hoàn hảo, rủi ro và tỷ suất sinh lợi có liên hệ với nhau, do có thể các tham số hoặc những đặc tính thể hiện liên quan đến tỷ suất sinh lợi cũng đồng thời là công cụ đo lường rủi ro tốt hơn. Ví dụ, nếu giả sử chúng ta tìm thấy rằng các công ty với P/E thấp lại hoạt động tốt hơn các công ty có P/E cao và điều này thậm chí đúng cho các công ty có cùng beta, thì chúng ta có thể có ít nhất hai cách giải thích. Một là, chúng ta có thể đơn thuần vứt bỏ các lý thuyết dựa trên rủi ro vì chúng không đúng. Hơn nữa chúng ta có thể tranh luận rằng các thị trường không hoàn hảo và mua cổ phiếu của công ty có P/E thấp cho chúng ta cơ hội kiếm lời nhiều hơn tỷ suất sinh lợi dự kiến. Hai là, ta có thể tranh luận rằng cả hai cách nhìn đều đúng và P/E thật sự chỉ là cách tốt hơn để đo lường rủi ro hệ thống hơn là ước lượng beta trực tiếp từ dữ liệu.

      Các kiểu danh mục

      Các đặc tính của cổ phiếu ngoài việc được sử dụng làm nền tảng cho việc ước lượng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng chúng còn được sử dụng rộng rãi như là một cách mô tả phong cách quản lý vốn đầu tư. Ví dụ một danh mục có tỷ số P/E vượt mức trung bình của thị trường có thể được mô tả như danh mục P/E cao hay danh mục cổ phiếu tăng trưởng. Tương tự, một danh mục được hình thành với P/E trung bình thấp hơn nhiều so với P/E của một chỉ số thị trường có thể được coi là danh mục P/E thấp hay danh mục có giá.

      Để đánh giá một nhà quản lý danh mục làm việc tốt ra sao, thường hiệu quả của anh ta được so sánh với kết quả của vài chỉ số cơ bản. Ví dụ tỷ suất sinh lợi danh mục của một nhà quản lý mua cổ phiếu mệnh giá lớn của các công ty Mỹ có thể được so sánh với chỉ số S&P 500. Trong trường hợp này chỉ số S&P 500 được xem là cột mốc so sánh với những hiệu quả đã được tính toán. Tương tự như vậy hiệu quả của một nhà quản lý quốc tế có thể được so sánh với chỉ số của các cổ phiếu quốc tế. Trong việc chọn lựa mốc so sánh thích hợp cần thận trọng xác định cột mốc so sánh chỉ chứa đựng những loại cổ phiếu mà nhà quản lý hướng đến như là đại diện cho phong cách của anh ta và có sẵn để mua. Một nhà quản lý đã được bảo rằng không mua bất kỳ chứng khoán nào có trong chỉ số S&P 500 thì không có lý do gì bị so sánh với chỉ số này.

      Hơn nữa các nhà quản lý không chỉ bị so sánh với chỉ số mà còn với những nhóm các nhà quản lý tương đương. Hiệu quả của một quỹ đầu tư như đã quảng cáo là một quỹ tăng trưởng có thể được so sánh với hiệu quả của một mẫu lớn các quỹ tương tự. Đơn cử như hiệu quả trong một giai đoạn thường được phân chia thành bốn nhóm. Các quỹ thuộc nhóm 25% trên cùng ở trong phần tư thứ nhất, 25% kế tiếp nằm ở phần tư thứ hai, 25% kế đến nằm ở phần tư thứ ba, và nhóm các quỹ có hiệu quả kém nhất nằm ở phần tư cuối cùng. Nếu một quỹ được xem xét có hiệu quả nằm trong nhóm phần tư thứ hai thì ta gọi nhà quản lý đó là nhà quản lý cấp phần tư thứ hai.Cũng giống như vậy, chúng ta gọi một quỹ mua cổ phiếu có M/B thấp là quỹ có giá và sẽ so sánh hiệu quả của nó với mẫu các quỹ có giá tương đương. Các cách tiếp cận này về việc đo lường hiệu quả là tương đối mới, và chúng là một phần của những cố gắng tích cực và thú vị nhằm tinh lọc khả năng xác định và sử dụng các kỹ năng đầu tư của chúng ta.

    Thông tin của chủ đề

    Users Browsing this Thread

    Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)

       

    Similar Threads

    1. Không vào được mục danh mục đầu tư!!!
      By winxp2007 in forum Thông báo - Góp ý
      Trả lời: 3
      Bài viết cuối: 08-03-2010, 12:46 PM
    2. danh muc đầu tư
      By vstc in forum Nhận định Thị trường
      Trả lời: 6
      Bài viết cuối: 29-09-2009, 07:26 PM
    3. Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 14-03-2007, 03:12 PM
    4. Cơ cấu lại Danh mục đầu tư hiện tại của mình.
      By toberich in forum CLB Chứng khoán
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 11-11-2006, 03:01 PM
    5. Danh mục đầu tư
      By in forum Kiến thức Chứng khoán
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 01-01-1970, 07:00 AM

    Bookmarks

    Quyền viết bài

    • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
    • Bạn Không thể Gửi trả lời
    • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
    • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình