Mình đọc được bài này tại địa chỉ sau: http://www.investopedia.com/articles/analyst/091901.asp

Thấy hay hay, dịch và post nên mọi người đọc tham khảo, nếu có gì mình hiểu sai nghĩa mong mọi người góp ý bởi mình sợ hiểu từ tiếng Anh sang tiếng Việt bị sai lệch. Cám ơn nhiều!

Gertrude Stein nói "Hoa hồng vẫn là hoa hồng nếu nó
đúng là hoa hồng- Rose is a rose is a rose" nhưng với thu nhập trên mỗi cổ phiếu thì khác "Thu
nhập trên mỗi cổ phiếu không là thu nhập trên mỗi cổ phiếu dù chúng
đúng là thu nhập trên mỗi cổ phiếu".

Nhìn vào công thức toán
học thì có vẻ đơn giản nhưng ngày nay các doanh nghiệp dùng rất nhiều
loại EPS khác nhau mà nhà đầu tư cần phải hiểu mỗi loại cụ thể trước
khi ra quyết định đầu tư. VD, EPS mà công ty công bố có thể khác với
EPS mà công ty báo cáo trong các báo cáo tài chính hay trên các tờ tạp
chí. Kết quả của sự khác nhau này đó là khiến giá cổ phiếu có thể bị
định cao hoặc thấp hơn giá trị thực tế tuỳ thuộc vào EPS sử dụng.
Theo
định nghĩa thì EPS là tỷ số giữa thu nhập thuần trên số lượng cổ phiếu
đang lưu hành; tuy nhiên cả tử số và mẫu số của công thức tính EPS đều
có thể thay đổi phụ thuộc vào việc xác định thu nhập và xác định cổ
phiếu đang lưu hành

Cổ phiếu lưu hành:

Cphiếu
lưu hành có thể được phân loại làm cổ phiếu lưu hành cơ bản và cổ phiếu
lưu hành làm loãng. Cphiếu lưu hành cơ bản được tính bằng số lượng cổ
phiếu đã phát hành mà nhà đầu tư đang nắm giữ- đó là các cổ phiếu đang
lưu hành trên thị trường chứng khoán mà chúng ta có thể dễ dàng theo
dõi chúng.

Cphiếu lưu hành pha loãng khiến công thức tính EPS
phức tạp- cần xác định xem có bao nhiêu cổ phiếu lưu hành nếu tất cả
đảm bảo, quyền chọn...bị chuyển đổi sang cổ phiếu phổ thông cùng một
lúc (thường là cuối mỗi quí). EPS pha loãng được ưa thích hơn EPS cơ
bản do nó là con số phản ánh thực chất hơn EPS cơ bản. Số lượng cổ
phiếu pha loãng có thể thay đổi khi giá cổ phiếu giao động (do quyền
chọn dòng tiền vào/ra khỏi doanh nghiệp.

Các công ty báo cáo
cả EPS cơ bản và EPS pha loãng, và tập chung nhiều vào EPS pha loãng.
Đôi khi, EPS cơ bản và EPS pha loãng như nhau do trong cơ cấu vốn của
công ty không có quyền chọn, quyền đảm bảo hoặc trái phiếu chuyển đổi
nào.

Thu nhập:
Như
đề cập đầu bài viết, EPS có thể thay đổi giá trị phụ thuộc vào các giả
định và phụ thuộc vào chính sách kế toán của công ty. Công ty tập chung
thu hút sự chú ý của phương tiện thông tin đại chúng thì EPS đưa tin có
thể khác EPS báo cáo cho uỷ ban chứng khoán. Tuỳ vào giả định, cty có
thể báo cáo EPS cao làm giảm P/E và khiến cổ phiếu có vẻ bị định giá
thấp. EPS báo cáo trong 10 quí có thể có giá trị thấp và cổ phiếu bị
định giá cao căn cứ vào P/E. Đó là lý do tại sao nhà đầu tư nên nghiên
cứu kỹ lưỡng và nên hiểu cụ thể về từng loại thu nhập được sử dụng
trong công thức tính EPS.

Dưới đây đề cập 5 loại EPS tương ứng phân loại các loại thu nhập.

EPS báo cáo (theo qui định GAAP EPS):
EPS
báo cáo là EPS được tính toán dựa vào các số liệu như qui định trong
GAAP để báo cáo cho uỷ ban ckhoán nhà nước. Cty có thu nhập tính toán
dựa vào qui định của GAAP vẫn có thể bị bóp méo và ko chính xác.

Vd:
Lãi 1 lần từ việc bán máy móc hoặc công ty chi nhánh có thể được coi là
thu nhập từ hoạt động theo qui định của GAAP và dẫn tới EPS tăng cao.
Cũng như vậy, công ty có thể phân loại các chi phí từ hoạt động bình
thường vào tài khoản "chi phí bất thường" để tăng EPS do các khoản chi
phí bất thường là các khoản bị loại ra khỏi công thức tính EPS. Nhà đầu
tư cần đọc các chú thích báo cáo tài chính để quyết định xem những yếu
tố nào phải GỒM trong thu nhập từ hoạt động kdoanh bình thường và làm
phép điều chỉnh trong công thức tính toán EPS

EPS tiếp diễn (ko sát nghĩa lắm- Ongoing EPS):
Được
tính dựa vào thu nhập thuần thông thường hay thu nhập thuần từ hđộng
kdoanh đang diễn ra và ko bao gồm bất kỳ thu nhập/hay lỗ từ hoạt động
bất thường nào. Mục tiêu để nhằm tìm ra dòng thu nhập từ hoạt động kinh
doanh cốt lõi, hoạt động kdoanh chính của công ty nhằm dự báo EPS trong
tương lai. EPS này có ý nghĩa ko bao gồm các thu nhập có từ các hoạt
động ko thường xuyên xuất hiện 1 lần trong kỳ báo cáo như bán máy móc
thiết bị hay các khoản chi phí phát sinh ko thường xuyên. Nỗ lực xác
định EPS sử d ụng phương pháp này cũng được gọi là EPS tạm tính (pro
forma EPS"

EPS tạm tính- Pro forma EPS:
Sự
khác nhau giữa EPS báo cáo và EPS tạm tính là EPS tạm tính đã ko tính
đến các khoản thu nhập/chi phí dùng trong tính EPS báo cáo. VD: nếu
công ty bán một bộ phận chi nhánh thì họ có thể báo cáo số liệu lịch
sử, ko bao gồm chi phí và doanh thu phát sinh gắn liền với đơn vị bị
bán đó. Điều này cho phép so sánh EPS qua các kỳ được chính xác hơn.

VD
khác liên quan đến EPS tạm tính đó là khi công ty chọn loại bỏ một vài
chi phí do ban quản trị cảm thấy các chi phí đó ko là chi phí từ hoạt
động thông thường và làm méo giá trị thực của thu nhập. Các chi phí ko
thuộc hoạt động thông thường, tuy nhiên dường như xuất hiện khá nhiều
hiện nay. Vấn đề đặt ra là liệu ban quản trị công ty có biết họ đang
làm gì hay đang cố xây dựng một dòng tiền ào ạt để làm đẹp EPS hay ko?

EPS trên tạp chí công ty:
Đó
là EPS được công bố trên các báo, tạp chí phát hành của công ty, có thể
nó là EPS tạm tính nhưng chúng được tính toán bởi các nhà ptích hay
kiểm toán thông qua thảo luận với cty. EPS trên tạp trí ko cung cấp đủ
thông tin.

EPS tiền mặt:
EPS
tiền mặt được tính bằng lấy dògn tiền từ hoạt động kdoanh chia cho số
lượng cổ phiếu pha loãng lưu hành. EPS tiền mặt quan trọng hơn nhiều vì
nó là con số tinh lọc hơn. EPS tiền mặt tốt hơn bởi dòng tiền từ hđộng
kdoanh ko thể đc tính toán dễ dàng như thu nhập thuần và nó thể hiện
lượng tiền mà dnghiệp tạo ra.

Vd: dnghiệp có EPS báo cáo là
0,50 đô nhưng EPS tiền mặt là 1 đô sẽ được quan tâm doanh nghiệp có EPS
báo cáo là 1 đô còn EPS tiền mặt là 0.5 đô.