-
17-02-2008 12:31 AM #1
- Ngày tham gia
- Oct 2005
- Bài viết
- 46
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Lựa chọn Thành công - Tham Luận trình TT Nguyễn Tấn Dũng của các GS ĐH Harvard
Lựa chọn Thành công
Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á
cho tương lai của Việt Nam
Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020
(tiếp theo phần 3 – trang 114)
2. Cơ sở hạ tầng và đô thị hóa
2.1. Điện lực và Giao thông
Các nền kinh tế mạnh ở Đông Á đều hiểu rằng chìa khóa cho sự tồn tại của họ là phải làm thế nào để đèn luôn luôn sáng và xe luôn luôn chạy. Thế nhưng ở Việt Nam, mất điện và tắc đường đã trở thành câu chuyện hàng ngày. CSHT là trở ngại quan trọng thứ hai cho sự phát triển của Việt Nam. Tình hình CSHT hiện nay là vô cùng đáng lo ngại.
Tầm quan trọng của điện đối với nền kinh tế được ví như ô-xy đối với cơ thể người. Nếu thiếu điện, hay nếu giá điện quá cao thì đời sống kinh tế sẽ đình trệ ngay lập tức. Mặc dù ai cũng biết rằng điện là một yếu tố đầu vào thiết yếu của sản xuất, thế nhưng chính sách năng lượng của Việt Nam lại có những sai lầm tai hại. Với việc đầu tư quá nhiều vào thủy điện, giờ đây Việt Nam đang gặp phải tình trạng thiếu điện ngày càng trở nên trầm trọng trong mùa khô. Tình trạng này đã được dự báo từ trước nhưng lại bị xem thường, chứng tỏ việc thiếu một tầm nhìn chiến lược hay do sự tác động của các nhóm lợi ích đặc biệt. Việc Việt Nam không thể kiểm soát lưu lượng nước ở thượng nguồn làm tăng rủi ro của việc phụ thuộc quá nhiều vào thủy điện. Hiện nay, thiếu điện không chỉ còn là hiện tượng của mùa khô nữa. Mới chỉ vào đầu mùa khô mà nhiều địa bàn của TP. Hồ Chí Minh đã phải chịu cảnh cắt điện luân phiên không báo trước. Quyết định của chính phủ không cho phép EVN thành lập công ty mua-bán điện là một quyết định đúng đắn. Càng ngày càng có thể thấy rõ là EVN đã nhầm lẫn trong khi xác định ưu tiên của mình. Bên cạnh việc đầu tư quá mức vào thủy điện thì việc EVN bành trướng hoạt động sang lĩnh vực viễn thông, dịch vụ tài chính, bất động sản không những không giúp thực hiện nhiệm vụ cơ bản của nó là “giữ vai trò chính trong việc đảm bảo cung cấp điện ổn định, an toàn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện đầu tư phát triển các công trình lưới điện đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư; đầu tư các dự án nguồn điện theo nhiệm vụ được giao”, mà trái lại, còn làm phân tán nguồn nhân lực và tài lực có hạn của mình.41 Một doanh nghiệp độc quyền nhà nước như EVN sẽ chỉ hoạt động tốt nhất nếu như nó tập trung cao độ vào nhiệm vụ chính và thực hiện nhiệm vụ này một cách hiệu quả, đồng thời không bị phân tâm bởi các hoạt động kinh doanh ngoại vi.
Theo chiến lược năng lượng của chính phủ cho giai đoạn 2006-2015, mỗi năm Việt Nam phải tăng công suất điện từ 17-20%. Nhiều dự án hiện nay đã bị chậm tiến độ một cách trầm trọng, đúng vào lúc mà nền kinh tế đang cần điện nhất. Năm 2007, chỉ có một trong số năm dự án phải đưa vào hoạt động được thực hiện đúng tiến độ. 42 Đây là những dấu hiệu cho thấy EVN không đủ năng lực trong việc cung cấp điện để đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế kỳ vọng. Vì vậy, nhà nước phải hoàn thiện cơ chế điều tiết để tạo ra những khuyến khích và điều kiện thích hợp cho khu vực kinh tế dân doanh và nước ngoài tham gia sản xuất điện. 43
Đầu tư CSHT nhiều khi bị phung phí hoặc là đối tượng của tham nhũng. Ngay cả những dự án cấp thiết cũng thường bị chậm tiến độ so với kế hoạch. Những hiện tượng tham nhũng, lãng phí, chậm tiến độ v.v. của các dự án hạ tầng được báo chí phanh phủi thường xuyên, và do vậy không cần phải nhắc lại ở đây. Nhìn chung, Việt Nam cố gắng tìm kiếm sự bình đẳng trong phát triển giữa các vùng miền, và vì vậy đầu tư rất nhiều cho các vùng kém phát triển. Mục tiêu này hoàn toàn dễ hiểu. Tuy nhiên, nhiều dự án như thế trên thực tế rất lãng phí và không hiệu quả. Những chương trình như “Một triệu tấn đường” hay “đánh bắt cá xa bờ” và phong trào xây dựng các khu công nghiệp, và mới đây là khu kinh tế mà trên thực tế là không đem lại nhiều lợi ích cho người dân ở các khu vực nông thôn, vốn là mục tiêu ban đầu của những dự án này. Đấy là chưa kể tình trạng ô nhiễm tràn lan tới mức khó kiểm soát ở rất nhiều khu công nghiệp hiện nay đang ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống sản xuất và mưu sinh của người dân. Trong khi nguồn lục bị phung phí vào các dự án này thì CSHT đô thị lại ít được đầu tư và đang xuống cấp nghiêm trọng, và đang tiệm cận mức độ khủng hoảng. Những xu hướng này rất tai hại và thiển cận: Nếu như tình trạng nghẽn cổ chai về CSHT dẫn tới suy giảm hoạt động kính tế của các tỉnh miền Đông Nam bộ thì tác động ngược trở lại của nó tới nền kinh tế và tới lao động di cư từ các khu vực khác có thể sẽ rất nghiêm trọng.
Những dự án phát triển hạ tầng tốn kém và lãng phí thường dẫn tới việc cung ứng dịch vụ kém hiệu quả với giá thành cao. Theo Ngân hàng Thế giới (được minh họa ở Hình 3), chi phí để xuất một công-ten-nơ 20ft từ Việt Nam, bao gồm chi phí cho các thủ tục giấy tờ, chi phí hành chính, xếp dỡ, và vận chuyển nội địa, là 701 đô-la Mỹ. Trong khi đó, chi phí này ở Trung Quốc chỉ là 335 đô-la, và ở Sing-ga-po là 382 đô-la. Sự yếu kém này trong năng lực cạnh tranh của ngành vận tải biển càng làm cho xu hướng đầu tư cảng biển hiện nay trở nên nguy hiểm và cần được báo động.
Miền Đông Nam bộ có nhu cầu cấp thiết về cảng biển nước sâu để có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng như hiện nay. Hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chưa thể xuất trực tiếp sang thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu mà vẫn phải quá cảng ở Hồng Kông và Sing-ga-po, nơi hàng được chuyển sang các “tàu mẹ” lớn hơn để đến đích cuối cùng. Tất nhiên là việc phải quá cảng này làm gia tăng chi phí và thời gian vận chuyển. Nhiều khả năng là trong vòng vài năm tới, “tàu mẹ” đi Bắc Mỹ và Châu Âu sẽ bắt đầu cập cảng TP. Hồ Chí Minh. Hình 4 cho thấy miền Đông Nam Bộ ở vị trí hết sức thuận lợi để khai thác các tuyến vận tải biển quốc tế quan trọng. Trên thực tế, miền Đông Nam Bộ đã được các hãng tàu lớn đưa vào trong bản đồ lộ trình của mình. Tổ hợp cảng mới Cái Mép - Thị Vải ở Bà Rịa - Vũng Tàu đang được triển khai và các nhà đầu tư nước ngoài cũng đang rất quan tâm tới dự án này. Phát triển cảng biển mới cho miền Đông Nam bộ nên là một ưu tiên quốc gia, thế nhưng cho đến nay việc xây dựng vẫn chưa được thực sự bắt đầu. Trong khi đó, rất nhiều kế hoạch hoành tráng đã được công bố hoặc đang được triển khai ở nhiều tỉnh miền Trung, bao gồm Khánh Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế. Nhìn từ góc độ kinh tế thì những dự án này rất thiếu cơ sở. Với quy mô như hiện nay, Việt Nam chỉ cần tối đa ba cảng nước sâu cho ba miền. Đồng thời, một hệ thống đường sắt chở hàng hiện đại sẽ làm cho việc xây dựng các cảng biển ở miền Trung không còn trở nên cần thiết nữa. Cả một vùng rộng lớn ở miền Tây nước Mỹ (dài hơn 1.900 km) cũng chỉ có 3 cảng biển quốc tế. Những quyết định tốn kém về CSHT như cảng biển chỉ nên được thực hiện sau khi đã nắm vững các luồng lưu chuyển thương mại quốc tế. TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu là những cảng duy nhất có khả năng sẽ được tiếp nhận tàu mẹ trong một tương lai tương đối gần. Nhu cầu và hiệu quả của dự án đầu tư cảng biển quốc tế cho miền Đông Nam Bộ, đồng thời nâng cấp đường bộ và đường sắt nối liền ba miền sẽ cao hơn nhiều so với dự án đầu tư 33 tỉ đô-la cho dự án tàu khách cao tốc nối liền Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh như kế hoạch hiện nay.44 Cũng cần lưu ý thêm rằng, vì cảng hiện đại được cơ giới hóa cao độ nên chúng không phải là một nguồn tạo công ăn việc làm đáng kể.
2.2. Đất đai và đô thị hóa
Một thách thức có liên quan là đô thị hóa, đặc biệt là thách thức về nhà ở và giao thông. Trừ phi việc sử dụng đất và giao thông được giải quyết một cách thỏa đáng và nhanh chóng, bằng không tình trạng tắc nghẽn, ô nhiễm, và đông đúc gia tăng nhanh chóng ở các thành phố lớn chắc chắn sẽ xảy ra. Hệ quả tất yếu của chính sách bất cập sẽ là tăng trưởng bị suy giảm mạnh. Giá đất ở các đô thị và sắp trở thành đô thị của Việt Nam tương đương với mức giá ở những khu vực tương tự ở Nhật Bản, một quần đảo đông dân với thu nhập trung bình cao hơn Việt Nam tới 50 lần. Như được minh họa trong Bảng 1, giá đất cao một cách phi lý không chỉ dừng lại ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh mà đã lan rộng ra các tỉnh xung quanh. Đất của một dự án phát triển đô thị mới ở Thủ Dầu Một (Bình Dương) hiện đã lên tới 26 triệu/m2. 45 Điều này có nghĩa là giá của một lô đất diện tích 100m2 sẽ lên tới hơn 160.000 đô-la Mỹ. 46 Mức giá này, xuất hiện ở một tỉnh lị có mật độ dân cư ngày một cao có nghĩa là nhiều người sẽ không những không thể sở hữu một ngôi nhà “vừa phải”, mà thậm chí có khi còn không đủ tiền để trả tiền thuê nhà nữa. Có vẻ như quan chức địa phương và các nhà đầu cơ giàu có là nguyên nhân chính của tình trạng này. Ở một số tỉnh, hàng ngàn héc-ta đất đã bị chuyển thành đất của khu công nghiệp mà trên thực tế gần như còn trống trơn chưa có hoạt động gì. Giá đền bù cho người nông dân thường quá thấp khiến họ không muốn bán đất cho các dự án công nghiệp. Trên thực tế, một bộ phận nông dân Việt Nam đang phải đối đầu với cảnh mất đất, trong khi tương lai nghèo vẫn hoàn nghèo vì họ không biết sẽ làm gì sau khi mất đất. Những việc làm như thế này gây nên những phản ứng xã hội mạnh mẽ và rộng lớn ở cả khu vực nông thôn và thành thị. Cần nhanh chóng có những chính sách đất đai hợp lý vì hiện nay quá trình đô thị hóa đang diễn biến rất nhanh, đẩy các thành phố vào tình trạng gần như không quản lý nổi về nhiều mặt.
Bảng 1. Giá đất tại một số khu đô thị mới ở miền Đông Nam Bộ
[table]
Vị trí
|
12/2006
|
12/2007
|
% thay đổi
TP.Hồ Chí Minh
|
|
|
Phú Mỹ - Vạn Phát Hưng, Quận 7
|
11,0
|
27,0
|
145%
Thái Sơn, huyện Nhà Bè
|
5,5
|
16,0
|
191%
Nam Nam Saigon, Hồng Lĩnh, quận Bình Chánh
|
4,3
|
13,0
|
202%
Thạch Mỹ Lợi, Huy Hoàng, quận 2
|
16,0
|
26,5
|
66%
Gia Hòa, quận 9 |
5,5
|
14,0
|
155%
Các tỉnh xung quanh
|
|
|
Long Thọ - HUD, Nhơn Trạch, Đồng Nai
|
1,0
|
2,5
|
150%
Long Hậu, Long An |
3,2
(6/2007)
|
6,5
|
103%
Chánh Nghĩa, Thủ Dầu Một, Bình Dương
|
6,7
|
26,0
|
288%
[/table]
Với sự tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ (chủ yếu là dịch vụ đô thị) như hiện nay, có lẽ dân số đô thị sẽ tiếp tục gia tăng với tốc độ thậm chí còn cao hơn trong những năm tới. Nếu như tốc độ tạo thêm việc làm mới ở khu vực chính thức tiếp tục tăng (ở mức cao hơn nhiều so với trước như hiện nay) thì tỷ lệ dân cư đô thị sẽ ngày càng tăng, vô số người sống ở vùng nông thôn sẽ ngày càng giảm. 47 Cũng như dân số nông thôn ở Trung quốc bắt đầu giảm một thập kỷ trước, điều tương tự đang xảy đến với Việt Nam. Nếu như tiêu chí để xác định cư dân đô thị được xác lập khách quan hơn chứ không dựa trên cơ sở địa giới hành chính như hiện nay thì trên thực tế, dân số đô thị sẽ cao hơn nhiều, đồng thời tốc độ tăng trưởng cũng nhanh hơn nhiều so với những số liệu thống kê hiện có. Những cuộc điều tra mức sống dân cư ở Việt Nam đã ước lượng thấp dân số đô thị vì nó sử dụng các tiêu thức có tính hành chính để phân biệt dân nông thôn và thành thị. Nhiều xã được coi là nông thôn trong các cuộc điều tra này trên thực tế có mức độ đô thị hóa cao, nếu dựa theo các tiêu thức khách quan khác.
Kinh nghiệm gần đây của Thái-lan, Phi-líp-pin, và In-đô-nê-xia cho thấy, quy hoạch đô thị hóa tồi là một nguồn gốc tiềm tàng của bất ổn chính trị và xã hội. Người ta ai cũng cần có nhà cửa ổn định, môi trường sống tương đối sạch sẽ, dịch vụ giáo dục và y tế chất lượng cho các thành viên trong gia đình. Người Việt Nam có câu “an cư, lạc nghiệp”. Chính sách chủ động, đầu tư hiệu quả và kịp thời là những biện pháp cần thiết để tránh nạn đông đúc, ùn tắc, và đô thị hóa không lành mạnh, vốn là những trở ngại cho quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Với mức giá bất động sản cao ngất trời như hiện nay, nhiều người đang phải đứng trước một lựa chọn khó khăn - hoặc là chuyển nhà ra vùng ngoại ô và chấp nhận thời gian từ nhà đến cơ quan lâu hơn trước, hoặc là sống trong nội thành đồng đúc và đắt đỏ. Giá thuê nhà rất cao ở các căn hộ trung tâm đã vượt khỏi tầm với của hầu hết mọi hộ gia đình trong thành phố.
Việt Nam thiếu kinh nghiệm trước những vấn đề mới nổi lên này. Mới đây thôi, vào năm 2002, hầu như mọi hộ gia đình có hộ khẩu ở thành phố đều có nhà riêng. Chỉ có 8% không có nhà riêng, và trong số này phần lớn thuê nhà của nhà nước.48 Thế nhưng với làn sóng nhập cư mới, tình hình sẽ khác trước.49 Những người nhập cư này thậm chí còn không được tính là người hiện đang sống ở thành phố, thu nhập của họ không thể đủ dù chỉ là mua một căn hộ tí hon ở thành phố. Vì vậy, nếu như họ không có tài sản nào khác hay không có người quen hay họ hàng ở thành phố thì lựa chọn duy nhất là sống tập trung tại các khu ven đô. Nếu dân số đô thị tăng trên 1 triệu người hàng năm (bao gồm cả tăng dân số tự nhiên và nhập cư) thì trách nhiệm cung cấp nhà ở, CSHT, trường học và các dịch vụ công cho số dân cư mới này sẽ vô cùng nặng nề. Quyết định mới đây của chính phủ tạo điều kiện đăng ký hộ khẩu dễ dàng hơn cho người nhập cư ở thành phố là một chính sách rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, đây sẽ là một động lực quan trọng khuyến khích nông dân tiếp tục di cư và tạo thêm sức ép cho khu vực thành thị.
Chính sách đất đai là một vấn đề phức tạp cho cả khu vực thành thị và nông thôn. Nhưng hiện nay ở đô thị, chính sách về thu hồi đất, phân vùng, và phát triển hạ tầng đang đội giá đất lên cao ngoài tầm với của hầu hết người lao động. Đất đai đã trở thành một khoản đầu tư và đầu cơ chứ không thuần túy chỉ phục vụ mục đích xây nhà. Hơn nữa, lợi nhuận từ đầu cơ đất đai hấp dẫn hơn bất kỳ một hoạt động đầu tư sản xuất nào khác, và chính điều này làm cho một phần lớn nguồn lực của nền kinh tế bị chuyển sang mục đích phi sản xuất. Một hệ thống chính sách đồng bộ về phát triển đô thị cũng bao gồm hoạt động cung ứng phương tiện giao thông công cộng, thuế tài sản và bất động sản để có nguồn thu phục vụ phát triển CSHT và các dịch vụ công khác, đồng thời là cơ sở cho sự phân phối công bằng và hợp lý hơn. Chính sách cung cấp các công cụ tài trợ dài hạn cho hoạt động xây dựng của các công ty phát triển CSHT hay mua căn hộ của các hộ gia đình sẽ giúp nhiều người có thể mua được nhà, mặc dù những hộ gia đình nghèo nhất sẽ cần những trợ giúp bổ sung. Ở đây cũng vậy, kinh nghiệm của các nước khác có thể cung cấp những bài học hữu ích, chẳng hạn như Hồng-kông và Sing-ga-po đã bắt đầu xây nhà công cộng cho những hộ gia đình nghèo từ những năm 1950.
Phần đầu của bài viết này đã lập luận rằng các nước Đông Nam Á đã thất bại trong việc xử lý nhiều thách thức của quá trình đô thị hóa nhanh chóng. Các thành phố Đông Nam Á không thể cung cấp cho cư dân của mình những dịch vụ tối thiểu như giáo dục, y tế, và vệ sinh một cách thoả đáng. Về những phương diện này, có vẻ như TP. Hồ Chí Minh đang đi vào vết xe của các thành phố Đông Nam Á.. Những triệu chứng này được báo chí báo động thường xuyên, bao gồm tắc nghẽn giao thông, ngập nước, thiếu phòng học, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm kém, bệnh viện quá tải, phòng cháy chữa cháy bất cập vân vân và vân vân. Hình 5 cho thấy một trong những nguyên nhân của tình trạng này, đó là mặc dù 4 tỉnh miền Đông Nam Bộ (TP. HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu) hấp thụ phần lớn lượng tăng dân số cơ học và dân nhập cư, đồng thời cũng là khu vực đóng góp nhiều nhất cho ngân sách quốc gia nhưng lại chiếm chưa đến 10% chi tiêu của một quốc gia. Tất nhiên, việc tăng chi tiêu và đầu tư không phải là thần dược chữa lành những triệu chứng yếu kém của việc đô thị hóa nhanh (đặc biệt trong bối cảnh nhiều dự án CSHT công cộng bị chậm tiến độ và thất thoát như hiện nay). TP. Hồ Chí Minh đang có nhu cầu cấp thiết trong việc xây dựng một chính quyền đô thị tập trung và hiệu quả. Bằng không, tăng đầu tư trong khi quản trị kém thì chỉ làm tình hình trở nên tồi tệ thêm mà thôi. Đề xuất xây dựng chính quyền đô thị để nâng cao chất lượng quản trị thành phố vì vậy nên được coi là một ưu tiên hàng đầu của TP. Hồ Chí Minh cũng như một số đô thị lớn khác của Việt Nam.
3. Các công ty có tính cạnh tranh quốc tế
3. 1. Sụ hình thành của các tập đoàn kinh tế
Vào đầu những năm 1990, thất vọng trước kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước, chính phủ đã cố gắng tìm mọi cách nhằm làm cho khu vực này trở nên năng động hơn. Để thực hiện mục tiêu này, từ năm 1994, chính phủ đã tập hợp các DN công nghiệp nhà nước để hình thành nên các doanh nghiệp lớn hơn, gọi là các tổng công ty (TCT) 90 và 91 - tiền thân của các tập đoàn kinh tế nhà nước sau này. Ý đồ của chính sách này là với quy mô lớn hơn, các TCT có thể tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô, phát triển thương hiệu cũng như khai thác các lợi thế khác. Mô hình tham khảo cho các TCT là các keiretsu của Nhật Bản (như Mitsubishi, Mitsui v.v.) và chaebol của Hàn Quốc (như Sam sung, Daewoo, Kumho v.v.). Điều khác biệt quan trọng nhất giữa mô hình TCT của Việt Nam với mô hình chaehol của Hàn Quốc là, tất cả các chaebol đều buộc phải trở nên có tính cạnh tranh quốc tế trong vòng một vài năm, rồi sau đó phải xuất khẩu được một tỷ lệ nhất định sản lượng của mình. Mặc dù các chaebol này được nhà nước trợ cấp rất nhiều trong thời kỳ đầu, nhưng những khoản trợ cấp này sẽ giảm dần và biến mất hoàn toàn trong những năm sau đó. Ngược lại, các TCT của Việt Nam được xây dựng để thay thế hàng nhập khẩu, và do vậy luôn nhận được sự bảo hộ và trợ giúp của chính phủ, ngay cả khi chúng thua lỗ và không thể xuất khẩu. Nói một cách ngắn gọn, có thể coi các TCT như một hình thức kiểm soát và theo dõi các doanh nghiệp thành viên một cách hành chính. Mô hình TCT, vì vậy, rất gần gũi với hệ thống kế hoạch hóa tập trung trong đó các doanh nghiệp hầu như không có quyền tự chủ - vốn là một điều kiện tiên quyết để tạo nên một tập đoàn thực thụ.
Trong mấy năm trở lại đây, chính phủ ngày càng nhận thức rõ về sự thất bại của mô hình TCT và đi đến quyết định phải cải cách những TCT này. Một trong những chính sách chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ này là kế hoạch xây dựng 19 tập đoàn nhà nước (TĐNN) - hậu duệ của 18 TCT 91 và TCT Kinh doanh và Đầu tư vốn Nhà nước (SCIC) - nắm giữ vị thế gần như độc quyền ở nhiều ngành công nghiệp nặng. Một nguyên nhân nữa, có lẽ còn quan trọng hơn, của việc hình thành các TĐNN vào thời điểm này là do sự kiện Việt Nam gia nhập WTO. Chính phủ lo ngại rằng các DNNN sẽ không thể cạnh tranh trong khuôn khổ “luật chơi” của WTO, và do vậy đã quyết định đẩy nhanh tiến độ thành lập các TĐNN để có thể cạnh tranh với các DN lớn của nước ngoài.
Có nhiều lý do để nghi ngờ rằng các TĐNN này sẽ không thể tự chuyển hóa mình để trở thành những DN cạnh tranh quốc tế. Nguyên nhân quan trọng nhất là cấu trúc của các tập đoàn này rất giống với các TCT trước đây, đồng thời những TCT này đã có 12 năm để chứng minh rằng chúng không thể thành công trong hoạt động xuất khẩu và cải thiện kết quả kinh doanh của mình. Trừ Sing-ga-po ra thì hình như không có nước nào khác trên thế giới đã từng thành công trong việc sử dụng DNNN như một phương tiện chủ yếu để xây dựng nên các DN cạnh tranh quốc tế. Có vẻ như Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau, sẽ không thể lặp lại thành tích này của Sing-ga-po.
Thế nhưng, ngay cả khi gạt sang bên một thực tế là các tập đoàn này đều là những DNNN, thì vẫn có nhiều lý do để nghi ngờ về khả năng các tập đoàn này một ngày nào đó sẽ trở thành những công ty lớn mạnh. Có thể nói những người ủng hộ mô hình TĐNN đã hiểu nhầm kinh nghiệm của các tập đoàn trên thế giới. Chẳng hạn như, việc dựng lên các tập đoàn lớn một cách duy ý chí không phải là một công thức phổ quát để hình thành nên những doanh nghiệp công nghiệp thành công trên thế giới, nhất là khi quyết định này không do các doanh nghiệp tư nhân thực hiện và được điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp và thể chế tốt.
Để kết luận, chính sách hình thành nên các TĐNN về thực chất là một sự kết hợp giữa cơ chế “phòng thử” và mục tiêu tiếp tục duy trì kiểm soát của nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp. Nếu quả thực là như vậy thì những TĐNN này sẽ không thể giúp Việt Nam xây dựng nên một nền công nghiệp nặng có tính cạnh tranh.
3.2. Tập đoàn và sự xuất hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu”
Đang tồn tại một mâu thuẫn cơ bản trong chính sách kinh tế của Việt Nam, đó là trong khi khu vực dân doanh trong nước và đầu tư nước ngoài là hai khu vực năng động nhất thì khu vực nhà nước lại luôn nhận được những khoản đầu tư và sự ưu ái của nhà nước. Mặc dù tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp thống nhất 2005 rất tiến bộ nhưng động năng này không biết có thể được tiếp tục duy trì hay không. Một số cuộc khảo sát gần đây cho thấy rằng tuy môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có một số cải thiện nhất định nhưng vẫn còn chậm so với các nước cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam. Thứ bậc xếp hạng về năng lực cạnh tranh quốc gia cũng cho thấy những tín hiệu tương tự. Khả năng tiếp cận đất đai và vốn của Việt Nam đã được cải thiện, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số rào cản đáng kể như thiếu lao động có kỹ năng và nhà quản lý trung-cao cấp, chưa có hiệp hội doanh nghiệp độc lập mạnh, thời gian tuân thủ luật thuế và pháp luật nói chung còn rất cao, hệ thống luật phá sản, sáp nhập và mua lại doanh nghiệp còn kém hiệu lực.
Có vẻ như nền kinh tế Việt Nam ngày càng bị thống trị bởi các tập đoàn kinh tế nhà nước. Trong khi chính sách của **** và chủ trương của nhà nước khẳng định rằng các tập đoàn kinh tế phải tập trung vào những ngành chiến lược thì trên thực tế, những tập đoàn này hiện đang mở rộng hoạt động một cách nhanh chóng và đầy tham vọng sang nhiều lĩnh vực khác nhau như bất động sản, dịch vụ tài chính, ngân hàng, lữ hành, và cả phân phối điện thoại di động nữa.50 Hầu hết các tập đoàn này không tận dụng cơ hội từ việc Việt Nam gia nhập WTO đem lại để thâm nhập thị trường quốc tế. Trái lại, những tập đoàn này lại cố gắng tạo ra những công ty độc quyền trong nước để ngăn cản cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. Một cuộc điều tra 200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam mới đây do UNDP thực hiện khẳng định rằng nhiều công ty trong “Top 200” của Việt Nam đang đầu cơ đất đai và chứng khoán mà thiếu tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi của mình. Nghiên cứu của UNDP còn cho thấy một xu hướng đáng lo ngại, đó là nhiều công ty dân doanh và cổ phần hóa ít chú tâm tới việc trở nên cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thay vào đó, những công ty này đang đua nhau tìm kiếm lợi nhuận tức thời trong khu vực bất động sản và tài chính. Chẳng hạn như cả REE - một công ty điện lạnh và Gemadept - một công ty vận chuyền đường biển đều đang đầu tư một cách mạnh mẽ vào nhiều dự án bất động sản. 51
Tương tự như vậy, một số tập đoàn kinh tế nhà nước như Petro Việt Nam, Vinashin, và EVN đang thành lập hay đoạt quyền kiểm soát ở một số ngân hàng. Sau đó, các tập đoàn này sẽ sử dụng ngân hàng để tài trợ cho các kế hoạch mở rộng lãnh địa của mình. Nếu như không có hệ thống kiểm soát đủ mạnh và khả năng phân tán rủi ro hiệu quả thì chắc chắn cấu trúc này sẽ dẫn tới những khoản vay và đầu tư quá mức của các thành viên tập đoàn. Các tập đoàn nhà nước đang lợi dụng sự bảo lãnh công khai hay ngầm của nhà nước để thực hiện các khoản vay lớn trên thị trường quốc tế. Tất cả những động thái này đều là những thủ thuật cổ điển mà các keiretsu của Nhật Bản và chaehol của Hàn Quốc (giờ đều đã mất hình ảnh vàng son thuở nào) từng thực hiện. Việc các thành viên của tập đoàn vay nợ và sở hữu chéo lẫn nhau, cùng với các khoản vay nước ngoài không được phòng vệ là những nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á và Đông Nam Á năm 1997.
Trong bài viết này và trong các phân tích về nền kinh tế Việt Nam chúng ta thường thấy sự phân biệt giữa 3 thành phần kinh tế: dân doanh, nhà nước, và đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, ranh giới trên thực tế của ba loại hình doanh nghiệp này không đơn giản và rành mạch như vậy. Hiện nay đã và đang xuất hiện một lớp doanh nghiệp mới mang danh cổ phần hóa nhưng thực chất đã được tư nhân hóa một cách nội bộ và qua đó biến tài sản nhà nước thành sở hữu riêng của mình. Đồng thời cũng xuất hiện một lớp doanh nghiệp khác, về hình thức là tư nhân, nhưng trên thực tế có mối quan hệ chặt chẽ và gần gũi với những người có thẩm quyền trong hệ thống nhà nước và lợi dụng mối quan hệ này để trục lợi thông qua việc đoạt được những hợp đồng béo bở hay những khoản tín dụng mềm.
Trong quá trình mở rộng phát triển của nhiều tập đoàn hiện nay cũng đã xuất hiện một số biểu hiện đáng báo động. Một “kịch bản” phổ biến khi mở rộng như vậy được miêu tả như sau. Tập đoàn nhà nước thành lập một công ty con, trong đó ban giám đốc của tập đoàn (còn gọi là công ty mẹ) và của công ty con nắm giữ một lượng cổ phiếu đáng kể của công ty con mới này. Một phần tài sản của tập đoàn (đất đai chẳng hạn) được chuyển cho công ty con dưới hình thức đầu tư hay góp vốn ban đầu. Khi cổ phiếu của công ty mới này được bán trên thị trường OTC hay trên thị trường chứng khoán thì những người chủ sở hữu của chúng sẽ hưởng lợi nhuận siêu ngạch từ việc ăn chênh lệch giá cổ phiếu (do khi cổ phần hóa doanh nghiệp bị định giá thấp hơn giá trị thị trường như trong trường hợp khách sạn Phú Gia Intimex). Trong thế giới mờ ám của những giao dịch nội gián như thế này, việc phân loại các nhóm sở hữu trở nên khó khăn. Những doanh nghiệp tư nhân giành được những “lô đất vàng” ở Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh chắc chắn phải có mối quan hệ mật thiết với một số quan chức nhà nước. Về bản chất, quá trình này không khác nhiều lắm so với quá trình bòn rút tài sản công thông qua tư nhân hóa đại trà ở Nga vào đầu những năm 1990, mặc dù ở Việt Nam, quá trình này xảy ra với tốc độ chậm hơn và mức tập trung của cải vào trong tay một thiểu số thấp hơn.
Một kịch bản thứ hai nhưng không kém phần đáng lo ngại là một số công ty con (đặc biệt là những công ty tài chính) mặc dù không thực sự có tài sản gì ngoài nhãn hiệu được thừa kế từ tập đoàn mẹ nhưng vẫn được IPO với những mức giá khổng lồ. Khi ấy, những nhà đầu tư nhỏ lẻ (nhiều người trong số họ đầu tư bằng những khoản tiết kiệm dành dụm cả đời) do thiếu thông tin vẫn cứ lao vào để cố mua bằng được chút ít cổ phiếu với giá thị trường giờ đã trở nên cao ngất, cao hơn nhiều lần so với giá trị danh nghĩa ban đầu. Kết quả là tiền của những nhà đầu tư nhỏ, thiếu thông tin và hiểu biết đã bị chuyển sang túi của những “đại gia”, đầy đủ thông tin nội bộ và mua được cổ phiếu ngay từ lần phát hành đầu tiên. 52 Những hoạt động như thế này không thể bền vững, và sớm hay muộn thị trường cũng sẽ điều chỉnh. Hậu quả khi ấy không chỉ là nhiều nhà đầu tư nhỏ, thiếu thông tin mất tiền, mà họ còn mất luôn cả niềm tin vào hoạt động quản trị của doanh nghiệp và chính sách của nhà nước.
3.3. Môi trường kinh doanh
Môi trường chính sách là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo xếp hạng năng lực cạnh tranh hàng năm của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam đứng dưới hầu hết các láng giềng Đông Á và Đông Nam Á. Mặc dù khi diễn giải các kết quả điều tra thuộc loại này cần phải rất thận trọng, bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh là một công cụ hữu ích trong việc đánh giá tốc độ cải cách của Việt Nam trong mối tương quan với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu. Quan trọng không kém, các nhà đầu tư nước ngoài đều nhìn vào những chỉ số về năng lực cạnh tranh và môi trường chính sách, thể chế trước khi ra quyết định đầu tư. Sự tăng nhẹ về thứ hạng của Việt Nam sẽ trở nên ít ý nghĩa nếu như những nước cạnh tranh với Việt Nam tăng nhanh hơn. Tôn Tử đã từng nói, tốc độ là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi.
Bảng 2: Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2005, 2006
[table]
|
2007
(trong số các nước được xếp hạng năm 2006)
|
2006
Sing-ga-po
|
7
|
8
Hàn Quốc
|
11
|
23
Hồng Kông
|
12
|
10
Đài Loan
|
14
|
13
Ma-lay-xia
|
21
|
19
Thái Lan
|
28
|
28
Trung Quốc
|
34
|
35
In-đô-nê-xia
|
51
|
54
Việt Nam
|
64
|
64
Phi-lip-pin
|
67
|
75
[/table]
FDI sẽ đóng một vai trò then chốt trong sự phát triển tiếp tục của Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể tận dụng cao nhất hiệu ứng lan toả của FDI thì những khoản đầu tư này phải được gắn kết một cách hữu cơ với nền kinh tế. Điều này, đến lượt nó, yêu cầu Việt Nam phải đẩy mạnh việc phát triển một khu vực dân doanh năng động có khả năng hấp thụ công nghệ và kinh nghiệm quản lý và tích hợp vào hệ thống cung ứng rộng lớn hơn. Thế nhưng trên thực tế, một số cuộc điều tra về môi trường kinh doanh của Việt Nam đã cho thấy các doanh nghiệp dân doanh của Việt Nam đang gặp phải nhiều trở ngại để trở thành lớn mạnh và có sức cạnh tranh cao hơn. Bên cạnh hai cản trở lớn nhất là nguồn nhân lực và CSHT như đã được đề cập ở trên thì các doanh nghiệp dân doanh còn phải chịu đựng một hệ thống hành chính quan liêu kém hiệu quả và nhũng nhiễu (xem Hình 7). Theo các doanh nghiệp được khảo sát thì thuế vụ và hải quan là hai cơ quan gây cho họ nhiều khó khăn nhất. Những chi phí và nhũng nhiễu này có thể được coi như một thứ thuế “bất thành văn” đánh vào khu vực dân doanh và FDI - là hai khu vực xuất khẩu mạnh nhất của nền kinh tế.
Những lĩnh vực hiện nay Việt Nam đang có tính cạnh tranh nhất là hàng nông sản thô như cà phê, hạt điều, cao su, gạo hay hàng thâm dụng lao động như giày dép và dệt may. Đặc trưng chung của những ngành này là chúng tạo ra rất ít giá trị gia tăng, đem lại lợi nhuận rất mỏng, và tốc độ tăng trưởng rất thấp. Thách thức cho tương lai của Việt Nam là một mặt tiếp tục duy trì tính cạnh tranh trong những ngành này vì dù sao chúng cũng là thế mạnh của Việt Nam, mặt khác chủ động tiến tới sản xuất các sản phẩm và dịch vụ thâm dụng tri thức, lợi nhuận lớn và tốc độ tăng trưởng cao. Việt Nam có thể học được nhiều điều từ bí quyết thành công của các nước Đông Á, vì các nước này đều tập trung vào những sản phẩm mà nhu cầu co giãn cao đối với thu nhập, nghĩa là khi giàu lên người ta tiêu thụ nhiều hơn như hàng điện tử tiêu dùng chẳng hạn. 53 Nền kinh tế Việt Nam hiện nay có tính cạnh tranh đối với các ngành công nghiệp tăng trưởng chậm và lợi nhuận thấp. Thách thức của Việt Nam trong tương lai là làm thế nào vươn tới các ngành tăng trưởng nhanh hơn, thâm dụng hơn về tri thức, và có giá trị gia tăng cao hơn.
Thêm vào đó, ngay cả những ngành công nghiệp cơ bản nhất cũng phải phụ thuộc vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu. Hiện nay, Việt Nam phải nhập khẩu tới 80% sợi nguyên liệu cho ngành may và 65% bột giấy cho ngành giấy. Ngay cả khi Việt Nam có một trữ lượng lớn quặng thép thì tỷ lệ nhập khẩu phôi thép cũng lên tới 60%. Trong khi Đài Loan sử dụng các DNNN để đầu tư công nghiệp theo chiều sâu thì Việt Nam lại sử dụng các DNNN để cạnh tranh với các nhà chế biến hạ nguồn. Thêm vào đó, hầu hết các DNNN này hầu như không đầu tư cho hoạt động R&D, và đầu tư rất ít cho hoạt động đào tạo và nâng cao tay nghề.
(còn tiếp)
-
17-02-2008 12:33 AM #2
- Ngày tham gia
- Oct 2005
- Bài viết
- 46
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Re: Lựa chọn Thành công - Tham Luận trình TT Nguyễn Tấn Dũng của các GS ĐH Harvard
Lựa chọn Thành công
Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á
cho tương lai của Việt Nam
Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020
(phần cuối)
Phần V. Khuyến nghị chính sách
VI. Điều kiện tiên quyết: Quyết tâm chính trị
Phân tích ở phần trên cho thấy quỹ đạo phát triển của Việt Nam gần giống với quỹ đạo của các nước Đông Nam Á hơn là các nước Đông Á. Sự thực là trong một số khía cạnh nhất định, Việt Nam thậm chí còn đang tiến gần tới vết xe đổ của các nước Đông Á và Đông Nam Á trước thời kỳ khủng hoảng 1997-1998 và của Trung Quốc hiện nay. Các nhà lãnh đạo của Việt Nam cần nhìn nhận những xu thế này như những lời cảnh báo cấp thiết về nhu cầu phải có những thay đổi chính sách thực sự. Mặc dù có những tín hiệu không khả quan nhưng điều đó không có nghĩa là quỹ đạo phát triển của Việt Nam trong tương lai là một điều gì đó có tính “định mệnh”, không thể thay đổi được. Việt Nam có nhiều thuận lợi so với Thái-lan, In-đô-nê-xia, Phi-líp-pin, trong số những thuận lợi này phải kể đến tính gắn kết xã hội cao và truyền thống văn hóa mạnh mẽ, trong đó bao gồm cả tính hiếu học và tinh thần chuộng cái mới. Việt Nam không bị chia rẽ vì những lý do dân tộc hay tôn giáo mà nhiều nước Đông Nam Á là nạn nhân. Với những thuận lợi to lớn này, có lẽ hơn ai hết, Việt Nam ở vị thế có thể tự kiểm soát được vận mệnh kinh tế của mình.
Một trong những nhận định của bài phân tích này là những chính sách Việt Nam cần thực hiện trong thời gian tới đã trở nên tương đối rõ ràng. Nhiều nước đi trước cũng đã từng gặp phải những thách thức của Việt Nam hiện nay, và điều đó có nghĩa là, bài học từ sự thành công hay thất bại của những nước này sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho Việt Nam. Rõ ràng là rào cản lớn nhất trên con đường phát triển của Việt Nam và các nước Đông Nam Á không phải là những khó khăn mang tính kỹ thuật, mà là quyết tâm chính trị. Chính sách đất đai là một ví dụ cụ thể. Nhà nước có thể sử dụng thuế bất động sản để chống đầu cơ, giảm giá đất, đồng thời tăng ngân sách quốc gia. Thế nhưng đến thời điểm này, Luật thuế bất động sản sau một số lần bị trì hoãn nay mới được đưa vào trong danh mục dự kiến xây dựng luật của Quốc hội Khoá XII. (Một câu hỏi nổi lên là những đại biểu dân cử trong Quốc hội và những “đầy tớ của nhân dân” trong chính phủ đang phục vụ cho lợi ích của ai, vì rằng tất cả mọi người đều thấy rằng đầu cơ trên thị trường đất đai đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát, đồng thời nhà nước cũng đang cần bổ sung nguồn thu.) Nói một cách ngắn gọn, quyết tâm chính trị - được hiểu như là ý chí thực hiện bằng được những quyết sách tuy khó khăn về mặt chính trị nhờ có lợi cho quốc kế dân sinh - là chất xúc tác cần thiết cho cải cách ở Việt Nam.
Các nhà lãnh đạo của Việt Nam đã từng tạo được quyết tâm chính trị mạnh mẽ để thay đổi sức ỳ của nguyên trạng. Đại hội **** VI nhất trí về nhu cầu cấp bách phải cải cách kinh tế. Vào thời điểm đó, vượt qua khủng hoảng kinh tế và bảo vệ sự tồn vong của **** là nhiệm vụ quan trọng số một. Từ đó đến nay, nguy cơ của khủng hoảng đã dần bị đẩy lùi, trong khi đó một số nhóm đặc quyền đặc lợi đã dần được hình thành với những mục tiêu không phù hợp với mục tiêu chung của quốc gia về công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Sự đồng thuận về cải cách của năm 1986 không còn nữa. Có vẻ như việc xây dựng một sự đồng thuận mới để đẩy mạnh cải cách và tăng trưởng chỉ khả thi khi bóng dáng của khủng hoảng đang tới gần. Chính phủ trước hết phải tự nhận thức được yêu cầu tiếp tục cải cách, để từ đó có thêm ý chí và quyết tâm chống lại những lực lượng phản đối cải cách.
Bài viết này không có ý xem nhẹ việc cải thiện năng lực có tính kỹ thuật của chính phủ. Ngày nay, chính phủ đang gặp phải một sự thiếu hụt đáng lo ngại về nguồn nhân lực và đây là một vấn đề có tính hệ thống. Từ trước đến nay, những tiêu chuẩn không liên quan nhiều đến năng lực thực sự như lòng trung thành, thâm niên, lý lịch gia đình v.v. thường được sử dụng như là những căn cứ chủ yếu trong việc tuyển dụng và cất nhắc trong hệ thống nhà nước. Vì vậy, giới trẻ Việt Nam có một cảm nhận rõ ràng rằng hệ thống nhân sự của nhà nước không trọng dụng người tài. Những hiện tượng này rất phổ biến ở các nước Đông Nam Á, và hậu quả của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội thì quả thực khó lường hết được. Trái lại, những hiện tượng này lại không thấy xuất hiện ở những nước Đông Á thành công nhất. Những nước này đều cố gắng sao cho những sinh viên xuất sắc nhất của các trường đại học luôn coi việc tiến thân trong hệ thống nhà nước là một trong những lựa chọn hàng đầu. Chính phủ những nước này tìm mọi cách để tuyển được người tài, sau đó trả họ một mức lương tương xứng với mức lương họ có thể nhận được ở các khu vực khác. Ở đây cũng vậy, cần có một quyết tâm chính trị mạnh mẽ để đoạn tuyệt với sức trì kéo của nguyên trạng.
Một số tên tuổi có uy tín ở Việt Nam, trong đó bao gồm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Giáo sư Hoàng Tụy đã báo động về tình trạng tê liệt vai trò quản lý của nhà nước. 66 Cả hai đều cho rằng các cơ quan của ****, của nhà nước, các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo đang đứng trước sự xâm thực của các nhóm lợi ích lợi dụng những cơ quan, tổ chức này để làm giàu cá nhân và bành trướng ảnh hưởng. Một số vụ việc được Thanh tra chính phủ dũng cảm đưa ra ánh sáng gần đây là những minh chứng thêm cho sự thoái hoá của hệ thống quản lý và hành chính nhà nước. 67 Tình trạng này cho thấy, đe dọa lớn nhất của chính phủ đến từ sự thất bại của chính nó.
VII. Khuyến nghị chính sách
Bài viết này cho rằng sự thành công của Đông Á có được chủ yếu là nhờ phản ứng ưu việt của nó trước sáu lĩnh vực chính sách. Để tránh “cái bẫy Đông Nam Á” và không lặp lại sai lầm của Trung Quốc đòi hỏi một hệ thống chính sách đồng bộ và nhịp nhàng trong cả sáu lĩnh vực này, và những chính sách này cần được phản ánh trong Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội 10 năm 2011-2020 đang được soạn thảo. Nếu được thực hiện một cách hiệu quả thì những chính sách này sẽ giúp Việt Nam thực hiện được mục tiêu tăng trưởng nhanh, đồng thời đảm bảo được công bằng xã hội.
1. Giáo dục
1. Cần công khai các ngân sách nhà nước dành cho giáo dục: Cuộc khủng hoảng hiện nay trong giáo dục không phải là hậu quả của việc thiếu đầu tư mà một phần là do sự lãng phí và kém hiệu quả trong chi tiêu giáo dục. Tăng cường tính minh bạch là một bước thiết yếu đầu tiên để cải thiện hệ thống giáo dục. Thứ nhất, nếu phụ huynh học sinh và báo chí có những hiểu biết đầy đủ hơn về cách thức phân bổ ngân sách giáo dục thì họ có thể thực hiện chức năng giám sát một cách hiệu quả hơn. Chính quyền trung ương khi ấy cũng có thể quy trách nhiệm cho chính quyền địa phương và lãnh đạo nhà trường một cách dễ dàng hơn. Thứ hai, sự minh bạch sẽ giúp chính phủ thành công hơn trong việc huy động nguồn tài trợ từ khu vực tư nhân và thiện nguyện vì khi ấy các nhà tài trợ sẽ có cơ sở để tin rằng đồng tiền đóng góp của mình được sử dụng một cách hiệu quả.
2. Thực hiện một cuộc cách mạng trong giáo dục đại học: Tình trạng khủng hoảng trong giáo dục đại học là một trở ngại cơ bản cho sự tiếp tục phát triển của Việt Nam, và vì vậy, những trở ngại này cần phải được giải quyết một cách mạnh mẽ, càng sớm càng tốt. Thực tế là chính phủ Việt Nam biết phải hành động như thế nào. Quyết định 14 kêu gọi một cuộc “cải cách toàn diện” đối với hệ thống giáo dục đại học, trong đó bao gồm những cải cách then chốt cần thiết để thổi một luồng sinh khí mới vào hệ thống. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện quyết định này đang quá chậm chạp. Nếu tốc độ cải cách giáo dục vẫn chậm chạp như hiện nay thì ngay cả việc đuổi kịp các nước Đông Nam Á cũng đã là một cái đích xa vời, còn nói gì đến việc đuổi kịp các nước Đông Á.
Nếu không cải thiện được kết quả của giáo dục đại học thì Việt Nam sẽ không thể tận dụng được một cách trọn vẹn lợi ích của đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã thành công trong việc thu hút được một số nhà đầu tư hàng đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ cao như Intel, Canon, Nidec, và Foxconn. Đây là một cơ hội ngàn vàng để Việt Nam chuyển đổi và vượt lên chiếm lĩnh những ngành có giá trị gia tăng cao hơn. Để có thể tận dụng tốt cơ hội này, Việt Nam cần đào tạo một số lượng lớn lao động có kiến thức và công nhân có kỹ năng để cung cấp cho những nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Nếu không thì có lẽ Việt Nam sẽ rơi vào hoàn cảnh tương tự như Ma-lay-xia - chịu thua trong cuộc cạnh tranh với các quốc gia có lao động tay nghề cao hơn với chi phí thấp hơn. Ngay ở Việt Nam hiện nay thì tình trạng mặt bằng lương gia tăng nhanh chóng, cùng với sự thiếu hụt lao động và công nhân liên tục chạy từ nơi này sang nơi khác đã làm nhiều nhà đầu tư tiềm năng phải cân nhắc kỹ trước khi đầu tư vào Việt Nam.
2. Cơ sở hạ tầng và đô thị hóa
1. Giải quyết tình trạng thiếu năng lượng: Để đảm bảo tình trạng thiếu điện không ngày một xấu đi, Việt Nam cần nhanh chóng thực hiện ngay một số hành động. Thứ nhất, tăng đầu tư cho các nguồn năng lượng ngoài thủy điện và cải thiện hệ thống phân phối. Yêu cầu EVN chấm dứt việc đầu tư nguồn nhân lực và tài lực khan hiếm của mình vào các hoạt động có tính đầu cơ, không nằm trong nhiệm vụ kinh doanh chính như viễn thông và bất động sản (xem khuyến nghị 3.1. ở dưới). Thứ hai, khuyến khích đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước, đồng thời xây dựng một môi trường điều tiết minh bạch và hiệu quả hơn để tạo động cơ và sự an tâm cho các nhà đầu tư tư nhân.
2. Thành lập Hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập: Việt Nam đang lãng phí rất nhiều tiền của vào các hạng mục đầu tư công kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do quá trình ra quyết định đầu tư công (của chính quyền địa phương và các bộ ngành chủ quản và chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích) không được đánh giá một cách thực sự khách quan. Hệ quả là các nhà lãnh đạo quốc gia không thể tin tưởng hoàn toàn vào tính chính xác của các lý do biện hộ cho các dự án đầu tư. Chính phủ cần thành lập một ủy ban đặc biệt, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Thủ tướng, có nhiệm vụ đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô vượt quá một ngưỡng nhất định nào đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó cần được công bố một cách công khai.
3. Áp dụng thuế bất động sản: Thuế bất động sản là một công cụ chính sách giúp nhà nước đối phó với tình hình đất đai hiện nay. Mức thuế suất nên được ấn định ở một tỷ lệ vừa phải, không thấp quá để có tác dụng ngăn chặn hành vi đầu cơ và khuyến khích chủ sở hữu bất động sản sử dụng chúng vào mục đích sản xuất và sinh lợi. Tuy nhiên, mức thuế này cũng không nên cao quá khiến những người đóng thuế tìm cách tránh và trốn thuế bằng nhiều hình thức, trong đó không loại trừ những hình thức làm tha hoá cán bộ thu thuế và rối loạn kỷ cương phép nước. Có lập luận cho rằng mức thuế cao quá có thể tác động một cách tiêu cực tới người nghèo. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề kỹ thuật và có thể giải quyết được bằng cách thiết kế một cấu trúc thuế thích hợp. Hiệu lực thi hành là một yêu cầu quan trọng đối với mọi sắc thuế nói chung và thuế bất động sản nói riêng. Để tăng cường hiệu lực thi hành, việc quản lý và doanh thu thuế nên được giao cho chính quyền địa phương. Khi ấy, chính quyền địa phương sẽ có động cơ thu đủ thuế để sử dụng vào những mục đích dân sinh ở địa phương.
Việc đánh thuế lợi vốn trên giao dịch bất động sản nhu Luật thuế Thu nhập cá nhân bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2009 có thể sẽ không giúp chấm dứt tình trạng đầu cơ. Thực tế là, khi không có cơ hội đầu tư hấp dẫn khác thì thuế lợi vốn có thể khuyến khích giới đầu cơ tiếp tục giữ tài sản và không thực hiện giao dịch.
4. Minh bạch hóa các quy định về đất đai: Hiện nay, thị trường bất động sản của Việt Nam bị coi là một trong những thị trường kém minh bạch nhất thế giới. Báo chí đã đưa tin về nhiều trường hợp trong đó nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng mối quan hệ của mình với chính quyền địa phương để chiếm được những mảnh đất có giá trị thị trường rất cao với một mức giá rất thấp. Cần đoạn tuyệt với cơ chế “xin-cho” bằng cách yêu cầu đấu thầu công khai quyền sử dụng đất. Chế độ hai giá - giá thị trường và giá quy hoạch của nhà nước - cũng cần phải loại bỏ vì đây là một nguồn gốc của tham nhũng.
5. Đầu tư thỏa đáng cho các thành phố: Liệu TP. Hồ Chí Minh sẽ trở thành một Manila hay một Seoul thứ hai? Hiển nhiên là nếu những xu thế hiện tại tiếp tục được duy trì thì thành phố lớn nhất của Việt Nam sẽ có nguy cơ nhiễm phải những căn bệnh tương tự như nhiều thành phố khác ở khu vực Đông Nam Á. Để tránh định mệnh đen tối này, chính phủ Việt Nam cần cho phép TP. Hồ Chí Minh điều hành các hoạt động của mình như các thành phố hiện đại khác trên thế giới, trong đó quyền lực được tập trung trong tay Uỷ ban Nhân dân, đồng thời buộc chính quyền thành phố phải chịu trách nhiệm đối với các quyết định của mình. Việt Nam cũng phải thừa nhận rằng sự phát triển ổn định và liên tục của các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ không đơn thuần là vấn đề riêng của vùng, mà hơn thế, là vấn đề của cả quốc gia để từ đó phân bổ nguồn lực cho vùng này một cách hợp lý và sử dụng chúng một cách hiệu quả để phục vụ cho mục đích dân sinh của cả khu vực cũng như của quốc gia.
3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Giải tán các tổng công ty và thận trọng với các tập đoàn: Các TCT được thành lập để khai thác lợi thế kinh tế theo quy mô và để nâng cao năng lực cạnh tranh. Thế nhưng cho đến nay, mặc dù cả hai mục tiêu này đều không đạt được nhưng các TCT vẫn tồn tại như một tập hợp lỏng lẻo các doanh nghiệp thành viên quy mô nhỏ với công nghệ lạc hậu và hướng nội. Những cải cách thực sự chỉ có thể xảy ra khi những doanh nghiệp này được dẫn dắt bởi các doanh nhân thực thụ, hoạt động dưới áp lực của cạnh tranh, khi mua bán - sáp nhập công ty được thực hiện trên cơ sở thương mại, và khi tồn tại cơ chế đào thải một cách dứt khoát các doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh. Tất cả những điều kiện này hoặc không tồn tại hoặc không thể thực hiện được trong hệ thống TCT hiện nay.
Sở dĩ phân tích này đề xuất một chính sách mạnh mẽ và dứt khoát như vậy là do việc chuyển TCT thành tập đoàn cũng không phải là giải pháp đúng đắn vì những vấn đề kể trên của mô hình TCT vẫn được chuyển giao gần như nguyên vẹn sang mô hình tập đoàn.
2. Hỗ trợ khu vực dân doanh: Bài viết này đã chỉ ra rằng mặc dù chính phủ Việt Nam luôn tuyên bố cam kết hỗ trợ khu vực dân doanh, nhưng trên thực tế khu vực nhà nước vẫn tiếp tục nhận được rất nhiều ưu ái, bao gồm khả năng tiếp cận đất đai và vốn trong khi khu vực dân doanh vẫn tiếp tục phải chịu sự nhũng nhiễu của quan chức và đối xử bất công của hệ thống chính quyền, đặc biệt là của hải quan và thuế vụ. Chính phủ Việt Nam cần loại bỏ sự bất bình đẳng này bằng cách đảm bảo rằng nguồn lực sẽ được phân bổ cho những ai có khả năng sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Tất cả các doanh nghiệp bất kể quy mô, loại hình, sở hữu đều phải công bố kết quả kiểm toán do những công ty kiểm toán độc lập và có uy tín thực hiện.
3. Thành lập Hệ thống Sáng tạo Quốc gia: Công viên công nghệ cao và các trường đại học nghiên cứu là các cấu phần của một hệ thống sáng tạo quốc gia, nhưng tự thân chúng thì vẫn chưa đủ. Việt Nam cần nhanh chóng thành lập Hội đồng Sáng tạo Quốc gia bao gồm các quan chức chính phủ (hiện đang làm việc hay đã về hưu), các doanh nhân xuất sắc, và các học giả trong và ngoài nước để xây dựng một kế hoạch sáng tạo quốc gia và sau đó tổ chức thực hiện kế hoạch này.
4. Hệ thống tài chính
1. Giảm lạm phát: Phân tích của bài viết này đã chỉ ra rằng lạm phát ở Việt Nam là kết quả của những chính sách sai lầm của chính phủ, chủ yếu xuất phát từ sự yếu kém trong quản lý - điều hành kinh tế vĩ mô và hoạt động đầu tư công kém hiệu quả. Chính phủ Việt Nam cần phải tái lập sự kiểm soát về các chính sách kinh tế vĩ mô. Để hoạch định chính sách một cách thích hợp trong bối cảnh môi trường vĩ mô của Việt Nam đã trở nên hết sức phức tạp đòi hỏi phải có một đội ngũ các chuyên gia kỹ trị. Có vẻ như trong chính phủ hiện nay đang thiếu các chuyên gia như vậy một cách trầm trọng, hay giả sử có một nhóm chuyên gia như vậy thì tiếng nói của họ cũng không đến được tai công chúng cũng như những nơi cần đến.
Lạm phát không chỉ là một thách thức về kinh tế, mà nó còn là một thách thức về chính trị. Sự ổn định về kinh tế vĩ mô sẽ giúp cải thiện hình ảnh và tính chính trực của nhà nước trong con mắt của doanh nghiệp và người dân. Nếu tình trạng lạm phát vẫn tiếp diễn hoặc trở nên xấu đi thì chắc chắn sự bất mãn của người dân sẽ dâng cao đến độ gây bất lợi cho hoạt động điều hành và uy tín của chính phủ.
2. Biến Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành một ngân hàng trung ương thực thụ: Cải cách khu vực ngân hàng ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, những thành tựu này sẽ không thể bền vững khi thiếu một ngân hàng trung ương thực thụ, có thẩm quyền và khả năng điều tiết, giám sát hệ thống ngân hàng, đồng thời điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường giờ đây đã trở nên phức tạp và tinh vi hơn rất nhiều. Điều này chỉ có thể trở thành hiện thực khi ngân hàng trung ương phải được độc lập trên các phương diện cơ bản, bao gồm độc lập về mặt tài chính, nhân sự, công cụ, và mục tiêu. Có như vậy cơ quan này mới có khả năng sử dụng quyền hạn và công cụ của mình để điều hành chính sách tiền tệ, giải quyết vấn đề lạm phát và mất ổn định vĩ mô một cách hiệu quả. Cũng cần nói thêm là tính độc lập này phải được tạo lập và duy trì bởi những cấu trúc thể chế thích hợp . Kinh nghiệm và mô hình ngân hàng trung ương của nhiều nước đã phát triển sẽ là những bài học quý cho Việt Nam trong quá trình xây dựng một ngân hàng trung ương vững mạnh.
5. Hiệu lực của Nhà nước
1. Loại bỏ những chính sách hoang đường: Các quyết định chính sách ở các nước Đông Á thường ra đời trên cơ sở hiểu biết và phân tích kỹ lưỡng thực trạng vấn đề. Một dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang còn thiếu phẩm chất này, đó là việc các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam hay đưa ra những chính sách có tính “hoang đường”, được hiểu là những chính sách tồn tại trên giấy tờ nhưng hầu như lại không có tác dụng gì trên thực tế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của những chính sách này: có thể là chúng không được tài trợ, không khả thi, hay đơn giản là định hướng sai ngay từ đầu. Chính sách cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho tất cả trẻ em dưới 6 tuổi là một ví dụ. Mặc dù về mặt lý thuyết đây là một chính sách đáng trân trọng, nhưng trên thực tế nhà nước không thể đủ tiền để tài trợ cho chính sách này. Kết quả là các bậc phụ huynh vẫn tiếp tục phải trả các khoản phụ phí ở phòng khám hay bệnh viện nếu như họ muốn con em mình được khám chữa một cách đầy đủ và kịp thời. Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân là một ví dụ khác của chính sách phi thực tế.
2. Nâng cao năng lực kỹ trị: Chính phủ cần xây dựng một đội ngũ các nhà phân tích và hoạch định chính sách tinh hoa bằng cách từ bỏ hệ thống nhân sự hiện nay để chuyển sang chế độ trọng dụng hiền tài.
3. Nhu cầu phân tích và thảo luận có tính phê phán trong nội bộ chính phủ: Các nhà lãnh đạo của Việt Nam không thể đưa ra những quyết định chính sách đúng đắn trừ phi họ được cung cấp những phân tích khách quan và toàn diện về tình hình cũng như những giải pháp lựa chọn. Những phân tích này chỉ nổi lên từ những cuộc thảo luận có tình phê phán trên tinh thần xây dựng. Vì vậy, chính phủ cần tích cực khuyến khích những tiếng nói phản biện và phê phán có tính xây dựng, đồng thời chấp nhận những ý kiến khác biệt.
4. Đẩy mạnh giám sát từ bên ngoài: Chính phủ chỉ có thể hiện thực hóa mục tiêu tăng cường chịu trách nhiệm bên trong hệ thống và đấu tranh chống tham nhũng nếu như báo chí có được một không gian rộng lớn hơn để có thể tham gia vào các phân tích khách quan đối với các chính sách và công chức của chính phủ.
5. Tăng cường tính chịu trách nhiệm của các nhà tài trợ: Các đối tác phát triển quốc tế của Việt Nam cần được khuyến khích để đóng một vai trò có tính xây dựng hơn trong các thảo luận chính sách. Với tư cách là nhà tài trợ đa phương lớn nhất, Ngân hàng Thế giới có một trách nhiệm đặc biệt trong việc chấm dứt hành vi tiếp tay hay biện hộ cho những chính sách hoang đường. Với những lời ca ngợi một chiều, cộng đồng các nhà tài trợ là một trong những nguyên nhân làm xói mòn năng lực phân tích chính sách một cách duy lý của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua. Viện trợ nước ngoài đã tạo nên một môi trường khuyến khích các trung tâm và viện nghiên cứu của nhà nước biến ưu tiên của các nhà tài trợ và nhận được dự án tài trợ mới thành ưu tiên.của chính mình thay vì nhiệm vụ vốn có của chúng là thực hiện các phân tích chính sách có liên quan và đưa ra khuyến nghị cho chính phủ.
6. Theo đuổi định hướng cải cách mạnh mẽ trong chiến lược 10 năm 2011-2020: Chính phủ Việt Nam đang soạn thảo chiến lược kinh tế xã hội 10 năm cho giai đoạn 2010-2020. Để thành công, chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn này phải tập trung cao độ để đi theo con đường phát triển của các nước Đông Á. Khi thực hiện những chính sách cần thiết để duy trì tăng trưởng và đạt được một mức độ công bằng chấp nhận được, chính phủ Việt Nam sẽ có thể bẻ lái nền kinh tế đi theo hướng của các nước Đông Á, đồng thời tránh khỏi “cạm bẫy” của các nước Đông Nam Á. Những thay đổi cần thiết hoàn toàn có tính khả thi và nằm trong tầm với của chính phủ. Tuy nhiên, thay đổi không hề dễ dàng. Nếu như những cơ hội hiện tại được tận dụng chỉ để biện minh cho sự thụ động và bất động trong chính sách thì trong tương lai, Việt Nam sẽ khó có lại những cơ hội vàng như hiện nay, đồng thời cũng không đáp ứng được kỳ vọng chính đáng của nhân dân về sự phát triển của đất nước.
6. Công bằng
1. Cải thiện chất lượng giáo dục: Thất bại của giáo dục đại học (và thậm chí của giáo dục cơ sở và phổ thông) trên thực tế được “giải quyết” bằng cách các gia đình khá giả tự thân vận động để đưa con em mình ra nước ngoài du học. Thế nhưng đây không thể là giải pháp cho một đất nước với gần 90 triệu dân. Để đảm bảo công bằng về cơ hội học tập và phát triển cho mọi người, hệ thống giáo dục trong nước phải được cải thiện một cách cơ bản. Dường như đang tồn tại một sự đánh đổi giữa số lượng học sinh nhập học ngày càng đông với chất lượng giáo dục ngày càng xuống cấp. Với cấu trúc dân số như hiện nay, lượng học sinh đến tuổi đi học ở các cấp trong thời gian tới sẽ tương đối ổn định, và do đó hệ thống giáo dục có cơ hội để tăng cường chất lượng mà không phải chịu sức ép quá tải. Điều này sẽ tạo cơ hội cho con em của những gia đình bình thường cạnh tranh với những gia đình khá giả hơn.
2. Cải thiện chất lượng y tế: Tỷ lệ tự trang trải chi phí y tế của người Việt Nam cao hơn so với người dân ở các nước trong khu vực. Hệ thống y tế của Việt Nam hiện nay đã bị “tư nhân hóa” theo nghĩa nhiều bác sĩ kiếm sống bằng cách kê những đơn thuốc hay thậm chí tiến hành những phẫu thuật không cần thiết. Chi phí y tế và không có thu nhập khi gia đình có người ốm là nguyên nhân quan trọng nhất đẩy các hộ ở mức cận nghèo xuống dưới ngưỡng nghèo. Bảo hiểm y tế “tự nguyện” vừa không hấp dẫn với người tham gia bảo hiểm, vừa không bền vững về mặt tài chính đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ bảo hiểm. Nhà nước phải dành ưu tiên cao nhất cho việc cung cấp đủ y, bác sĩ, các thiết bị y tế và nguồn tài chính cần thiết cho các trung tâm y tế ở cấp cơ sở. Các bệnh viện và phòng khám phải được theo dõi và điều tiết bởi cả nhà nước và các hiệp hội nghề nghiệp. Nhà nước cũng phải áp dụng các tiêu chuẩn y tế cao hơn.
3. Cải thiện khả năng sở hữu nhà cho người dân ở thành thị: Nhà nước cần nhanh chóng có giải pháp cho tình trạng giá nhà đất cao một cách phi lý ở các đô thị. Giá nhà đất quá sức chịu đựng sẽ khiến dân di cư đổ dồn về các khu nhà ổ chuột, chấp nhận chịu cảnh lụt lội, mất vệ sinh, ô nhiễm, và kém an ninh. Điều này tất yếu dẫn tới sự gia tăng sự bất mãn về mặt tinh thần và bệnh tật về mặt thể chất. Vì hầu hết lượng tăng dân số xuất hiện ở khu vực đô thị hay ven đô nên để đảm bảo sự công bằng cho những người dân di cư này, chính phủ cần tạo cho họ có cơ hội được hưởng một cuộc sống chấp nhận được.
4. Trợ cấp cho hoạt động đào tạo nghề: Khi công nhân mất việc không phải vì lỗi của họ mà vì sự biến động của nhu cầu thị trường thời thì cơ hội được đào tạo lại sẽ giúp họ giảm thời gian và chi phí cải thiện tay nghề, tăng cường kỹ năng, thậm chí chuyển sang công việc mới. Chính sách này cũng đóng vai trò như một tấm lưới an sinh giúp người công nhân giảm bớt chi phí do thất nghiệp. Chính sách này cũng đem lại cho lao động phổ thông cơ hội mới để cải thiện kỹ năng và nâng cao mức thu nhập.
5. Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn: Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng độ co giãn của cầu lao động trong nông nghiệp tương quan với số lượng và chất lượng của hệ thống thủy lợi. Thế nhưng hệ thống thủy lợi ở Việt Nam lại đang xuống cấp do hoạt động sửa chữa và bảo dưỡng không được đầu tư đúng mức. Trong khi quy mô canh tác cần được mở rộng khi người nông dân tiếp tục chuyển sang khu vực phi nông nghiệp thì sức sống của kinh tế nông thôn sẽ phụ thuộc vào sự phát triển của mạng lưới giao thông và dịch vụ. Trong thời gian tới, nông thôn vẫn tiếp tục là nơi sinh sống của đại bộ phận người dân Việt Nam và vì vậy cần được đầu tư thích đáng về CSHT để người nông dân có thể tăng được năng suất và giá trị cho các sản phẩm nông nghiệp. Những biện pháp nâng cấp này không phải là đầu tư xây dựng mới các khu công nghiệp hay cảng biển cho mỗi tỉnh mà bao gồm việc nâng cấp hệ thống giao thông, liên lạc, bảo quản, chế biến sau thu hoạch để kết nối khu vục nông thôn với thị trường rộng lớn hơn.
Thông qua việc cung cấp cho dân chúng những “hàng hóa công” mà chỉ nhà nước mới có thể cung ứng, nhiều người dân sẽ có cơ may cải thiện kỹ năng và thu nhập mà không phải tự trả thêm quá nhiều tiền. Trong xã hội lúc nào cũng có những người già, người bệnh hay tàn tật, người sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh - nói chung là những người cần sự quan tâm và trợ giúp đặc biệt. Tuy nhiên, đại đa số người dân Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ những khuyến nghị chính sách được nêu lên trong bài tiết này.
-
18-02-2008 04:39 PM #3
- Ngày tham gia
- Oct 2005
- Bài viết
- 46
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Có cần “can thiệp” vào thị trường chứng khoán?
Có cần “can thiệp” vào thị
trường chứng khoán?
Sự thành công của kinh tế thị
trường với tư cách một cỗ máy đem lại sự phồn vinh nằm ở chỗ đó là cơ chế đào
thải những tác nhân kinh tế yếu kém ra khỏi cuộc chơi một cách hữu hiệu... chứ
không phải bởi vì đó là một cỗ máy siêu nhiên có phép lạ liên tục sản sinh ra sự
giàu có
[table]
Khi thị trường chứng khoán
đi xuống, người ta luôn cho rằng có một lỗi lầm gì đó đang diễn ra ở đâu đó, mà
chẳng bao giờ buồn chất vấn lý tính của chính mình. Ảnh: Lê Quang
Nhật
[/table]
Sự phồn vinh gắn liền với nền kinh tế thị
trường là kết quả chứ không phải nguyên nhân của nền kinh tế ấy. Chính sự thanh
lọc hữu hiệu các phần tử kém ưu tú mới là nguyên nhân.
Thị trường tài chính, hay cụ thể hơn nữa
là thị trường chứng khoán, không chỉ đơn thuần là một trong số các thị trường:
nó là đỉnh cao của các loại thị trường. Do đó, nguyên lý trên càng đúng hơn bao
giờ hết. Nói cách khác, không phải sự tăng lên không ngừng của các chỉ số làm
thị trường phát triển, mà chính là cái khả năng gạt bỏ không thương tiếc, hữu
hiệu, từng lúc và ở mọi nơi, với chi phí thấp, những thành viên không ưu tú ra
khỏi thị trường, mới là nguyên nhân tạo nên sự bền vững cho thị trường này. Và
cái cơ chế gạt bỏ hữu hiệu ấy không gì khác chính là sự thăng trầm thất thường,
đa hướng, đa biên độ, không thể dự báo được của nó. Có thị trường hay cuộc chơi
nào không tàn yểu ngay nếu đa số người chơi luôn dự báo được kết quả chung
cuộc?
Thế nhưng ở nước ta hiện nay, quan niệm về
sự lành mạnh của thị trường chứng khoán dường như rất thiên lệch. Ở đây người
viết không muốn đi sâu vào nguyên nhân của tầm nhìn này, vì đó là một hiện tượng
phức tạp được đan bện nên từ nhằng nhịt những lối tư duy, động lực và lợi ích
rất khác nhau. Người viết chỉ muốn đi vào mô tả hình thức của nó.
Khi thị trường đi lên, người ta hân hoan
và ai cũng tự cho mình là thiên tài chứng khoán. Nhưng khi thị trường đi xuống,
người ta luôn cho rằng có một lỗi lầm gì đó đang diễn ra ở đâu đó, mà chẳng bao
giờ buồn chất vấn lý tính của chính mình. Hễ có dịp thị trường đi xuống, là ào
ạt hình thành những quan điểm như “tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài” hoặc
“giãn cung” và thậm chí là “kiểm soát cung” như cách hành ngôn nghiêm nghị của
một số người trong ngành chứng khoán.
Quan điểm “kiểm soát” rất dễ hình thành,
và thường hình thành một cách dễ dãi. Điều này làm lộ tẩy tư duy chống lại thị
trường (có thể nằm sâu trong tiềm thức) của những người đang sống trong nền kinh
tế thị trường nhưng chưa bao giờ thấm đẫm các giá trị của thị trường.
Vì sao phải kiểm soát hành vi phát hành,
vì khi cung tăng dồn dập như hiện nay, chính các doanh nghiệp tăng cung bị thiệt
trước tiên? Và họ cũng thấm thía điều này nhanh và trực tiếp hơn bất cứ một
người ngoài nào khác. Do đó, nếu họ thấy có hại cho họ, họ sẽ tự ngừng phát hành
mà chẳng cần tới yêu cầu của một ai. Nhưng nếu họ còn thấy có lợi, họ sẽ vẫn có
lý do để phát hành, bất chấp ai khác kêu ca là thị trường đang thấp. Thấp, như
thế, chỉ là thấp với những kẻ đang kêu ca, chứ nhất định không là thấp với doanh
nghiệp cứ nhất quyết phát hành, và lại càng không là thấp với những người muốn
mua thêm cổ phiếu.
Vậy việc kiểm soát là để giúp cho
ai?
Thực ra, việc tăng cung như thế sẽ lây lan
sang những người đang nắm giữ các cổ phiểu khác, đang hân hoan thấy tài sản của
mình mỗi ngày một nở ra như bong bóng. Khi bóng xẹp xuống dần, họ thấy quyền lợi
bị ảnh hưởng.
Do đó, tiếng nói đòi kiểm soát tăng cung
không phải để bảo vệ những doanh nghiệp sắp phát hành cổ phiếu, mà là những
doanh nghiệp đã phát hành rồi. Như vậy, chính sách này là một hình thức thiết
lập rào cản tham gia thị trường.
Cái tư duy cố hữu cứ động đến quyền lợi
của mình là đòi có chính sách bảo vệ, bất chấp cấu trúc thị trường bị méo mó ra
sao, và do đó là quyền lợi của anh ta về lâu về dài có thể phải lâm nguy thế
nào, luôn thường trực trong đầu rất nhiều người, dù họ tự cho mình là những đứa
con ưu tú của thị trường. Hành vi ấy xét về khía cạnh thị trường là chống lại tự
do, xét về khía cạnh tư duy là không duy lý, xét về khía cạnh văn hoá là thiếu
dân chủ.
Thiếu một trong ba yếu tố trên, thị trường
không coi anh là một người ưu tú.
Vì sao vẫn có những doanh nghiệp muốn phát
hành khi VN-Index đang xuống dốc bên kia của 1.000 điểm? Vì sao VCB vẫn IPO bất
chấp sự suy giảm của thị trường? Vì điều ấy có lợi cho họ. Họ muốn có những lợi
ích khổng lồ mà người khác đã nhận được rồi, mà họ thì chưa. VN-Index ở mức 800
là cao hay thấp? Giá VCB 100.000 đồng là thấp hay cao phi lý?
Chỉ số 800 chỉ là thấp với những người đã
mua cổ phiểu khi VN-index ở mức 1.000, và khư khư không chịu bán ra vì hy vọng
thị trường vẫn mãi mãi đi lên. Nhưng mức 800 lại có thể vẫn là cao chót vót với
những người chưa tham gia thị trường, cả từ phía cung lẫn phía cầu. Ai kêu khóc
cho chỉ số lúc 800? Chỉ là những người đang nắm giữ cổ phiếu từ lúc thị trường
đang hân hoan ở mức 1.000 và kẹt cả tài sản trong tài khoản. Cho nên, tiếng nói
đó chưa chắc là đại diện cho tất cả.
Có người kêu khóc thì cũng có người cho
rằng chỉ số 800 là ngày hội của những ai duy lý và sáng suốt, những ai biết rằng
đợi chờ là hành động dũng mãnh nhất trên thị trường.
Nguyễn Đức Thành
Nguồn: http://www.sgtt.com.vn/Detail23.aspx...008/0218/30244
-
24-02-2008 11:45 PM #4
- Ngày tham gia
- Oct 2005
- Bài viết
- 46
- Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi
Việc can thiệp mới đây cho phép mua cổ phần bằng đô la là quyết định sai lầm
[h1]Giải quyết lạm phát và bong bóng đòi
hỏi nhiều hơn
là hạn chế thanh khoản[/h1]
[h3]Vũ Quang Việt[/h3]
Việc thiếu thanh khoản
trong hệ thống ngân hàng đang trở thành khủng hoảng vì nhà nước Việt Nam đang
thực hiện nhiều mục tiêu mâu thuẫn nhau, trong đó mục tiêu quyết liệt giảm lạm
phát là mục tiêu mới. Trong tuần thứ 3 của tháng 2, mục tiêu này được thực hiện
trong chớp mắt, có thể nói là “hơi quả quyết” nhưng thiếu suy nghĩ, do đó nhanh
chóng đưa tới hậu quả xấu, và đến cuối tuần mất ngay tính quả quyết ban đầu.
Ngân hàng nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ rút về khoảng 10 ngàn tỷ, rồi tăng lãi suất
một chút (vẫn còn quá thấp so với tốc độ lạm phát hiện nay) và tuần qua đòi hỏi
các ngân hàng thương mại mua tín phiếu 20 ngàn tỷ đồng để rút về. Nhưng khi các
ngân hàng thiếu thanh khoản, lãi suất liên ngân hàng vọt lên, Ngân hàng Nhà nước
mất nhuệ khí, tung ra thị trường hơn 33 ngàn tỷ đồng vay ngắn hạn. Thế là xong
một cuộc đánh trống bỏ dùi. Tuy thế nó cũng có ưu điểm là NHNN đã lắng nghe thị
trường. Nhưng bất cứ một cuộc chống lạm phát nào cũng phải có trả giá.
Tại sao lạm phát lại
xảy ra tới mức báo động đỏ hiện nay ? (Nói là báo động đỏ bởi vì nếu không giảm xuống, nó sẽ
tạo ra tâm lý lạm phát, có thể đưa đến bất ổn xã hội vì lao động không đủ sống,
lại làm hàng hoá đắt đỏ với người đầu tư nước ngoài, do đó làm mất niềm tin vào
thị trường và chấm dứt cuộc đổ bộ đầu tư vào Việt Nam). Lạm phát do mức tăng tín
dụng, tăng tiền đã rõ từ lâu, ít nhất là từ năm 2004 khi mức tăng tiền lên đến
25 %, rồi mới đây nhảy vọt tới 35-40 %, nhưng nhà nước vẫn án binh bất động cho
đến mới đây.
Nhưng tại sao tín dụng
lại tăng như vậy ? Đó là vì những mục tiêu trong kế hoạch đặt ra đã đưa tới tình
trạng trên :
Mức đầu tư của ngân
sách và của công ty nhà nước quá lớn đưa tổng đầu tư lên trên 40 % GDP nhưng
thường vì thiếu hiệu quả và không đúng chỗ nên mức tăng GDP chỉ ở mức tạm gọi là
phấn khởi,
Mở rộng cho đầu tư ở
nước ngoài đặc biệt là vào thị trường tài chính (trong 7-9 tỷ chuyển vào Việt
Nam năm 2007, theo tôi ước đoán, chỉ có 3 tỷ là vào đầu tư trực tiếp) do đó tiền
chuyển đổi để mua Chứng khoán tất nhiên làm tăng khối lượng tiền tệ trong nền
kinh tế, nhưng khác với đầu tư trực tiếp không được các công ty bán ra chứng
khoán, hoặc các đại gia nắm Chứng khoán đầu tư vào sản xuất hàng hoá dịch vụ, mà
chủ yếu chạy đuổi theo hàng hoá có sẵn, nhà đất và chứng khoán, làm toàn bộ trở
nên bong bóng.
tất phải có biện pháp làm giảm khối lượng tiền tệ trên thị trường, nhưng như thế
vẫn không đủ và khi quá độ lại trở thành nguy hiểm. Các biện pháp thì hầu như
các nhà kinh tế đều biết :
Nâng lãi suất ở mức
cao hơn lạm phát để thu hút tiền vào ngân hàng, và tất nhiên việc này sẽ làm
giảm đầu tư và nhu cầu tiền vốn. Điều này chưa được làm đến nơi vì chạm vào mục
tiêu đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao (với đầu tư của nhà nước cao, để lãi
suất cao đưa đến thiếu hụt ngân sách lớn hơn, do đó mức in tiền lại lớn). Lãi
suất hiện nay vẫn còn âm so với tốc độ lạm phát nên không có sức thu hút tiền
gửi.
Cắt giảm đầu tư của
nhà nước. Việc này cũng động đến kế hoạch có tốc độ tăng trưởng cao.
Thực hiện các biện
pháp trung hoà như bán tín phiếu ngân hàng để thu tiền về Ngân hàng Nhà nước.
Giảm dòng chảy đầu tư
nước ngoài bằng cách tăng hối suất (hối suất chính là giá nhằm quân bình cung
cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước). Điều này tât nhiên mâu thuẫn với quyết
định của nhà nước là giữ hối suất ổn định để phát triển xuất khẩu.
thời các biện pháp này cùng một lúc và điều chỉnh tuỳ theo tình hình thực tế.
Điều chỉnh như thế nào tuỳ thuộc vào tình hình thực tế mà có lẽ chỉ có chính
quyền mới nắm được nếu thu thập đầy đủ và kịp thời thông tin. Chỉ giảm thanh
khoản bằng bán tín phiếu sẽ bóp ngay cổ họng ngân hàng thương mại tư và khu vực
tư nhân vì công ty nhà nước có lẽ sẽ êm thắm vì được ưu đãi.
Cũng cần nói thêm về
việc cần thiết tăng hối suất. Điều này không thể tránh được nếu như muốn giải
quyết lạm phát và nếu như không muốn có biện pháp ngăn cản dòng chảy tư bản nước
ngoài vào thị trường tài chính. Nói đến tăng hối suất là nói đến việc tự do hoá
hơn mua bán ngoại tệ trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên khó có thể tiên đoán
trước được hối suất ở mức nào có thể điều hoà được cung cầu ngoại tệ và đồng
thời không tạo khủng hoảng trên thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá. Do đó vẫn có
thể cần phải kiểm soát dòng chảy tư bản ở mức độ nhất định. Chẳng hạn dù không
cấm ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước, nơi có khả năng cung cấp thanh
khoản lớn nhất, có thể chỉ chuyển đổi ra đồng Việt Nam những trường hợp đặc biệt
như đầu tư trực tiếp hay đầu tư gián tiếp nhưng ở mức độ chiến lược tức là ở tỷ
lệ đáng kể và với thời gian sở hữu tối thiếu, không được bán lại trên thị
trường.
Dòng vốn tài chính từ
nước ngoài là con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế, đặc biệt đối với nền kinh tế
chưa có cơ chế điều hành và kiểm soát chúng. Khi chúng đổ vào nhiều như hiện
nay, nền kinh tế bội thực. Khi chúng tháo chạy mở đầu cho cuộc khủng hoảng ở
châu Á trước đây, nền kinh tế đói lả. Đã có lúc Mỹ và IMF cổ động mạnh mẽ cho tự
do dòng chảy vốn tài chính, nhằm biến thành nguyên tắc bắt buộc cho các thành
viên IMF, nhưng sau đó đã phải rút lại vì cuộc khủng hoảng ở châu Á năm 1997 và
sau đó là cuộc khủng hoảng ở Nam Mỹ. Malaysia là nước độc nhất lúc đó áp dụng áp
biện pháp kiểm soát do đó tránh cho nền kinh tế của họ bị đẩy vào khủng hoảng
trầm trọng như Indonesia và Thái Lan.
Có được một chính sách
kiểm soát dòng chảy tư bản là điều cần thiết.
Toàn bộ những hoạt
động chống lạm phát sẽ có ảnh hưởng đến thị trường Chứng khoán và thị trường nhà
đất nhưng đây là điều cần làm. Thanh khoản quá nhiều đã nhanh chóng đẩyhai khu
vực này thành bong bóng. Riêng khu vực Chứng khoán do ảnh hưởng khủng hoảng tài
chính của Mỹ đã làm xẹp bong bóng một phần đáng kể, và hiện nay ở chỉ số ở mức
độ khoảng 600-700 là tương đối hợp lý, và dù có xuống hơn thế cũng không cần sự
can thiệp của nhà nước. Việc can thiệp mới đây cho phép mua cổ phần bằng đô la
(hành động đầu tiên là giúp dầu khí đi vào hoạt động tài chính, một hoạt động
hoàn toàn trái ngành) là quyết định sai lầm vì nó sẽ đô la hoá nền kinh tế, làm
mất khả năng điều hành tiền tệ của NHNN và đồng đô la đó không nhất thiết không
chạy đuổi đồng Việt Nam để đổ vào hai thị trường quá nóng như nhà đất và chứng
khoán. Làm dẹp bong bóng nhà đất là điều cần làm, và điều này đang chờ đợi hành
động áp dụng thuế nhà đất ở mức hợp lý và thuế chênh lệch lãi trên lợi nhuận mua
bán nhà đất, ít nhất ngang bằng thu nhập doanh nghiệp khác. Dẹp bong bóng nhà
đất cũng cần chính sách khuyến khích đầu tư vào xây dựng nhà cửa, và làm giảm
việc đầu cơ đất bằng thuế đặc biệt đối với người mua quyền sử dụng đất nhưng
không sử dụng vào kinh doanh, nhằm đầu cơ.
[h3]Vũ Quang Việt[/h3]
Nguồn: www.diendan.org.
Thông tin của chủ đề
Users Browsing this Thread
Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)
Similar Threads
-
Công ty tin học Nguyễn Hoàng- cơ hội đầu tư
By danny25y in forum Thị trường OTCTrả lời: 0Bài viết cuối: 09-04-2007, 04:35 PM -
Mời các bác tham gia bình chọn chất lượng dịch vụ của công ty chứng khoán nào tốt nhất
By stock_sale in forum Giải pháp phát triển TTCKTrả lời: 0Bài viết cuối: 25-01-2007, 10:12 AM -
Cổ phần công ty Nguyễn Hoàng
By longb in forum Thị trường OTCTrả lời: 0Bài viết cuối: 21-11-2006, 08:47 PM
Bookmarks