Tổng quan về quĩ tiền tệ quốc tế
IMF

Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF) là một tổ chức quốc tế về tài chính và tiền tệ mà thành viên là
chính phủ các nước. Buổi đầu thành lập, IMF chỉ là một tổ chức hợp tác để giám
sát hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế, tuy nhiên nó cũng đồng thời hỗ trợ
hệ thống này bằng những khoản tiền đôi khi với số lượng lớn dưới hình thức cho
các nước thành viên vay.

Trên thực tế IMF có lẽ được dân chúng biết đến
nhiều hơn nhờ sự kiện nó đã đưa hàng tỷ USD vào hệ thống này trong thời kỳ khủng
hoảng nợ thập kỷ 80 và rót một lượng tiền khổng lồ vào Nga và Mêhicô hồi thập
niên 90. Tuy nhiên IMF được thành lập với các tôn chỉ mục đích riêng của nó


Các mục tiêu của IMF:
 Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết
chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải
quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.

 Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng
cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy
trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất
của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách
kinh tế.

 Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự
hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ
để cạnh tranh.

 Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương
giữa các nước thành viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới
sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế.

 Tạo niềm tin cho các nước thành
viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và
tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.


 Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh
toán của các nước thành viên.

Trong hơn 50 năm qua IF đã khẳng định được
vai trò cũng như thực hiện mục tiêu của mình trong việc duy trì sự ổn định và
thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
diễn ra trên quy mô ngày càng rộng với tốc độ ngày càng nhanh.

1. CƠ CẤU TỔ CHỨC

1.1.
Quá trình hình thành và phát triển của IMF

Vào thập kỷ 30, đã có nhiều
hội nghị quốc tế được tổ chức để giải quyết những vấn đề tiền tệ thế giới. Tuy
nhiên điều đó không có kết quả. Những giải pháp bộ phận và mang tính chất thăm
dò đã hoàn toàn tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu. Ðiều cần có là một sự hợp tác
với quy mô lớn chưa từng có giữa tất cả các quốc gia để xây dựng nên một hệ
thống tổ chức tiền tệ cách tân và một tổ chức để điều hành hệ thống này.
Mùa
hè năm 1940, một sự trùng hợp kỳ lạ đã xảy ra. Hai tư tưởng độc đáo và táo bạo
của Harry Dester White - Người Mỹ và John Maynard Keynes - Người Anh đã gần như
đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành động của
nó được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải bằng những
cuộc gặp gỡ quốc tế thoảng hoặc. Tuy nhiên, phải sau nhiều lần thương thuyết
trong điều kiện khó khăn của thời chiến, cộng đồng quốc tế mới chấp nhận một hệ
thống tiền tệ mới và một tổ chức để giám sát nó. Những thương thuyết cuối cùng
về thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (viết tắt là IMF) đã diễn ra ở Bretton Woods,
NewHamsphire, Hoa kỳ vào tháng 7/1944 giữa 44 quốc gia. Bắt đầu từ 1-3-1947 tổ
chức IMF chính thức đi vào hoạt động như một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp
Quốc (xem phụ lục 1). Khi đó IMF có 49 thành viên.

Trụ sở chính của IMF
ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve. Một nước có thể trở
thành thành viên của IMF nếu nó sẵn sàng gắn bó, trung thành với các chức năng
và nguyên tắc chủ đạo của IMF (xem biểu đồ 1). Từ l945 đến nay con số thành viên
của IMF lên tới 182 Quốc gia. Số lượng thành viên tăng đều đặn, không có biến
động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là không thay đổi và ngày càng được
zcủng cố.

Biểu đồ 1:
Sự phát triển về số lượng thành viên của IMF
1945-2002
( số lượng nước)


Nguồn:
Quỹ tiền tệ quốc tế là gì, Viện nghiên cứu IMF, Tháng 6.

Theo nhận định
chung thì IMF được coi là một tổ chức uy tín lớn có tính độc lập cao và cho rằng
Quỹ đề ra những chính sách kinh tế tối ưu cho các nước thành viên theo đuổi và
áp đặt các quyết định cho các nước thành viên và sau đó giám sát việc thực hiện.
Nhưng trái lại, chính các nước thành viên đã định ra các chính sách mà IMF phải
thực hiện. Các mệnh lệnh đi từ Chính phủ các nước thành viên đến IMF mà không có
lệnh ngược lại. Khi đưa ra các quy định về nghĩa vụ của từng thành viên đối với
Quỹ hoặc đưa ra những điều mục của hợp đổng cho vay với một thành viên nào đó,
IMF không tự hành động mà chỉ đóng vai trò trung gian giữa ý kiến đại đa số
thành viên của quỹ đối với các nước thành viên đó.

1.2. Cơ cấu tổ chức



Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng
quản trị gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1
lần. Hiện nay IMF có 182 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước
khác nhau. Hội đồng quản trị họp mỗi năm 1 lần. Trong kỳ họp, Hội đồng quản trị
phê chuẩn báo cáo hàng năm về hoạt động của IMF, xem xét việc kết nạp thành viên
mới và khai trừ thành viên ra khỏi tổ chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp
định...(xem phụ lục 2).

Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc
(còn gọi là Hội đồng điều hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành
trong đó 6 giám đốc do 5 nước có mức đóng góp lớn nhất và Arập xêút bổ nhiệm; 16
giám đốc do Hội nghị toàn thể bầu ra có tính đến khu vực địa lý.

Ủy ban
lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ quan tư vấn về các
vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974. Thành viên của Ủy ban
lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy ban
lâm thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội
đồng quản trị. Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm
thời thành cơ quan thường trực có quyền thông qua nghị quyết.

Một Ủy ban
khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối hợp giữa IMF và ngân
hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu cầu đặc biệt
của nước nghèo.
Bởi vì các ủy viên của Hội đồng quản trị và các ủy viên của
Hội đồng giám đốc đều bận bịu với công việc ở nước mình nên họ chỉ gặp mặt trong
các cuộc họp định kỳ hàng năm để cùng giải quyết các vấn đề của IMF.

IMF
có khoảng 2600 nhân viên, đứng đầu là Giám đốc điều hành, đồng thời cũng là Chủ
tịch Hội đồng điều hành (hội đồng tự bầu chủ tịch của mình). Theo truyền thống,
Giám đốc điều hành là người Châu Âu, nếu không thì cũng phải là người Mỹ. Hiện
nay, Tổng giám đốc IMF là ông Michel Camdessus quốc tịch Pháp, nhận chức tháng
1/1992, phó tổng giám đốc là Richard Erb người Mỹ. Nhân viên của IMF là người
của khoảng 120 nước và đa phần là nhà kinh tế học, song cũng có cả các nhà thống
kê, bác học, các chuyên gia về tài chính công cộng và thuế khoá, các nhà ngôn
ngữ học, nhà văn và các nhân viên phục vụ. Ða số các nhân viên đều hoạt động tại
trụ sở nhỏ ở Paris, Geneve, Tokyo, tại trụ sở của Liên hợp quốc ở NewYork hoặc
tại các văn phòng của IMF được thành lập tạm thời ở các nước thành viên. Khác
với các giám đốc chấp hành là những đại diện của từng nước thành viên, các nhân
viên của Quỹ chỉ là nhân viên quốc tế, họ có trách nhiệm thực thi chính sách của
IMF chứ không đại diện cho lợi ích của bất cứ quốc gia nào.

2. CHỨC NĂNG
CƠ BẢN CỦA IMF

2.1 Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối
đoái của các thành viên

Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các
nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Trong
hiệp định có ghi : ''Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra
trên lãnh thổ nước mình những hoạt động hối đoái giữa các đồng tiền của mình với
đồng tiền của những nước thành viên nào tôn trọng một sự cách biệt không quá 1%
chế độ đồng giá''.

Do sức ép của Mỹ, Hội nghị Bretton Woods phải chấp
nhận 1 tỷ lệ vàng USD là 35 USD – 1 ounce vàng. Cuối 1947 Bộ Trưởng Tài chính
Mỹ, ông Johw Suyder đã tuyên bố với Tổng giám đốc của IMF là Mỹ bán và mua vàng
bằng USD với giá 35 USD/ ounce cho tất cả các NHTW nào có yêu cầu. Ðiều này biến
hệ thống Bretton Woods thành một hệ thống bản vị USD.

Để giải quyết vấn
đề dự trữ của quỹ tháng 6-1967 Hội đồng Thống đốc IMF đã nhóm họp ở Rio de
Janeiro, thủ đô Brazil và đã chấp nhận nguyên tắc tạo ra một loại dự trữ quốc tế
mới là SDR (Special drawing right). Dự trữ SDR được thể hiện dưới hình thức bút
tệ, được ghi trong tài khoản đặc biệt của mỗi nước thành viên và có thể sử đụng
qua chuyển khoản. Giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc ban đầu được ấn định là
0,888671 gram vàng, tương đương với hàm lượng vàng của 1 USD. Ðến năm 1973 vì có
sự thả nổi hối suất của USD, giá trị của SDR được quy định căn cứ vào giá trị
tổng hợp của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng theo tầm quan trọng của mỗi
đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia trong tổng
giá trị xuất khẩu của thế giới. Năm 1981, giá trị tổng hợp đó chỉ còn căn cứ vào
5 đồng tiền của 5 nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975-1979 là
USD 40; FRF 11%; GDB 11%; JPY 17%; DEM 21%; Cứ 5 năm duyệt lại một lần: một lần
vào đầu năm 1986, một lần vào đầu năm 1991.

Tuy nhiên sau hơn hai thập
kỷ, hệ thống này đã bộc lộ nhiều yếu kém. Ðến đầu thập kỷ 70 khủng hoảng kinh tế
đã các thành viên của quỹ làm cho nó không thể duy trì hệ thống ngang giá tiền
tệ và tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ
hoàn toàn vào năm 1973 khi Tổng thống Mỹ Nixon tuyên bố ngừng chuyển đổi USD ra
vàng. Lý do chính là Mỹ không còn đủ khả năng về dự trữ vàng để tiếp tục quy đổi
với USD theo tỷ giá 35 USD/ounce vàng. Ðể đáp ứng được yêu cầu dự trữ ổn định
quỹ tiền tệ quốc tế trong hoàn cảnh mới của nền kinh tế quốc dân, IMF yêu cầu
các nước thành viên thực hiện bảy nghĩa vụ cũ là:
- Thi hành chính sách tự
do mua bán vàng trên thị trường.
- Tạo điều kiện cho đồng tiền của các nước
được chuyển đổi tự do.
- Loại bỏ dần các hành chế về hối đoái.
- Tôn
trọng quy định của các thành viên khác về hối đoái phù hợp với quy định của IMF.

- Cung cấp thông tin tài chính cho IMF
- Hợp tác với các nước khác việc
ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về tiền tệ .
- Duy trì 1 tỷ giá
hối đoái cố định .

Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ 1978 đến nay được
gọi là hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (hệ thống Jamaica). Nhiều cường quốc
ấn định tỷ giá của mình theo cơ chế thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này IMF có
vai trò lớn và thường kiến nghị, tác động đến chính sách quản lý tỷ giá của các
nước thông qua các điều kiện tín dụng. Tuy tác động, quản lý hệ thống tiền tệ
quốc tế theo nhiều cách gián tiếp nhưng IMF đã thực hiện chức năng duy trì ổn
định hệ thống tỷ giá hối đoái cố định tương đối l cách có hiệu quả. Bên cạnh đó,
việc thực hiện chức năng này còn được hỗ trợ bởi các hoạt động thực hiện các
chức năng khác.

2.2. Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn
tạm thời về cán cân thanh toán

Ðể thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy
trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế IMF đã cung cấp cho các nước thành
viên các khoản tín dụng cho các nước có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán.
Khi một nước rơi vào tình trạng này thì buộc họ phải giảm dự trữ ngoại hối hoặc
đi vay để tài trợ cho các hoạt động này.

Hậu quả là các nước đó phải đối
mặt với sức ép ngày càng tăng về tỷ giá hối đoái. Ðây chính là lúc IMF thực hiện
chức năng của mình. Nếu gặp khó khăn về cán cân thanh toán, một nước thành viên
có thể rút lại ngay lập tức 25% quota đã góp bằng vàng hoặc ngoại tệ có thể
chuyển đổi Trước 1980, IMF quy định thành viên hàng năm chỉ được vay tối đa 25%
và tổng các khoản vay không được quá 125% quota.

Ðể đáp ứng nhu cầu về
vốn, IMF đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng vốn. Năm 1962, IMF ký kết tổng
nghị định thư về vay mượn (General Agreement to Borrow) GAB với thời hạn 4 năm.
Sau đó tổng nghị định GAB được gia hạn nhiều lần và đến nay đã hoạt động ổn
định. Tham gia vào GAB có 10 nước tư bản chủ chốt (Mỹ, Anh, Hà Lan, Canada,
Pháp, Tây Ðức, Thụy Ðiển, Thụy Sỹ và Nhật Bản). Số vốn GAB tăng từ 6,4 tỷ SDR
lên 17 tỷ SDR vào 2/83. Ðối tượng vay vốn theo GAB này ban đầu chỉ là các nước
thành viên, nhưng từ năm 1984 các nước không phải thành viên cũng được tham gia.
Thời hạn cho vay không quá 5 năm. Gần đây Hội đồng quản trị đã chấp nhận Hiệp
định vay mượn mới (New Agreement to Borrow - NAB) cùng với 10 nước trên cũng
được thực hiện với Arập Xêút và đã tạo ra một nguồn vốn 1,5 tỷ SDR. Các khoản
vay NAB này sẽ có hiệu lực cho đến 26/12/1998.

Sau cuộc khủng hoảng tài
chính Mêhicô hồi cuối 1994 đầu năm 1995, Hội đồng quản trị IMF đã tăng cường khả
năng vay vốn để đối phó với tình trạng khẩn cấp trong tương lai bằng cách thông
qua NAB vào tháng l/1997. Theo NAB thì 25 nước và tổ chức có thể sẵn sàng cho
IMF vay 34 tỷ SDR (47 tỷ USD) để bổ sung cho nguồn vốn đóng góp của quý khi cần
thiết, ngăn chặn hoặc đối phó với tình huống bất thường có thể đe doạ sự ổn định
của hệ thống.

2.3. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và
chính sách kinh tế của các nước thành viên

Theo Hiệp định thành lập thì
mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là “thực hiện sự giám sát chặt chẽ tỷ
giá hối đoái của các nước thành viên''. Ðồng thời IMF có quyền áp đụng các
nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên cơ sở tôn trọng chính sách
của họ. Ðể thực hiện nhiệm vụ này IMF kiểm tra các vấn đề tiền tệ quốc tế và
phân tích các khía cạnh của chính sách đó có thể tạo ra tác động đến hệ thống
TGHÐ.

Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời
và hiệu quả đã tăng lên do nhiều biến chuyển cơ bản trong nền kinh tế toàn cầu :
tăng trưởng nhanh chóng của thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế
giới, gia tăng, chỉnh đốn tài khoản vãng lai và cải cách kinh tế theo hướng thị
trường của nhiều nước. Cuộc khủng hoảng Mêhicô năm 1995 và khủng hoảng tài chính
Ðông Á 7/1997 cho thấy sự cần thiết và vai trò giám sát quan trọng của IMF. Năng
l995, IMF đẩy mạnh chức năng giám sát, nhấn mạnh vào việc các thành viên cung
cấp đầy đủ, chính xác các số liệu.

Theo Ðiều 4 về quan hệ hợp tác giữa
IMF và thành viên, IMF được phép xem xét một cách có hệ thống sự phát triển kinh
tế và chính sách kinh tế của thành viên, đánh giá tác động của các chính sách
đối với tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán.

3. HOẠT ĐỘNG

Bất
kỳ một nước thành viên nào, khi gia nhập IMF đều phải cho các thành viên khác
trong quỹ biết dự định về chuẩn giá trị đồng tiền của nước mình so với đồng tiền
của các nước khác để tự kiềm chế và hạn chế việc đổi đồng tiền của họ lấy ngoại
tệ, và để theo đuổi những cơ sở kinh tế sẽ làm tăng của cải của nước thành viên
đó và của cả cộng đồng các nước thành viên bằng con đường hòa hợp và có lợi. Các
nước thành viên có trách nhiệm phải tuân theo điều luật này.

3.l. Vốn
hoạt động của quỹ và quyền rút vốn đặc biệt (SDR)
• Vốn hoạt động:
Khi
gia nhập IMF, mỗi nước thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định được
coi là một khoản lệ phí hội viên. Tuy nhiên khoản đóng này chỉ thực hiện khi quỹ
có nhu cầu: khi có ai cần vay tiền của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải
đóng. Chẳng hạn, nếu một nước muốn vay Bảng Anh thì khi đó IMF mới yêu cầu Anh
phải đóng. Số tiền này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau:

+ Thứ
nhất, nó tạo thành một khoản vốn IMF có thể trích ra cho các thành viên vay mỗi
khi họ gặp khó khăn về tài chính.

+ Thứ hai, nó là căn cứ để quyết định
số lượng tiền mà nước thành viên được vay và là cơ sở để phân bổ rút vốn lớn đặc
biệt (SDR) theo từng thời kỳ cho các nước thành viên. Dĩ nhiên, nước thành viên
nào càng đóng góp nhiều thì khi cần nó càng được vay nhiều.

+ Thứ ba, số
tiền ký quỹ này còn có vai trò quyết định quyền bỏ phiếu của nước thành viên.

Bản thân IMF là người quyết định số tiền mỗi nước thành viên phải nộp vào
quỹ sau khi phân tích đánh giá mức độ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó.
Nước càng giàu, lệ phí càng cao (xem phụ lục 3). Mức đóng góp của mỗi nước thành
viên vào IMF rất khác nhau. Năm 1985, Mỹ đóng 20,l%, khối EEC đóng 27,9%, còn
các nước đang phát triển đóng 32,4%. Mức lệ phí này cứ 5 năm lại được xem xét
lại, có thể tăng lên hoặc giảm đi tùy theo nhu cầu của IMF và mức độ phát đạt
của nước thành viên. Tuy nhiên từ l/4/1978, với sự sửa đổi điều lệ lần thứ hai,
việc xem xét và điều chỉnh phần đóng góp của mỗi nước thành viên được quy định 3
năm một lần. Năm 1945, 35 thành viên khi đó đóng góp vào IMF 7,6 tỷ USD, năm
1977 con số đó khoảng 200 tỷ USD. Ngày 6/2/1998 Hội đồng quản trị của IMF đã phê
chuẩn kế hoạch tăng 45% ngân quỹ của tổ chức này, từ 199 tỷ USD lên 288 tỷ USD.
Cho đến nay, Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, đóng góp nhiều nhất
cho IMF, chiếm khoảng 19% tổng số (40 tỷ USD); Marshall Island, một nước cộng
hoà đảo ở Thái Bình Dương đóng ít nhất khoảng 3,6 triệu USD (xem biểu đồ 2).

Biểu đồ 2:
Những thành viên lớn nhất của IMF tính theo cổ phần, 1997
(tính theo triệu SDR và % tổng số cổ phần)