Gởi các pác bài phân tích về báo cáo tài chính quý 3 so với quý 2 của em nó.


Trích dẫn Gửi bởi bnstock Xem bài viết
Về báo cáo tài chính quý 3 tui có cái nhìn ngược với pác, không hề ‘xấu đi rất nhiều’ mà ngược lại đang tốt lên.

Câu viết này của pác tui thấy không có ý nghĩa: “Một công ty mà bắt đầu phải rút bớt vốn đầu tư dài hạn đi để tăng cường quĩ tiền mặt lên, vậy mà tiền và các tài khoản tương đương tiền vẫn giảm so với kì liền kề thì sao mà OK được, nợ phải thu thì gia tăng, tất cả các điều đó nói lên một điều là do mấy quí liền kề bị thua lỗ nên áp lực tài chính ngắn hạn đang gia tăng”.

Cái đáng nói ở đây là về mặt quản lý tài chính, luân chuyển các nguồn tài sản trong Công ty sao cho hiệu quả nhất, điều đó thể hiện qua các chỉ số trên bảng cân đối kế toán và bảng kết quả hoạt động kinh doanh quý 3 so với quý 2 là tốt hơn. Tui phân tích qua các chỉ tiêu như sau để đánh giá tình hình quý 3 so với quý 2, thể hiện qua các chỉ số sau:

1. Hệ số thanh toán hiện thời (chỉ số này lớn hơn 1 là ok, tức Cty có tài sản ngắn hạn đủ để trang trải thanh toán cho nợ ngắn hạn): tại ngày 30/09/09 là 2,40 lần trong khi đó tại ngày 30/06/09 là 2,17 lần, tăng 0,23 lần tương ứng tăng 10,52%,. Điều này cho thấy khả năng thanh toán của Cty quý 3 đang tốt hơn so với quý 2.

2. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: tại ngày 30/09 là 1,69 lần trong khi đó tại ngày 30/06/09 là 1,48 lần, tăng 0,2 lần tương ứng tăng 13,8%. Điều này cũng cho thấy khả năng thanh toán của Công ty quý 3 đang tốt hơn so với quý 2.

3. Hệ số khả năng thanh toán tức thời (dùng tiền và các khoản tương đương tiền thanh toán nợ ngắn hạn): tại ngày 30/09 là 0,06 lần; tại ngày 30/06 là 0,11 lần, tức giảm 0,05 lần tương ứng giảm 44,03%. Chỉ tiêu này mặc dù giảm nhưng không ảnh hưởng đến tổng thể khả năng thanh toán của Công ty, vì lượng tiền và tương đương tiền nên duy trì một lượng vừa đủ, không nên quá dư cũng không nên để thiếu trầm trọng.

4. Hệ số nợ trên tổng nguồn vốn: tại ngày 30/09 là 0,28 lần, tại ngày 30/06 là 0,31 lần, tức giảm 0,03 lần tương ứng giảm 8,33%. Cho thấy cơ cấu nợ trong tổng nguồn vốn của Công ty quý 3 đã giảm so với quý 2.

Nhìn chung qua 4 hệ số này cho thấy Công ty hiện vẫn có khả năng thanh toán nợ đến hạn tốt và tốt hơn so với quý 2 (không có tình trạng phá sản hay mât khả năng thanh toán).

Câu này cũng vậy: “ANV có vốn chủ sở hữu lớn nhưng lại đem đầu tư tài chính và đầu tư nhà máy mới nên mới có cái khó khăn ngày hôm nay”.

Cái khó khăn ở đây đối với em nó là do khủng hoảng tài chính toàn cầu, ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu do đó làm giảm doanh thu, giảm lợi nhuận và bị lỗ trong những quý trước. Tuy nhiên cái chúng ta đang xem xét ở đây là báo cáo kết quả kinh doanh quý 3 so với quý 2, thể hiện như sau:

1. Doanh thu thuần về bán hàng: quý 3 đạt 477.116.316.787 VND, quý 2 đạt 555.268.657.987 VND, giảm 78.152.341.200 VND tương ứng giảm 14,07%. Tuy nhiên việc giảm này là do yếu tố thị trường thế giới, giảm so với quý 2 nhưng vẫn tăng hơn so với quý 1 là 86.236.342.787 VND tương ứng tăng 22,06%, và điều quan trọng là với lượng doanh thu bán hàng này kết hợp với việc giảm giá vốn, giảm chi phí hoạt động đã tạo nên kết quả không còn lỗ mà có lãi trong quý 3.

2. Tỷ lệ lãi gộp: quý 3 đạt 5,42%, trong khi quý 2 chỉ đạt 0,98%, tăng 4,43%. Điều này cho thấy giá vốn hàng bán đã giảm đáng kể trong quý 3, lượng hàng tồn kho giá cao đã được giảm gần hết trong các quý trước.

3. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: quý 3 đạt 1,00%, trong khi quý 2 đạt (3,30)%. Kết quả cho thấy cùng với việc giảm giá vốn hàng bán (tỷ lệ lãi gộp tăng), Công ty đã quản lý rất tốt chi phí hoạt động trong kỳ.

Tổng hợp lại cho thấy quý 3 đã tốt hơn nhiều so với quý 2, và theo nhận định kết quả này sẽ tiếp tục tốt hơn trong những quý tiếp theo do kinh tế thế giới đã thoát khỏi suy thoái và bắt đầu đi lên; thị trường xuất khẩu thủy sản luôn được Nhà nước quan tâm, hỗ trợ; chuẩn bị có thêm nguồn doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động khai khoáng; khả năng quản lý hiệu quả của Ban Giám đốc Công ty, đặc biệt là bác Doãn Tới.

Tui làm kiểm toán khá lâu nếu nói về phân tích cơ bản cũng biết vừa đủ, nói nhiều về báo cáo tài chính, các chỉ số này nọ nhưng cái quan trọng phải kết hợp với yếu tố giá mà tui sẽ đầu tư mua vào (đã viết ở các bài trên). Mỗi nhà đầu tư sẽ nhận định cho riêng mình để đưa ra mức giá mua vào thích hợp với mức kỳ vọng trong tương lai. Còn thị trường thì các pác cũng biết rồi, luôn có những cơn biến động của nó, và tâm lý của Ngài thị trường (chính là các pác và đôi khi bản thân tui) thì rất bất ổn, nhưng cũng chính vì thế mà sẽ xuất hiện cơ hội để lúc nào cần mua vào và bán ra.

Một vài dòng phân tích chia sẻ cùng các pác.