Tình hình hiện nay? - Part 9
  • Thông báo


    Kết quả 1 đến 20 của 2986

    Threaded View

    1. #11
      Ngày tham gia
      Jun 2012
      Bài viết
      2,127
      Được cám ơn 1,222 lần trong 841 bài gởi

      Mặc định Báo Nga

      Tàu 1 mình 1 phe rồi:

      http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tu...-quoc-3037655/

      Báo Nga lên tiếng về vụ giàn khoan Trung Quốc
      (Tin tức 24h) - Ngày 08/5, với tiêu đề “Đã đến lúc phải bảo vệ từng tảng đá”, tờ báo Nga “Vzgliad” (Quan điểm) đã cho đăng bài của Ban biên tập về nội dung này.
      Xin giới thiệu cùng bạn đọc bản lược dịch bài báo. Một số chi tiết và thuật ngữ có thể không chính xác nhưng người dịch vẫn để nguyên để bạn đọc hiểu thêm về cách nhìn của tờ báo Nga về vấn đề này.
      Lời dẫn của bài viết: Việt Nam đã giành được thắng lợi tuy nhỏ nhưng quan trọng trước Trung Quốc trong cuộc tranh chấp quyền kiểm soát các đảo tranh chấp.
      Xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam xung quanh các đảo không người nhưng giàu tài nguyên dầu mỏ và khí đốt lại trở nên căng thẳng.
      Trước đây đã có nhiều trận chiến giữa hai bên nhằm giành quyền kiểm soát các hòn đảo này, và lần này cuộc đối đầu không chỉ dừng ở các tuyên bố cứng rắn và các cuộc tập trận mang tính chất phô trương.
      Vai trò của Mỹ trong cuộc xung đột này như thế nào và liệu nó (xung đột) có đe dọa lợi ích của Nga hay không? Báo “Vzgliad” sẽ phân tích vấn đề này.
      Bộ đội Hải quân Việt Nam. (Ảnh từ bài báo) Sau khi lược qua diễn biến sự việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các vụ đụng độ ngày 7/5, báo Vzgliad kết luận: “Trong bất kỳ trường hợp nào thì thắng lợi trong vòng đấu này đã thuộc về phía Việt Nam. Nhưng chắc gì đây đã là vòng đấu cuối cùng?”.
      Báo này viết: “Thực ra, giàn khoan này được cử đến đây để tăng cường cho một giàn khoan khác của tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc đã có mặt tại vùng biển này trước đó. Hà Nội đã yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan này vì cho rằng nó đã xâm phạm chủ quyền của mình và Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế.
      Một sự thật không thể tranh cãi: về mặt địa lý quân đảo Hoàng Sa nằm ở phần cuối thềm lục địa của Việt Nam. Nhưng Trung Quốc khăng khăng bảo vệ lý lẽ của mình rằng khu vực giàn khoan tiến hành thăm dò nằm trong vùng lãnh hải của Trung Quốc, và như vậy Việt Nam đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Ai đúng ai sai – không quá quan trọng. Quan trọng là ai bảo vệ được vị thế của mình”.
      Máu và cát
      Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ với hầu hết các nước láng giềng ở 2 biển là Hoa Đông và Biển Đông. Nhưng trong tất cả các tranh chấp đó thì tranh chấp với Việt Nam có quy mô lớn nhất, kịch tính nhất, từ nhiều thế kỷ.
      Ví dụ, đầu năm nay là dịp kỷ niệm một sự kiện – tròn 40 năm tính từ ngày các hòn đảo của quần đảo Hoàng Sa cách không xa giàn khoan đang gây bê bối này hoạt động đã bị Trung Quốc chiếm đoạt sau sự kiện được gọi là “cuộc chiến vì Tây Sa”. Trước đó, trong suốt 15 năm đến thời điểm đó, Trung Quốc đã tiến hành nhiều chiến dịch nhằm thôn tính quần đảo tranh chấp này, nhưng đã không thành công.
      Một trong các hòn đảo tranh chấp nói trên là đảo Phú Lâm với diện tích khoảng 2 km2 là đảo có người ở: Tại đây Trung Quốc bố trí một đơn vị quân đội đồn trú, một trung tâm cứu hộ và thậm chí cả sân bay. Trên các hòn đảo còn lại vẫn không có gì thay đổi – chỉ có cỏ , các bụi cây và cát.
      Trên quần đảo còn lại – quần đảo Trường Sa, hiện có 4 sân bay, nhưng không có người ở thường xuyên. Trong thời gian thủy triều rút, quần đảo này được tính là có 400 hòn đảo, nhưng trung bình chỉ có 100, các đảo còn lại bị ngập dưới nước.
      Nhưng những tranh chấp xung quanh quần đảo này đầy kịch tính: ngoài Việt Nam và Trung Quốc còn có các nước khác đòi hỏi chủ quyền khác là Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan (còn Trung Quốc thì tuyên bố chủ quyền với chính Đài Loan).
      Năm 1988, tại quần đảo này lại xảy ra một trận hải chiến ác liệt, nhưng ít đổ máu hơn trận hải chiến ở Hoàng Sa như đã được mô tả ở trên. Đại bộ phận các đảo vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam.
      Cách đây không lâu, lại bắt đầu một đợt đối đầu mới, lại với Trung Quốc. Sau nhiều hành động phá hoại (của phía Trung Quốc như cắt cáp của Việt Nam), Việt Nam đã cho tiến hành các cuộc tập trận (trên biển), tiếp theo là các vụ biểu tình tự phát phản đối, các tranh cãi ngoại giao, cuộc chiến của các hacker và thậm chí là thông qua kế hoạch động viên. Đối với Việt Nam – quần đảo này là biểu tượng của tinh thần yêu nước.
      Dầu mỏ và cá
      Còn bây giờ, xin đề cập đến vấn đề tại sao xung quanh các hòn đảo trơ trụi này lại nhiều tranh chấp đến như vậy. Một thời gian dài các hòn đảo này được đánh giá là một bàn đạp quân sự quan trọng, rất cần để kiểm soát Biển Đông.
      Ngoài ra, vùng biển này (đặc biệt là khu vực quanh Trường Sa) có một ý nghĩa rất quan trọng đối với nghề cá. Nhưng khía cạnh quan trọng nhất là dầu mỏ và khí đốt. Cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa được các chuyên gia đánh giá là khu vực có triển vọng nhất, tuy việc dự báo trữ lượng cụ thể chưa thể thực hiện được vì nhiều lý do.
      Trung Quốc có các dự báo (về trữ lượng dầu mỏ) tương đối lạc quan, còn các chuyên gia Phương Tây thì có các đánh giá dè dặt hơn. Nhưng tất cả đều thống nhất ở một điểm – tại khu vực này có dầu, và thậm chí là có nhiều dầu.
      Cách đây mấy năm, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với khoảng 80% diện tích Biển Đông. Rất dễ hiểu là những tính toán của Trung Quốc xuất phát từ vị trí của đảo. Nói một cách đơn giản, nếu Trung Quốc tuyên bố các đảo trên (và không chỉ các đảo đó) là của mình nhằm cái đích lãnh thổ xung quanh các đảo đó cũng thuộc về Trung Quốc và kết qủa là 80% diện tích Biển Đông như đã nói.
      Vụ này đã vấp phải dư luận phản đối mạnh mẽ của các nước trong khu vực vì Biển Đông có vai trò vô cùng quan trọng đối với quan hệ thương mại của các nước đó - tổng kim ngạch thương mại của họ đạt gần 5.000 tỷ USD một năm. Khi phản hồi các công hàm phản đối, Trung Quốc tuyên bố sẽ không gây khó khăn cho việc tự do thương mại và sự tự do hàng hải trên các khu vực “lãnh hải” của Trung Quốc.
      Tuy nhiên, tình huống này đặt ra một vấn đề: nếu trước đây, việc tự do hàng hải (của các nước) là việc dĩ nhiên và không cần phải bàn cãi, thì từ này, có được điều đó là nhờ “thiện chí” của Trung Quốc???
      Còn một chi tiết rất quan trọng nữa: Trung Quốc khăng khăng phản đối việc triệu tập một hội nghị với sự tham dự của tất cả các quốc gia có liên quan để xem xét những vấn đề trên Biển Đông.
      Lý do chính khiến Trung Quốc có thái độ như vậy - đó là đề phòng trường hợp tất cả các bên (liên quan ở khu vực) cùng gây sức ép dẫn đến sự can dự không thể tránh khỏi của một thế lực thứ ba (trước hết là Mỹ).
      Giải quyết xung đột riêng lẽ với từng bên đối với Trung Quốc dễ dàng hơn nhiều và đáng tin cậy hơn nhiều. Học thuyết “hoà bình theo kiểu Trung Quốc” hoàn toàn có cơ sở trong những tính toán như vậy.
      Nếu đối thoại song phương, Trung Quốc trong một chừng mực nào đó có thể chấp nhận thỏa hiệp, nhưng những thỏa hiệp đó chỉ mang tính chất hình thức, chứ tuyệt đối không hề có giá trị thực tế.
      Một ví dụ: Đã có một số dự án về cùng khai thác và thăm dò nguồn năng lượng tại các khu vực tranh chấp (một trong số đó đã được ký kết với Việt Nam năm 1995 và được gọi là “mang tính chất lịch sử”, nhưng Trung Quốc dần dần biến các dự án đấy thành của riêng và những đối tác cùng tìm kiếm (tham gia các dự án) bị gạt ra ngoài lề (có vẻ như nạn nhân tiếp theo của các dự án kiểu như vậy sẽ là Brunei).
      Một yếu tố quan trọng nữa cần lưu ý- đó là ngôn ngữ được sử dụng trong các phát biểu (của các bên về chủ quyền) ngày càng cứng rắn. Tất nhiên, nếu so với các hành động xung đột quân sự thực sự những năm 70 thì đây chưa là gì.
      Nhưng nếu như 15- 20 năm trước đây chỉ chủ yếu là các nhà ngoại giao vào cuộc thì những năm gần đây điểm nhấn chủ yếu là các cuộc tập trận bắn đạn thật đi kèm với các tuyên bố mang tính đe dọa của giới tướng lĩnh kiểu “chúng tôi đang chuyển từ phòng thủ bờ sang phòng thủ trên biển”.
      Còn từ 01/01/2013, Bắc Kinh cho phép cảnh sát đảo Hải Nam “khám xét và kiểm soát các tàu nước ngoài xâm nhập bất hợp pháp vùng biển Biển Đông của Trung Quốc”. Tuy Trung Quốc chưa sử dụng quyền này lần nào nhưng bản thân lời đe dọa đó đã mang nhiều ý nghĩa.
      Nga và Mỹ
      Đối với Washington, việc Trung Quốc ngày càng mạnh rõ ràng không phải là một tin vui cho nên trong các tranh chấp ở Trường Sa đã ủng hộ Philippines là chủ yếu và nghiêng về phía Đài Loan (một trong các sân bay nhỏ trên các đảo đó do Đài Loan xây dựng).
      Chính Philippines là nước khởi kiện Trung Quốc trong khuôn khổ Công ước Liên Hợp quốc về luật biển. Cũng chính Philippines, được sự hỗ trợ của Mỹ, đã bắt đầu việc hiện đại hóa chưa từng có tiền lệ Hải quân của mình.
      Đôi lúc Philippines đẩy đuổi các tàu Trung Quốc ra khỏi khu vực các hòn đảo, nhưng tranh chấp chủ yếu vẫn là với Việt Nam, và địa chỉ chính của những tuyên bố về “phòng thủ chủ động các đảo của Philippines” là Việt Nam.
      Việt Nam đối với Mỹ không phải là một quốc gia thân thiện, nhưng trong vấn đề Hoàng Sa có lẽ Mỹ đứng về phía Hà Nội, hay nói chính xác hơn – không đứng về phía Trung Quốc trong những tham vọng bành trướng của nước này.
      Điều này đã được thể hiện rõ qua tuyên bố của Người phát ngôn Bộ ngoại giao Mỹ J.Psaki khi bà này đã gọi các hành động của Trung Quốc là khiêu khích và không thúc đẩy duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
      Còn trước đó, trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á và Khu vực Thái Bình Dương D.Russel đã tuyên bố là giới lãnh đạo Trung Quốc “không nên nghi ngờ” về sự sẵn sàng của Mỹ trong việc bảo vệ các đồng minh Châu Á của mình nếu Bắc Kinh sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ.
      Tình huống này có vẻ khá thú vị: mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh nhìn chung là tốt hơn nhiều so với mối quan hệ Hà Nội –Washington. Đã có thời gian “mô hình Trung Quốc” đã được Việt Nam áp dụng khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, và Bắc Kinh không chỉ đơn giản là đối tác thương mại quan trọng mà là đối tác thương mại quan trọng mang tính chất sống còn của Việt Nam.
      Mặc dù vậy, mối quan hệ cũng không cản được Hà Nội khai thác và xây dựng đường ống dẫn khí từ các khu vực về đất liền.
      Nga cũng đang tăng cường sự hiện diện của mình tại Biển Đông, nơi “Rosnheft” và “Gazprom” đang tiến hành thăm dò. Không những thế, mọi chỗ dựa về ngoại giao và pháp lý đều nhờ vào Việt Nam, một đất nước, ngoài tất cả các yếu tố khác, còn là một người bạn cũ và đã qua thử thách, một khách hàng mua vũ khí đáng tin cậy và là một thành viên của dự án thành lập khu vực tự do thương mại trong tương lai.
      Mặt khác, Trung Quốc là đồng minh địa- chính trị quan trọng bậc nhất và là một đối tác kinh tế. Và như vậy, đối với các nhà ngoại giao Nga, xung đột Trung-Việt là một bãi mìn thực sự. Không thể làm mếch lòng ai, không thể tranh cãi với ai, phải cân nhắc từng từ một. Hiện nay đã có một chút gì đó thành công.
      Vào năm 2012 khi “Gazprom” tuyên bố về việc mua gói cổ phần thăm dò 2 lô trên thềm lục địa của Việt Nam trên Biển Đông, phía Trung Quốc chỉ “bày tỏ hy vọng” là “các công ty của nước ở ngoài khu vực Biển Đông sẽ tôn trọng và ủng hộ nỗ lực của các bên thực sự quan tâm đến việc giải quyết các tranh chấp bằng con đường đàm phán song phương (Lưu ý – đàm phán song phương).”
      Lê Hùng (Lược dịch)

    2. Có 3 thành viên đã cám ơn ongbapcay :
      Chungdegiau (10-05-2014), Goldmember (10-05-2014), Racing Tricycle (10-05-2014)

    Thông tin của chủ đề

    Users Browsing this Thread

    Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)

       

    Bookmarks

    Quyền viết bài

    • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
    • Bạn Không thể Gửi trả lời
    • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
    • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình