Tuần Việt Nam gửi tới bạn đọc phần lược dịch bài viết trên Tạp chí kinh tế Viễn Đông số tháng 5 của Jonathan Pincus, chuyên gia kinh tế trưởng Liên Hiệp quốc và Vũ Thành Tự Anh, chuyên gia kinh tế chương trình Việt Nam của Đại học Havard.

Những vết rạn khá nghiêm trọng bắt đầu xuất hiện trong hệ thống tài chính và kinh tế của VN những tháng gần đây, đe dọa khả năng tăng trưởng. Liệu Chính phủ có những bước đi đúng và thành công để lật ngược chiều đi xuống của nền kinh tế?

Sự tuột dốc bất ngờ của nền kinh tế VN gây lo ngại về sự ổn định của hệ thống tài chính, nhất là khi tình hình xấu thêm. Tin tốt lành là các yếu tố nền tảng của kinh tế vĩ mô vẫn còn vững chắc. VN không nợ quá nhiều, tăng trưởng xuất khẩu mạnh và Ngân hàng nhà nước đã tăng được dự trữ ngoại tệ đáng kể trong năm qua. VN cũng hội nhập ít hơn so với Thái Lan và Indonesia nên không chịu sức ép lớn từ khủng hoảng cầm cố nhà đất Mỹ.

Chính phủ có thể hồi phục sự ổn định tương đối nhanh chóng bằng kiểm soát chi tiêu công và tiền vay của doanh nghiệp nhà nước. Tin xấu là việc này, dù đơn giản, nhưng rất khó để thực hiện thành công do các rào cản trong cơ quan nhà nước.

Không thiếu người ở VN hiểu được nguyên nhân gây bất ổn kinh tế hiện nay và các bước cần thiết để giảm lạm phát, hồi phục ổn định thị trường. Các vấn đề VN đang gặp phải không quá phức tạp hoặc không giải quyết được. Nhưng các cơ quan hoạch định chính sách lại phân quyền quá tản mạn, nên rất khó để thực hiện được giải pháp đồng bộ.

Chính sách tiền tệ là nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước, nhưng Bộ Tài chính lại kiểm soát lạm phát. Chính sách tiền tệ cũng do Uỷ ban Tài chính và Chính sách Tiền tệ Quốc gia giám sát, gồm các quan chức chuyên môn và đại diện các cơ quan chính phủ khác. Bộ Tài chính ra chính sách thuế và chi tiêu ngân sách, nhưng đầu tư lại do Bộ kế hoạch và đầu tư thực hiện. Trong khi đó, các tập đoàn kinh tế lại báo cáo trực tiếp với Thủ tướng, không qua các bộ.

Cần có những cải cách cơ bản để đơn giản hoá bộ máy hoạch định chính sách.

Khép các tập đoàn kinh tế vào kỷ luật

Vào đầu những năm 90, lo lắng vì hoạt động kém hiệu quả của các công ty nhà nước khiến chính phủ quyết định thành lập các tổng công ty và tập đoàn kinh tế, theo hình mẫu keiretsu của Nhật và chaebol của Hàn Quốc. Ý định ban đầu là quy mô lớn sẽ giúp các công ty cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Nhưng thay vào đó, các công ty này lại tập trung vào xây dựng quyền lực ở thị trường nội địa trong các lĩnh vực nhiều lợi nhuận như bất động sản, dịch vụ tài chính, viễn thông và du lịch.

Một số ít công ty xuất khẩu lại sử dụng quan hệ để được chính phủ bảo lãnh các khoản vay, dùng để mở rộng vào những lĩnh vực ngoài ngành kinh doanh chính. Vinashin nhận tiền từ trái phiếu Chính phủ VN phát hành lần đầu tiên năm 2006 và nhận 1 tỉ đô la tiền vay từ Ngân hàng Thuỵ Sỹ. Gần đây Vinashin vay 2 tỉ đô la trái phiếu từ Ngân hàng Đức trong dịp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Đức. Vinatext cũng vay 500 triệu đô la trong dịp này.

Chính phủ có nhiều dấu hiệu mất kiên nhẫn với các tập đoàn. Trong một cuộc gặp gần đây với lãnh đạo các tập đoàn để bàn về chống lạm phát, Thủ tướng nói mặc dù các tập đoàn kinh tế chiếm 60% nợ ở các ngân hàng thương mại và 70% vốn vay nước ngoài, họ chỉ tạo ra 40% tổng sản phẩm quốc nội GDP.

Vào tháng 4, Thủ tướng yêu cầu các tổng công ty và tập đoàn kinh tế phải đầu tư ít nhất 70% vốn vào ngành kinh doanh chính. Nhưng phản ứng của các tập đoàn kinh tế cho thấy đưa họ vào vòng kỷ luật không dễ.

Chủ tịch PetroViệt nam Đinh La Thăng cho rằng đây là biện pháp sốc và nói, “Nếu các tập đoàn, DNNN kinh doanh các lĩnh vực ngoài ngành có chiếm đến 40% hay 50% nhưng lợi nhuận họ thu được tốt thì không thể bắt họ rút về, có thể gây đổ vỡ doanh nghiệp”.

Chia sẻ lợi ích từ tăng trưởng

Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế khen ngợi nhiều về thành tích giảm nghèo, giáo dục cơ sở và cải thiện những chỉ số cơ bản như tỉ lệ chết ở trẻ sơ sinh và tiếp cận nguồn nước sạch. Nhưng VN phụ thuộc nhiều vào tiền ngân sách cho y tế và giáo dục. Chi tiêu công cho y tế ở hàng thấp thứ hai trong khu vực, sau Indonesia.

Các quỹ tiền công dành cho người nghèo thường không đến được tay người cần. Theo một điều tra mới đây của UNDP, 45% tiền chi trả cho y tế thuộc về 1/5 dân số là những người giàu nhất. Phần chi trả từ nhóm người nghèo nhất chỉ chiếm 7%. Chênh lệch này trong giáo dục là 35 % và 15%.

Chất lượng giáo dục và y tế là điều đáng lo ngại. Intel đã đưa ra một cú đấm khi tuyên bố rằng sau khi kiểm tra 2000 sinh viên từ 5 trường đại học công nghệ hàng đầu, chỉ có 40 sinh viên đạt tiêu chuẩn tối thiểu của họ. Intel nói đây là nước đạt chuẩn thấp nhất trong số những nước mà hãng này đã đến.

Không khó hiểu vì sao các gia đình VN phải tiêu tốn tới 1 tỉ đô la một năm cho con cái du học. Hệ thống trong nước không đáp ứng được như cầu về chất lượng, thậm chí với cả những người đủ tiền để trả.

Cải cách kinh tế ở VN đã vượt quá mong đợi của nhiều nhà quan sát. Tăng trưởng xuất khẩu lên tới 20% mỗi năm, tạo việc làm ổn định cho hàng triệu người ở nông thôn. Các doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài tạo hầu hết số việc làm mới trong 7 năm qua.

Nhưng những ngành này có lợi nhuận thấp. Có một hệ thống khác dành cho các doanh nghiệp nhà nước đói vốn, tập trung vào khai thác tài nguyên và phục vụ thị trường trong nước. Những công ty này chiếm phần lớn vốn vay từ ngân hàng quốc doanh và bắt đầu vay tiền nước ngoài, dùng lợi thế quan hệ để đổ tiền vào thị trường tài chính và bất động sản nhiều lợi nhuận.

Dù số liệu về họ còn rất thiếu, tỉ lệ lợi nhuận thấp hơn nhiều so với lĩnh vực tư nhân và đầu tư nước ngoài. Đáng lo ngại hơn là các tập đoàn bắt đầu lập ngân hàng. Các nước đang phát triển có đầy ví dụ về mâu thuẫn lợi ích trong các doanh nghiệp lập ngân hàng, dẫn đến các khoản vay thiếu thận trọng trong tập đoàn với nhau, dẫn đến mất kiểm soát tiền tệ và bất ổn taì chính.

Lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô của VN là hệ quả của những vấn đề dài hạn. Chỉ thắt chặt tiền tệ không đủ. Tăng lãi suất mà không giảm thâm hụt ngân sách có thể làm nguội nhóm công ty tư nhân nhỏ, nhưng không tác động mấy lên các tập đoàn kinh tế vay vốn từ ngân hàng quốc doanh với lãi suất ưu đãi hoặc từ nước ngoài. Chính phủ không thể giảm lạm phát cho tới khi kiểm soát được đầu tư công và đưa các tập đoàn kinh tế quốc doanh vào vòng kỷ luật.

Những người quan sát VN lâu năm nhanh chóng chú ý rằng các nhà làm chính sách VN thường có cách lắp ráp các giải pháp có tác dụng thực tế vào với nhau trong giai đoạn khó khăn. Thường bắt đầu bằng những cách làm “xé rào”, không tuân theo luật và sau đó được đưa thành chính sách chính thức.

Cung cách này có thể giúp VN vượt qua giai đoạn bất ổn này. Nhưng lần này chính phủ phải làm nhiều hơn. Việc “xé rào” bây giờ nằm ở việc các tập đoàn kinh tế đầu tư vào ngân hàng và xây dựng bất động sản. Thay vì cấm đoán việc này, chính phủ phải kiểm soát nó.

Việc tự do tài chính rất rủi ro khi thiếu hành lang quản lý minh bạch và thực thi đáng tin cậy. Với các nhóm lợi ích đang nổi lên trong nền kinh tế mới của VN, việc quản lý, kiểm soát