Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT
  • Thông báo


    + Trả lời Chủ đề
    Trang 1 của 4 1 2 3 ... CuốiCuối
    Kết quả 1 đến 20 của 63
    1. #1
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Chỉ số dao động Stochastic

      Chỉ số dao động Stochastic cho ta so sánh giá một chứng khoán đóng cửa với khoảng giá của nó trong một thời gian xác định. Chỉ số dao động Stochastic được thể hiện thành 2 đường. Đường chính được gọi là “%K”. Đường thứ hai được gọi là “%D” là trung bình trượt của “%K”. ... Đây là chỉ số rất quan trọng trong Phân tích kỹ thuật PTKT

      Tổng quan

      Chỉ số dao động Stochastic cho ta so sánh giá một chứng khoán đóng cửa với khoảng giá của nó trong một thời gian xác định.

      Giải thích

      Chỉ số dao động Stochastic được thể hiện thành 2 đường. Đường chính được gọi là “%K”. Đường thứ hai được gọi là “%D” là trung bình trượt của “%K”.

      Có một số cách để giải nghĩa chỉ báo Stochastic. Ba phương pháp phổ biến là:

      1.Mua khi Stochastic (cả %K hoặc %D) xuống dưới một mức nhất định (ví dụ:20) và rồi tăng lên trên mức đó. Bán khi Stochastic tăng lên trên một mức nhất định (ví dụ: 80) và rồi rơi xuống dưới mức đó.


      2.Mua khi đường %K lên trên đường %D và bán khi đường %K rơi xuống dưới đường %D.


      3.Tìm kiếm các phân kì. Ví dụ, khi giá đang hình thành các mức giá cao mới trong khi Stochastic đang rơi xuống thấp hơn, báo hiệu sắp có khả năng đảo chiều giảm gía.

      Ví dụ

      Đồ thị dưới đây là KDC và chỉ số dao động Stochastic 14 ngày của nó.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/stochastic.jpg[/IMG]

      Mũi tên “mua” được vẽ ra khi đường %K đi xuống dưới và rồi lên trên mức 20. Tương tự, mũi tên “bán” được vẽ ra khi đường %K lên trên và rồi lại xuống dưới mức 80.

      Tính toán

      Chỉ số dao động Stochastic có 4 biến:
      1.Các thời kì %K.


      Đây là số thời kì thời gian được sử dụng trong cách tính Stochastic.

      2.Các thời kì chậm %K .


      Giá trị này kiểm soát quá trình làm trơn của %K. Giá trị 1 được thừa nhận là Stochastic nhanh và giá trị 3 được thừa nhận là Stochastic chậm.

      3.Các thời kì %D.


      Đây là số các thời kì được sử dụng khi tính trung bình trượt của %K. Trung bình trượt được gọi là “%D” và được vẽ ngay trên đồ thị của %K.

      4.Phương pháp tính %D.


      Phương pháp (ví dụ: mũ, giản đơn, theo chuỗi thời gian, tam giác, biến đổi, hoặc tỷ trọng) được sử dụng để tính %D.
      Công thức tính %K là:


      Ví dụ, để tính %K 10 ngày, đầu tiên phải tìm ra giá cao nhất và giá thấp nhất trong vòng 10 ngày của chứng khoán. Vì là ví dụ, sẽ giả định rằng trong 10 ngày mức giá cao nhất là 46 và mức giá thấp nhất là 38 - khoảng giá là 8 điểm. Nếu giá đóng cửa ngày hôm nay là 41, %K được tính là:


      37.5% trong ví dụ cho biết rằng giá đóng cửa ngày hôm nay ở mức 37.5% trong khoảng giao dịch của chứng khoán trong 10 ngày. Nếu giá đóng cửa hôm nay là 42, chỉ báo Stochastic sẽ là 50%. Điều này có nghĩa là chứng khoán đóng cửa hôm nay ở 50% hoặc là điểm giữa của khoảng giao dịch 10 ngày.

      Ví dụ trên sử dụng %K chậm của 1 ngày (tức là không chậm). Nếu bạn sử dụng giá trị lớn hơn 1, bạn sẽ tìm giá trị trung bình của giá cao nhất và giá thấp nhất trong khoảng thời kì của %K chậm trước khi thực hiện phép chia.

      Trung bình trượt của %K rồi được tính bằng cách sử dụng số thời kì xác định trong các thời kì %D. Trung bình trượt được gọi là %D.

      Chỉ báo Stochastic thường giao động trong khoảng 0 đến 100. Giá trị của 0% cho thấy rằng giá đóng cửa của chứng khoán là mức giá thấp nhất mà chứng khoán đã giao dịch trong x- thời kì trước đó. Giá trị 100% cho thấy rằng chứng khoán đóng cửa ở mức giá cao nhất mà chứng khoán đó đã giao dịch trong x- thời kì trước đó.
      Last edited by tigeran; 25-09-2012 at 03:20 PM.

    2. #2
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Chỉ báo MACD

      MACD là một viết tắt của Moving Average Convergence Divergence (Trung bình biến đổi phân kỳ hội tụ). Công cụ này được sử dụng để xác định các trung bình biến đổi để cho biết một xu hướng mới, tăng giá hay giảm giá. Sau tất cả, ưu tiên số một của chúng ta trong giao dịch là có thể tìm ra xu hướng Phân tích kỹ thuật PTKT bởi vì việc này làm ra tiền. ...
      MACD là một viết tắt của Moving Average Convergence Divergence (Trung bình biến đổi phân kỳ hội tụ). Công cụ này được sử dụng để xác định các trung bình biến đổi để cho biết một xu hướng mới, tăng giá hay giảm giá. Sau tất cả, ưu tiên số một của chúng ta trong giao dịch là có thể tìm ra xu hướng bởi vì việc này làm ra tiền.

      Nó được cấu thành bởi 3 thành phần chính:

      1. Đường MACD: EMA (12): Đường trung bình giá trong 12 phiên gần nhất
      Trừ EMA (26): Đường trung bình giá trong 26 phiên gần nhất
      2. Đường tín hiệu MACD: là đường EMA (9) của đường MACD
      3. Đường biểu đồ MACD: là MACD trừ đi đường tín hiệu MACD

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MACD%201.jpg[/IMG]

      Chỉ báo MACD là công cụ rất có hiệu quả và nhiều tác dụng. Có 3 cách chính khi sử dụng chỉ báo MACD:

      - Sự giao cắt của đường trung bình giá.
      - Biểu đồ MACD
      - Sự phân kỳ của MACD

      MACD và sự giao cắt của đường trung bình giá(MA)

      Phương pháp sử dụng đầu tiên này là sự nghiên cứu hiện tượng giao cắt của các đường trung bình giá.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MACD%202.jpg[/IMG]

      - Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm trên đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với đường MACD cắt và nằm trên đường zero.
      - Khi đường trung bình ngắn hạn EMA (12) cắt và nằm phía dưới đường trung bình dài hạn EMA (26), điều này tương đương với MACD cắt và nằm phía dưới đường zero.

      Tín hiệu mua: Tín hiệu mua xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường zero.
      Tín hiệu bán: Khi MACD cắt và nằm phía dưới đường zero thì tín hiệu bán xuất hiện

      Những tín hiệu cảnh báo này thường xuất hiện rất trễ. Nếu sử dụng sự giao cắt của đường tín hiệu và đường MACD thì tín hiệu mua bán sẽ xuất hiện sớm và nhanh hơn.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MACD%203.jpg[/IMG]

      Tín hiệu mua: Xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía trên đường tín hiệu của MACD.
      Tín hiệu bán: xuất hiện khi đường MACD cắt và nằm phía dưới đường tín hiệu của MACD.

      MACD và sự giao cắt của các đường trung bình là một trong những cách sử dụng kỹ thuật chỉ báo MACD. Sử dụng biểu đồ MACD và sự phân kỳ của MACD là 2 phương pháp quan trọng để đưa ra những cảnh báo đảo chiều.

      Biểu đồ MACD

      Biểu đồ MACD là 1 dạng khá đơn giản, nó nói lên sự khác biệt giữa đường MACD và đường tín hiệu của MACD

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MACD%204.jpg[/IMG]

      Có 2 điều quan trọng nằm trong biểu đồ MACD:

      - Hội tụ: Biểu đồ MACD co rút lại, điều này mang ý nghĩa là có sự thay đổi hướng đi của đường giá đang chậm lại. Đường MACD có khuynh hướng tiến gần với đường tín hiệu của MACD.
      - Phân kỳ: Biểu đồ MACD giãn ra hoặc là tăng độ cao(không kể chiều âm hay dương), điều này mang ý nghĩa làm cho hướng đi của xu hướng giá tăng lên nhanh và chắc chắn.

      Khi đường giá di chuyển theo xu hướng giá một cách mạnh mẽ thì biểu đồ MACD sẽ tăng độ cao. Khi biểu đồ MACD không tăng độ cao nữa hoặc nó bắt đầu co rút lại thì thị trường lúc đó có khuynh hướng suy giảm nhẹ và cảnh báo có nhiều khả năng đường giá sẽ có đảo chiều trong thời gian sắp tới.

      Tín hiệu mua: Khi biểu đồ MACD nằm dưới đường zero và bắt đầu hội tụ về hướng đường zero.
      Tín hiệu bán: Khi biểu đồ MACD nằm trên đường zero và bắt đầu hội tụ về hướng đường zero.

      Lưu ý: Biểu đồ MACD không chỉ cho ra các tín hiệu mua bán khá chắc chắn mà còn được sử dụng cho việc cảnh báo khả năng thay đổi hướng đi của đường giá.

      Sự Phân Kỳ của MACD

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MACD%205.jpg[/IMG]

    3. Những thành viên sau đã cám ơn :
      carot3979 (25-05-2018)

    4. #3
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Chỉ báo Parabolic SAR

      Parabolic SAR là chỉ báo kết hợp giữa giá và thời gian để hình thành những tín hiệu mua – bán trên thị trường. Parabolic SAR cũng là công cụ hiệu quả để xác định vùng đặt điểm “dừng lỗ” (stop loss). Tín hiệu mua: Mua khi giá đóng cửa nằm trên đường Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR phải cao hơn đường giá. Có nghĩa là khi đường Parabolic SAR thay đổi từ giá trị cao chuyển sang giá trị thấp thì nhà đầu tư nên “dừng lại”...
      Chỉ báo Parabolic SAR

      Parabolic SAR là chỉ báo kết hợp giữa giá và thời gian để hình thành những tín hiệu mua – bán trên thị trường. Parabolic SAR cũng là công cụ hiệu quả để xác định vùng đặt điểm “dừng lỗ” (stop loss).

      Tín hiệu mua: Mua khi giá đóng cửa nằm trên đường Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR phải cao hơn đường giá. Có nghĩa là khi đường Parabolic SAR thay đổi từ giá trị cao chuyển sang giá trị thấp thì nhà đầu tư nên “dừng lại”; thực hiện mua rải hay bán khống để chờ tín hiệu đảo chiều xu hướng mạnh xảy ra hoặc có thể mua để đầu tư dài hạn.

      Tín hiệu bán: Tín hiệu bán xuất hiện khi giá đóng cửa nằm dưới Parabolic SAR và đồng thời đường Parabolic SAR thấp hơn đường giá. Ngay tại thời điểm này đường Parabolic SAR thay đổi từ mức thấp hơn đường giá lên mức cao hơn đường giá. Các nhà đầu tư nên “dừng lại”, cũng có thể bán để thoát khỏi xu hướng dài hạn hiện hành và chờ sự đảo chiều trong ngắn hạn.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/SAR.jpg[/IMG]

      Đặt điểm “dừng lỗ”

      Hiệu quả lớn nhất khi dùng Parabolic SAR để xác định vùng đặt điểm dừng lỗ là nhằm bảo vệ lợi nhuận hoặc giảm thiểu thua lỗ trong việc kinh doanh chứng khoán.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/SAR%202.jpg[/IMG]

      Parabolic SAR là công cụ xác định vùng đặt điểm dừng lỗ hiệu quả, được diễn tả theo 2 lập luận sau:
      Đặt điểm dừng lỗ thấp hơn giá của nhà đầu tư dài hạn mua vào hoặc trên mức giá của nhà đầu tư ngắn hạn chấp nhận mua. Sử dụng Parabolic SAR như là một công cụ điều chỉnh điểm dừng lỗ, điểm dừng lỗ sẽ từ từ tiến lên theo xu hướng dài hạn và thấp hơn xu hướng ngắn hạn. Nhưng hiệu quả nhất thì nhà đầu tư nên chốt lại mức lợi nhuận kỳ vọng của mình.
      Parabolic SAR hành động như là khoảng dừng về mặt thời gian (thời điểm dừng). Thời điểm dừng được sử dụng tùy vào từng nhà đầu tư. Nếu sự mong đợi của nhà đầu tư đó không xảy ra thì lý trí của nhà đầu tư đó bắt đầu bị buông lỏng một cách tư nhiên, tức là kỷ luật kinh doanh, mua-bán bị vi phạm. Khi đó, nhà đầu tư nên phải thoát khỏi thị trường. Tương tự như vậy, Parabolic SAR đã kết hợp với thời gian để làm cho đường giá hoạt động theo sự tính toán của nhà đầu tư. Nếu đường giá không di chuyển theo hướng đã tính toán trước thì Parabolic SAR sẽ là tín hiệu để xác định thời điểm thoát khỏi thị trường.

    5. #4
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      RSI (Relative Strength Index)

      Chỉ số RSI giải quyết vấn đề của những dịch chuyển bất thường và giải quyết nhu cầu về một biên độ giới hạn trên và dưới không đổi. Chỉ số RSI được xác định theo công thức sau: RSI = 100 - 100/(1+RS) RS = Trung bình giá đóng cửa tăng của x ngày/Trung bình giá đóng cửa giảm của x ngày...
      Chỉ số RSI giải quyết vấn đề của những dịch chuyển bất thường và giải quyết nhu cầu về một biên độ giới hạn trên và dưới không đổi. Chỉ số RSI được xác định theo công thức sau:

      RSI = 100 - 100/(1+RS)

      RS = Trung bình giá đóng cửa tăng của x ngày/Trung bình giá đóng cửa giảm của x ngày

      Số ngày được sử dụng trong tính toán là 14 ngày theo đồ thị hàng ngày; sử dụng đồ thị tuần số ngày sẽ là 14 tuần. Để xác định được các giá trị trung bình đi lên, chúng ta cộng tổng số điểm đạt được trong các ngày giá tăng trong 14 ngày và chia tổng số đó cho 14. Để xác định giá trị trung bình đi xuống, chúng ta cộng tổng số điểm bị mất trong 14 ngày giá giảm và chia lại cho 14. Sau đó “cường độ tương đối - RS” được xác định bằng cách chia trung bình giá tăng cho trung bình giá giảm. Giá trị RS này sau đó được đưa vào trong công thức tính RSI. Số lượng ngày có thể thay đổi bằng cách thay đổi giá trị của x.

      Ví dụ minh họa:
      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/RSI.jpg[/IMG]

      Đường RSI (sử dụng RSI 14 ngày) trong trường hợp này chúng ta có thể lấy 2 mức biên là 80 (overbought) và 20 (eoversold), biểu đồ đã cho thấy RSI đang đi xuống khi gặp mức 80 như vậy giá sẽ không thể vượt hơn mức trước đó và bạn nên mua khi giá rớt xuống tới lúc mà đường RSI chạm mức 30 ( chúng ta nên chọn 30 thay cho 20 trong trường hợp này). Tuy nhiên để rõ hơn thì cần kết hợp với đường Stochastic Oscillator hay ADX.

      Sử dụng RSI trong hệ thống mua bán (trading system):

      1. Các mức của RSI: 70% (thường dùng là 80%) là mức mà nhà đầu tư bán quá nhiều (overbought), 30% (thường dùng là 20%) là mức mà nhà đầu tư mua quá nhiều (oversold). Mua khi thị trường ở mức oversold và bán khi thị trường ở overbought lưu ý chỉ áp dụng điều này cho 1 thời kỳ biến động còn khi đang hình thành 1 xu hướng thì sẽ không đúng.

      2. EMA như là vai trò của đường hỗ trợ hay kháng cự (support or resistance). Mua khi RSI tăng lên trên EMA và bán khi RSI rơi xuống dưới EMA. EMA là 1 tính hiệu trễ và thường đưa ra tín hiệu mua khi vượt qua thời kỳ uptrend.

      3. Bullish divergence (tín hiệu phân kỳ mua): tín hiệu mua khi đường giá đang đi xuống trong khi RSI thì đang tăng, tương tự bearish divergence (tín hiệu phân kỳ bán): tín hiệu bán khi đường giá tăng trong khi đường RSi thì lại giảm. Mặt hạn chế của sự phân kỳ (divergence) là chúng cố gắng báo trước 1 xu hướng đảo chiều thay vì xác định theo 1 xu hướng.

      4. Dạng đồ thị: xu hướng, kháng cự/hỗ trợ, tam giác (triangles), đầu-vai (head and shoulders) khi áp dụng RSI nó giống như đường dẫn cho giá. Cái dở là dạng đồ thị: xu hướng, tam giá... là quan điểm cá nhân phụ thuộc vào chủ quan của từng traders nên không thể sử dụng trong trading system.

      Bố cục của RSI và Bollinger Bands: Chúng ta áp dụng Bollinger Bands (BB) để nghiên cứu chỉ báo RSI. Tín hiệu mua xảy ra khi RSI rớt xuống dưới dải dưới của BB (lower BB), tín hiệu mua xuất hiện khi RSI tăng vượt qua dải trên của BB (upper BB). Đây là những chỉ báo tương phản xu hướng vì chúng ta cần phải sử dụng thêm vài bộ lọc của xu hướng. Chúng ta có thể thêm vào chỉ báo MACD vào bộ lọc xu hướng như sau: nếu MACD > 0 thì xu hướng đi lên.

      Hình minh họa:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/RSI%202.jpg[/IMG]
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    6. #5
      Ngày tham gia
      Aug 2010
      Bài viết
      648
      Được cám ơn 325 lần trong 218 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Trendline--Đường xu hướng

      Trendlines có thể nói là hình thức phân thích kĩ thuật phổ biến nhất hiện nay. Mình cũng xin thêm vào là những đường này có thể là một trong những đường bị tận dụng kém công suất nhất trong tất cả các được. Nếu vẽ đúng các đường này có thể chính xác vì bất cứ hệ thống nào khác hoặc phương pháp nào khác mà bạn thường nhắc tới. Thật không may hầu hết các traders đều vẽ các đường này ko đúng hoặc cố gắng khiến cho đương này phù hợp với thị trường thay vì cách ngược lại ....
      Thứ cần phải xem xét đầu tiên trong khi nhìn vào bất cứ thị trường nào là hướng của xu thế lâu dài ( long term trend) ( ngoại trừ đối với các day traders)

      Giá chỉ có thể đi theo 3 hướng: lên, xuống và sang 2 bên ( sideways). Một đường dài những khu vực giá cả đưa ra cho bạn một kiểu thị trường. Sẽ có rất nhiều chỗ lõm ( dip) và chỗ lồi (bumps) dọc đường đó nhưng bạn vẫn nên nhận thức một hướng chung lên, xuống hoặc sang 2 bên.Chúng ta có thể nhận ra hướng này hoặc xu thế này bằng cách vẽ " trendlines"

      Trendlines có thể nói là hình thức phân thích kĩ thuật phổ biến nhất hiện nay. Mình cũng xin thêm vào là những đường này có thể là một trong những đường bị tận dụng kém công suất nhất trong tất cả các được.

      Nếu vẽ đúng các đường này có thể chính xác vì bất cứ hệ thống nào khác hoặc phương pháp nào khác mà bạn thường nhắc tới. Thật không may hầu hết các traders đều vẽ các đường này ko đúng hoặc cố gắng khiến cho đương này phù hợp với thị trường thay vì cách ngược lại .

      Đường xu hướng tăng (Uptrend)

      Trong hình thức cơ bản nhất của các đường này, môt đường xu hướng tăng được vẽ dọc đáy của 2 khu vực support dễ phát hiện ( thường được gọi là valley) . Với 3 điểm ta có một đường xu hướng, càng nhiều điểm thị sự chính xác càng cao .Nói cách khác, đường uptrend lines được vẽ bằng cách nối càng nhiều những đáy thấp liên tục nhau ( dọc trên một khu vực giá đáy) thì càng tốt. Một đường trendline có xu thế đi lên đại diện cho một khoảng support lớn đối với giá miễn là đường này chưa bị xâm phạm.

      Điều quan trọng nhất ở đây là khỏang thời gian chúng ta cần xét đến là bao lâu, cái này người ta gọi là khung thời gian (time frame). Thông thường ở VN người ta chọn là ngày, tuần, tháng và sau đó là năm.

      Đường xu hướng tăng cho biết thị trường sẽ tiếp tục với xu hướng đó cho đến khi xu hướng đó bị gãy (broken). Trong xu hướng tăng giá, cái cơ hội mua xảy ra khi đường giá nằm trên đường xu hướng này. Đường xu hướng tăng giá nhằm giúp đỡ nhà đầu tư kiểm tra lại tín hiệu mua của thị trường bằng cách: đường giá di chuyển gần sát hay phía dưới đường xu hướng tăng và sau đó nó hồi phục và chuyển động theo hướng lên trên đường xu hướng tăng.

      Ngược lại nếu đường xu hướng tăng bị gãy thì nó sẽ cho tín hiệu bán khi đường giá cắt qua đường xu hướng hướng tăng và có hướng đi xuống.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/trend%20line%201.jpg[/IMG]

      Đường xu hướng giảm (downtrend)

      Trong 1 xu hướng hạ, đường xu hướng được vẽ dọc các đỉnh của 2 khu vực resistance dễ nhận ra ( gọi là peaks). Nối càng nhiều điểm thì đường xu hướng này càng chính xác.

      Nói cách khác, Các đường xu hướng loại này là các đường nối các đỉnh cao liên tục nhau. Các đường này có thể được vễ để biểu thị đỉnh của một xu hướng đã được hình thành. Những đường xu hướng này biểu thị một khu vực chủ chốt gọi là resistance.

      Đường này có ý nghĩa là: hướng đi tòan bộ của 1 xu hướng. Nó có thể đo được xu hướng bị gãy như thế nào.

      • Đường giá luôn nằm dưới đường xu hướng này, đâu là cơ hội mua tốt nhất của thị trường trong tương lai.

      • Tăng theo bậc thang, giảm dần theo độ cao”. Với ý nghĩa như vậy khi thị trường đang đi xuống là vô cùng nguy hiểm đối với những nhà đầu tư vì họ sẽ có những cuộc mua bán hết lớn trong giai đọan này. Nó giống như công việc đóng đinh vậy: khi đóng 1 cái đinh to thì chúng ta phải đóng thật chậm

      • Nhưng khi thị trường đi xuống , xu hướng này sẽ kết thúc khi có sự giao dịch lớn và ít biến động, thông thường thì chúng ta phải chờ cho đến khi đường xu hướng bị gãy trước khi nói rằng xu hướng cũ đã kết thúc. Xu hướng xuống bị gãy khi giá nằm phía dưới đường xu hướng và chuyển động vượt qua đường xu hướng. nhưng phải cẩn thận với các bẫy của người bán; cái bẫy này là hiện tượng mua nhiều tạo ra tại 1 thời điểm và đường giá vượt đường xu hướng trong khỏang thời gian ngắn nhất định, sau đó lại tiếp tục xu hướng xuống chứ không phải thật sự là bị bẻ gãy đường xu hướng.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/trend%20line%202.jpg[/IMG]

      Các xu thế có thể đẩy và kéo giá thị trường lên hoặc xuống. Các thị trường cũng có thể bước vào một giai đoạn rất bình định khi mà giá hình thành một đường sang 2 bên ngang suốt trang giấy. Một thị trường có xu hướng sang 2 bên thì tường là một thị trường rất khó trade. Tuy nhiên , sau khi mà xu thế sang 2 bên này bị phá vỡ( thường có dấu hiệu bằng việc giá phá vỡ một đường trendline được thành lập chắc chắn) thị trường có một bước ngoạt mạnh mẽ.

      Một kiểu thị trường sang 2 bên như thế đại diện sự ổn định giữa cung và cầu trong thị trường. Các đường trendlines trong dạng thị trường này, thường là một khoảng trading hẹp hoặc một kì xung huyết, được vẽ bằng cách kết nối cả đỉnh lẫn đáy. Giá cả trong dạng thị trường này có thể phá vỡ hướng lên hoặc xuống nên việc xác đỉnh và đáy của vùng giá cả là rất quý giá.

    7. #6
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Bollinger Bands

      Bollinger Bands là công cụ kết hợp giữa đường trung bình động Moving Average và độ lệch chuẩn. Bollinger Bands là công cụ phân tích kỹ thuật có nhiều tác dụng và rất có giá trị cho nhà đầu tư. Có 3 thành phần cơ bản trong chỉ báo Bollinger Bands:...
      Chỉ báo Bollinger Bands

      Bollinger Bands là công cụ kết hợp giữa đường trung bình động Moving Average và độ lệch chuẩn. Bollinger Bands là công cụ phân tích kỹ thuật có nhiều tác dụng và rất có giá trị cho nhà đầu tư. Có 3 thành phần cơ bản trong chỉ báo Bollinger Bands:

      1. Đường trung bình (Moving Average): sử dụng mặc định 20 phiên; SMA (20)

      2. Dải trên (Upper Band): dải trên thường có độ lệch chuẩn là 2, được tính toán từ dữ liệu giá 20 phiên. Có vị trí nằm trên đường trung bình SMA (20).

      3. Dải dưới (Lower Band): dải dưới thường có độ lệch chuẩn là 2 và nằm dưới đường trung bình SMA (20)

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/BB%201.JPG[/IMG]

      Có 3 phương pháp chính để sử dụng Bollinger Bands:

      - Phạm vi hoạt động của các dải.
      - Vượt ngưỡng của dải Bollinger Bands.
      - Chiến lược mua bán quyền chọn (option).
      Phạm vi hoạt động của dải Bollinger Bands
      Giữa dải trên và dải dưới của Bollinger Bands là phạm vi hoạt động của phần lớn đường giá. Rất hiếm khi đường giá di chuyển ra khỏi đường Bollinger Bands, đường giá có xu hướng xoay quanh đường trung bình SMA(20).

      Tín hiệu mua: nhà đầu tư mua hoặc mua rải khi đường giá rớt thấp hơn dải dưới của Bollinger bands.
      Tín hiệu bán: nhà đầu tư bán hoặc bắt đầu ngừng mua rải khi đường giá nằm ngoài dải trên của Bollinger Bands.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/BB%202.JPG[/IMG]

      Những phạm vi nên thận trọng:
      Nếu theo trường phái chủ động thì nhà đầu tư nên mua hay bán khi đường giá đụng vào các dải của Bollinger Bands. Nhà đầu tư cũng nên chờ xem khi đường giá di chuyển nằm ngoài trên hoặc dưới đường Bollinger Bands và sau đó giá đóng cửa lại nhảy vào trong đường Bollinger Bands thì đây là cơ hội mua hoặc bán khống. Cách mua bán trên là cách để giảm bớt thua lỗ khi đường giá thoát ra khỏi đường Bollinger Bands trong một khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên, cách này cũng bỏ qua nhiều cơ hội sinh lời.
      Một thái cực khác hẳn với cách trên là cách sử dụng vượt ngưỡng của dải Bollinger Bands.
      Vượt ngưỡng của dải Bollinger Bands
      Về cơ bản thì đây là phương pháp trái ngược hẳn và có nhiều điểm ưu thế hơn với phương pháp phạm vi hoạt động của dải Bollinger Bands. Điều kiện cần trước khi vượt ngưỡng thì phải có nhiều phiên củng cố mức giá ngưỡng. Nếu giá đóng cửa nằm ngoài đường Bollinger Bands thì chúng ta phải sử dụng các chỉ báo khác và đồng thời sử dụng đường hỗ trợ hay kháng cự để ra quyết định phù hợp.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/BB%203.jpeg[/IMG]

      Tín hiệu mua: đường giá phải nằm cao hơn dải trên của Bollinger Bands và trước đó đã có nhiều phiên củng cố mức giá này. Các chỉ báo khác cũng xác nhận điều tương tự trên.
      Tín hiệu bán: đường giá nằm thấp hơn dải dưới của Bollinger Bands và các chỉ báo khác cũng ám chỉ điều này.

      Ngoài ra Bollinger Bands cũng có thể được sử dụng để đo cường độ hướng đi của xu hướng giá:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/BB%204.jpeg[/IMG]

      - Xu hướng giá tăng mạnh khi đường giá có khuynh hướng luôn nằm nửa trên của Bollinger Bands, tức là phạm vi giữa dải trên và đường trung bình SMA(20). Lúc đó, SMA(20) là đường hỗ trợ động cho xu hướng giá.
      - Ngược lại, xu hướng giảm giá mạnh xảy ra khi đường giá thấp hơn nửa dưới của Bollinger Bands; được giới hạn bởi đường trung bình SMA(20) và dải dưới của Bollinger Bands. Lúc này SMA(20) sẽ là đường kháng cự động cho xu hướng giá.

      Sử dụng Bollinger Bands rất thích hợp với trường phái dựa vào dao động giá để kinh doanh. Vì thế nó rất hữu ích cho các nhà đầu tư mua bán option.
      Chiến lược mua bán quyền chọn (option)
      Có 2 cách cơ bản để kinh doanh option dựa vào sự dao động giá:

      1. Chọn mua option khi mức dao động giá nhỏ, với hy vọng mức dao động giá sẽ tăng lên để bán option ở mức giá cao hơn.
      2. Chọn bán option khi mức dao động giá cao, với hy vọng mức dao động giá sẽ giảm và sau đó mua lại option này với giá rẻ hơn.

      Bollinger Bands sẽ đem lại cho nhà đầu tư option những ý tưởng kinh doanh chắc chắn hơn khi option tương đối mắc (dao động ở mức cao) hoặc option tương đối rẻ (dao động ở mức thấp).

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/BB%205.jpeg[/IMG]

      Tín hiệu mua: khi option tương đối rẻ thì Bollinger Bands co lại đáng kể, mua option ví dụ như hợp đồng chứng khoán 2 chiều (straddle) hoặc hợp đồng chứng khoán 1 chiều (strangle).
      + Lập luận: sau khi đột ngột di chuyển nhanh thì đường giá có khuynh hướng củng cố lòng tin ở một phạm vi giá nào đó (trading range). Sau khi đường giá bình ổn; ví dụ như Bollinger Bands có những giá trị gần giống nhau trong một vài phiên. Sau đó thường thì đường giá sẽ bắt đầu di chuyển trở lại. Vì vậy mua option khi Bollinger Bands thắt chặt lại, đây là chiến lược thông minh.
      Tín hiệu bán: khi option tương đối mắc, lúc đó Bollinger Bands mở rộng ra đáng kể thì nhà đầu tư nên bán option straddle hoặc stragle.
      + Lập luận: sau khi đường giá tăng hoặc giảm đáng kể, các thành phần của đường Bollinger Bands bị tách rời nhau quá xa trong nhiều phiên giao dịch. Sau đó đường giá có khuynh hướng trở về trạng thái củng cố và sẽ trở thành kém dao động. Vì lý do đó, khi các thành phần của Bollinger Bands ở cách xa nhau thì đường giá có khả năng trong tương lai sẽ bị thắt chặt lại.

    8. #7
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Đường trung bình (Moving Averages)

      Một đường trung bình là cách làm phẳng hoạt động biến động giá theo thời gian. Nghĩa là bạn lấy giá trị trung bình của giá đóng trong một khoảng thời gian “x”. ...
      Một đường trung bình là cách làm phẳng hoạt động biến động giá theo thời gian. Nghĩa là bạn lấy giá trị trung bình của giá đóng trong một khoảng thời gian “x”.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MA%201.jpg[/IMG]

      Giống như mọi công cụ, nó được sử dụng để hỗ trợ chúng ta tiên đoán giá trong tương lai. Nhìn vào độ dốc của đường trung bình bạn có thể đoán giá sẽ biến đổi như thế nào.

      Như tôi đã nói, đường trung bình làm phẳng hoạt động của giá. Có nhiều kiểu đường trung bình khác nhau, và mỗi kiểu có các mức làm phẳng riêng. Nói chung, đường trung bình phẳng hơn thì phản ánh sự biến động giá chậm hơn. Đường trung bình nhấp nhô hơn thì phản ánh sự biến động giá nhanh hơn.

      Tôi sẽ giải thích ưu và khuyết của mỗi kiểu sau, bây giờ hãy nhìn xem các kiểu đường trung bình khác nhau và chúng được tính bằng cách nào.

      5.1 Đường trung bình đơn giản (Simple Moving Average - SMA)

      Một đường trung bình đơn giản là kiểu đường trung bình đơn giản nhất. Một cách cơ bản, một đường trung bình đơn giản được tính bằng cách tính tổng các giá đóng trong số khoảng thời gian “x” và chia cho “x”. Có lầm lẫn không? Cho phép tôi giải thích. Nếu bạn vẽ một đường trung bình đơn giản cho số khoảng thời gian là 5 trên một biểu đồ 1 giờ, bạn sẽ cộng giá đóng của 5 giờ và chia cho 5 và như vậy bạn có một đường trung bình đơn giản.

      Nếu bạn vẽ đường trung bình đơn giản cho khoảng thời gian là 5 trên một biểu đồ 10 phút, bạn sẽ cộng giá đóng của 50 phút và sau đó chia cho 5.

      Hầu hết các công cụ vẽ đồ thị sẽ thực hiện tất cả việc tính toán cho bạn. Chúng ta phải biết cách tính toán một đường trung bình đơn giản bởi vì điều này quan trọng để bạn hiểu các một đường trung bình được tính toán. Nếu bạn hiểu cách mỗi đường trung bình được tính toán, bạn có thể đưa ra quyết định của riêng bạn nên chọn kiểu nào thì tốt hơn.

      Giống như bất kỳ công cụ khác, các đường trung bình hoạt động như một bộ delay (làm trễ). Bởi vì bạn đang lấy giá trị trung bình của giá, bạn thực sự chỉ đang xem dự báo giá tương lai và không phải là một cái nhìn chắc chắn của tương lai.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MA%202.jpg[/IMG]

      Đây là một ví dụ về cách các đường trung bình làm phẳng hoạt động giá cả. Trên đồ thị trên, bạn có thể thấy 03 đường SMA khác nhau. Như bạn nhìn thấy, đường SMA cho khoảng thời gian dài hơn là đường chậm trễ hơn so với giá. Chú ý rằng đường 62SMA cách xa hơn giá hiện thời so với các đường 30 và 5 SMA. Bởi vì với đường 62 SMA bạn tính tổng giá đóng của 62 khoảng thời gian và chia cho 62. Việc bạn sử dụng số khoảng thời gian cao hơn làm việc phản ánh sự biến động giá chậm hơn.

      Đường SMA trong đồ thị này hiển thị cho bạn cảm nhận chung về thị trường theo thời gian. Thay vì chỉ nhìn vào giá hiện tại của thị trường, đường trung bình cho chúng ta một các nhìn rộng hơn và chúng ta có thể đưa ra dự đoán giá tương lai.

      5.2 Đường trung bình lũy thừa (Exponential Moving Average - EMA)

      Mặc dù đường SMA là một công cụ tuyệt vời nhưng có một điểm khuyết lớn. Đừơng SMA rất dễ bị vô hiệu hóa. Hãy để tôi đưa một ví dụ về điều này :

      Chúng ta vẽ một đường SMA với thời gian là 5 trên đồ thị ngày của EUR/USD và các giá đóng của 5 ngày vừa qua như sau :
      Day 1: 1.2345
      Day 2: 1.2350
      Day 3: 1.2360
      Day 4: 1.2365
      Day 5: 1.2370

      Đường SMA sẽ được tính như sau :
      (1.2345+1.2350+1.2360+1.2365+1.2370)/5= 1.2358

      Đủ chính xác không? việc gì nếu giá ngày thứ 2 là 1.2300? Kết quả của đường SMA sẽ thấp hơn một ít và điều này mang đến cho bạn ý nghĩ giá đang đi xuống, trong khi đó thực tế ngày 2 có thể chỉ là một sự kiện tại một thời gian.

      Với điều này, tôi đang cố gắng nói rằng đôi khi đường SMA có thể quá đơn giản. Nếu có một cách khác để bạn có thể loại bỏ xung nhọn để bạn sẽ không sai lầm. Có một cách, nó được gọi là đường trung bình lũy thừa (EMA)

      Đường EMA chịu ảnh hưởng nhiều hơn đối với các khoảng thời gian mới nhất. Trong ví dụ trên, đường EMA sẽ đặt nặng vào ngày 3 đến ngày 5, nghĩa là xung nhọn của ngày 2 sẽ ít giá trị hơn và sẽ không ảnh hưởng đường trung bình nhiều. Đường EMA chú trọng hơn vào hành động hiện giờ của những người giao dịch.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/MA%203.jpg[/IMG]

      Khi giao dịch, nhìn xem những người giao dịch đang làm gì quan trọng hơn là xem họ đã làm gì trong tuần qua hoặc tháng qua.

      5.3 Cái nào tốt hơn : SMA hay EMA?

      Trước tiên hãy bắt đầu với một đường EMA. Khi bạn muốn một đường trung bình phản ánh hoạt động giá nhanh hơn thì một đường EMA với số khoảng thời gian ngắn là cách tốt nhất. Điều này có thể giúp bạn nắm bắt xu hướng giá rất sớm và kết quả là lợi nhuận cao hơn.

      Thực vậy, bạn nắm bắt một xu hướng sớm hơn, bạn có thể giao dịch trên xu hướng đó dài hơn và thu vào nhiều lợi nhuận! Mặt trái đối với một đường trung bình biến động nhấp nhô là bạn có thể bị đánh lừa, bởi vì đường trung bình phản ánh quá nhanh đối với giá cả và bạn có thể nghĩ rằng một xu hướng mới đang hình thành nhưng thực tế nó có thể chỉ là một xung nhọn.

      Với một đường SMA, khi bạn muốn một đường trung bình phẳng hơn và phản ánh chậm hơn hoạt động giá cả, thì một SMA với số khoảng thời gian dài hơn là cách tốt nhất. Mặc dù nó chậm phản ánh hoạt động giá, nó sẽ giúp bạn không bị sai lầm. Mặt trái là nó có thể làm bạn quá chậm và bạn có thể lỡ mất một cơ hội giao dịch tốt.

      Ưu:

      SMA: Hiển thị một đồ thị loại trừ các dấu hiệu giả

      EMA: Biến động nhanh, tốt để hiển thị các đảo giá vừa xảy ra

      Khuyết:

      SMA: Biến đổi chậm, điều này có thể mang đến các báo hiệu mua hoặc bán trễ

      EMA: Dễ đưa ra các dấu hiệu giả hơn và đưa ra các báo hiệu sai lầm.

      Vậy thì cái nào tốt hơn? Thật khó để bạn quyết định. Nhiều người giao dịch vẽ nhiều đường trung bình khác nhau để có một cái nhìn tổng quát. Họ có thể sử dụng đường SMA với số khoảng thời gian dài để tìm xu hướng bao quát và sau đó sử dụng đường EMA với số khoảng thời gian ngắn để xác định thời điểm tốt để giao dịch.

      Thực tế, nhiều hệ thống giao dịch được xây dựng dựa trên “Các giao chéo đừơng trung bình”. Sau phần này, chúng ta sẽ xem một ví dụ về cách sử dụng các đường trung bình như là một phần của hệ thống giao dịch.

      Tóm tắt:

      Một đừơng trung bình là cách làm phẳng hoạt động giá cả
      Có nhiều kiểu đường trung bình. Hai kiểu thông dụng nhất là SMA và EMA
      SMA là dạng đường trung bình đơn giản nhất, nhưng dễ bị ảnh hưởng (tổn thương) đối với các xung nhọn.
      Đừơng EMA đặt nặng đối với giá mới xảy ra và do đó chỉ cho chúng ta thấy những người giao dịch hiện đang làm gì.
      Biết được những người giao dịch hiện đang làm gì quan trọng hơn là biết họ đã làm gì tuần qua hoặc tháng qua.
      Các đường SMA phẳng hơn so với các đường EMA
      Các đường trung bình với số khoảng thời gian dài hơn thì phẳng hơn so với số khoảng thời gian ngắn
      Các đường trung bình nhấp nhô thì phản ánh hoạt động giá nhanh hơn và có thể nắm bắt các xu hướng sớm. Tuy nhiên, bởi vì chúng phản ánh nhanh nên chúng có thể dễ bị ảnh hưởng đối với các xung và có thể đánh lừa bạn.
      Các đường trung bình phẳng phản ánh hoạt động giá chậm hơn nhưng sẽ giúp bạn tránh các xung và không sai lầm. Tuy nhiên, bởi vì chúng phản ánh chậm nên có thể làm bạn giao dịch chậm và bỏ lỡ các cơ hội tốt.
      Cách tốt nhất để sử dụng các đường trung bình là vẽ nhiều kiểu khác nhau trên một đồ thị để bạn có thể thấy cả biến đổi theo khoảng thời gian dài và biến đổi theo khoảng thời gian ngắn.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    9. #8
      Ngày tham gia
      Oct 2012
      Bài viết
      12
      Được cám ơn 0 lần trong 0 bài gởi

      Mặc định

      Bài viết hay lắm ! Thanks nha

    10. #9
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Lý thuyết sóng Elliott (Elliott Wave)

      Trở lại thập kỷ 1920 – 1930, có một thiên tài điên khùng tên là Ralph Nelson Elliott người đã khám phá ra là thị trường chứng khoán thực sự không biến động một cách hỗn loạn. Thị trường giao dịch theo các vòng lặp đi lặp lại. Elliot đã giải thích là do các thay đổi lên và xuống của tâm lý mọi người luôn luôn thể hiện theo các mẫu lặp đi lặp lại giống nhau, điều này được chia thành các mẫu gọi là sóng (wave). Elliot đã đưa ra một nguyên lý gọi là “Thuyết sóng Elliot”....
      Trở lại thập kỷ 1920 – 1930, có một thiên tài điên khùng tên là Ralph Nelson Elliott người đã khám phá ra là thị trường chứng khoán thực sự không biến động một cách hỗn loạn.

      Thị trường giao dịch theo các vòng lặp đi lặp lại. Elliot đã giải thích là do các thay đổi lên và xuống của tâm lý mọi người luôn luôn thể hiện theo các mẫu lặp đi lặp lại giống nhau, điều này được chia thành các mẫu gọi là sóng (wave). Elliot đã đưa ra một nguyên lý gọi là “Thuyết sóng Elliot”.

      The 5 – 3 Wave Patterns (Mẫu sóng 5-3)

      Ông Elliot đã chỉ ra rằng một thị trường biến động dưới dạng gọi là “mẫu sóng 5-3”. Mẫu 5-wave đầu tiên được gọi là sóng tới (impulse waves) và mẫu 3-wave sau đó được gọi là sóng lui (corrective waves).

      Trước tiên hãy nhìn mẫu sóng tới 5-wave :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%201.jpg[/IMG]

      Có vẻ như có gì đó lộn xộn. Hãy thêm màu cho hình vẽ :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%202.jpg[/IMG]

      Bây giờ mỗi bước đếm của sóng đã được tô màu khác nhau.

      Đây là một mô tả ngắn gọn cho biết điều gì diễn ra trong mỗi pha sóng. Tôi sẽ sử dụng chứng khoán để làm ví dụ bởi vì Ông Elliott đã sử dụng chứng khoán. Điều này vẫn đúng với tiền tệ, kỳ phiếu, vàng, dầu … Điều quan trọng là Thuyết sóng Elliott vẫn đúng đối với forex.

      Wave 1 (Sóng – 1)

      Chứng khoán tăng lần đầu tiên. Điều này thường là do một lượng khá nhỏ người bất ngờ nghĩ rằng giá trước đó của chứng khoán là một món hời và đáng để mua, khi họ thực hiện mua và đã tạo nên giá tăng.

      Wave 2 (Sóng – 2)

      Chứng khoán được quan tâm đánh giá quá cao. Tại điểm này đã đủ lượng người đánh giá cao chứng khoán trong pha sóng ban đầu và người ta bắt đầu thu lợi bằng cách bán ra. Điều này làm cho chứng khoán đi xuống. Tuy nhiên, chứng khoán không đạt trở lại mức thấp trước đó trước khi chứng khoán một lần nữa được nghĩ là rẻ.

      Wave 3 (Sóng – 3)

      Đây là pha sóng dài nhất và mạnh nhất. Nhiều người đã để ý đến chứng khoán, nhiều người muốn chứng khoán và họ mua nó với giá ngày càng cao. Pha sóng này thường vượt qua đỉnh cuối cùng của pha sóng thứ nhất.

      Wave 4 (Sóng – 4)

      Tại điểm này người ta một lần nữa thu lợi bởi vì chứng khoán một lần nữa được xem như giá cao. Pha sóng này có xu hướng yếu bởi vì thường vẫn có nhiều người tiếp tục đầu cơ chứng khoán và sau khi một số người thu lợi pha sóng thứ 5 xuất hiện.

      Wave 5 (Sóng – 5)

      Đây là thời điểm nhiều người quan tâm đến chứng khoán nhất và hầu hết bị ảnh hưởng bởi tâm lý. Mọi người sẽ nghĩ ra nhiều lý do để mua chứng khoán và sẽ không lắng nghe các lời khuyên ngăn cản. Đây là thời điểm giá chứng khoàn tăng cao nhất. Tại thời điểm này sẽ có sự kháng cự và mọi người bắt đầu bán và giá chứng khoán chuyển sang mẫu ABC.

      ABC Correction (Điều chỉnh ABC)

      Xu hướng sóng tới (5-wave) sau đó giảm và đảo chiều sang xu hướng sóng lui (3-wave). Các ký tự được sử dụng thay thế cho số để đánh dấu. Xem ví dụ về sóng lui (3-wave) bên dưới :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%203.jpg[/IMG]

      Chúng ta sử dụng thị trường tăng giá (Bull market) là ví dụ, điều này không có nghĩa là thuyết sóng Elliot không đúng đối với thị trường giảm giá (Bear market). Đối với thị trường giảm giá, mẫu sóng 5-3 có dạng như sau :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%204.jpg[/IMG]

      Các pha sóng phụ trong một sóng :

      Một điều quan trọng khác mà bạn phải biết về thuyết sóng Elliot là một sóng được tạo bởi các sóng phụ (sub-wave). Hãy để tôi chỉ cho bạn một hình khác.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%205.jpg[/IMG]

      Bạn có thấy cách sóng-1 được tạo bởi một mẫu sóng tới (5-wave) nhỏ hơn và sóng 2 được tạo bởi một mẫu sóng lui (3-wave) nhỏ hơn? Mỗi sóng gồm các mẫu sóng nhỏ hơn

      Hãy xem một ví dụ thật tế :

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/elliot%206.jpg[/IMG]

      Như bạn thấy, các pha sóng trong thực thế không hoàn toàn giống như trong lý thuyết và đôi khi rất khó để đặt tên cho các pha sóng.

      Đó là tất cả những gì bạn cần biết về Thuyết Sóng Elliot. Hãy nhớ rằng thì trường biến động theo các pha sóng. Bây giờ khi bạn nghe một ai nói rằng “sóng 2 kết thúc” thì bạn sẽ biết anh ta đang nói về cái gì

      Tóm tắt :

      Theo Thuyết Sóng Elliot, thị trường biến động theo các mẫu lặp lại gọi là sóng
      Một thị trường có xu hướng biến động theo mẫu sóng 5-3. Mẫu 5-wave đầu tiên gọi là sóng tới (impulse-wave). Mẫu 3-wave tiếp theo gọi là sóng lui (corrective wave)
      Nếu bạn cố gằng xem một đồ thị bạn sẽ thấy là thị trường thật sự biến động theo sóng.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    11. #10
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Fibonacci trong phân tích kỹ thuật

      Có một “tỷ lệ” rất đặc biệt được sử dụng để mô tả tính cân đối của vạn vật từ những khối cấu trúc nhỏ nhất của thiên nhiên như nguyên tử cho đến những thực thể có kích thước cực kỳ khổng lồ như thiên thạch. Không chỉ thiên nhiên phụ thuộc vào nó để duy trì sự cân bằng mà thị trường tài chính có vẻ như cũng vận động theo một quy luật tương tự. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ xem qua một vài công cụ phân tích kỹ thuật được phát triển dựa trên các nghiên cứu trên cái mà người ta gọi là “tỷ lệ vàng” này....
      Có một “tỷ lệ” rất đặc biệt được sử dụng để mô tả tính cân đối của vạn vật từ những khối cấu trúc nhỏ nhất của thiên nhiên như nguyên tử cho đến những thực thể có kích thước cực kỳ khổng lồ như thiên thạch. Không chỉ thiên nhiên phụ thuộc vào nó để duy trì sự cân bằng mà thị trường tài chính có vẻ như cũng vận động theo một quy luật tương tự. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ xem qua một vài công cụ phân tích kỹ thuật được phát triển dựa trên các nghiên cứu trên cái mà người ta gọi là “tỷ lệ vàng” này.

      Các nhà toán học, khoa học, và tự nhiên học đã biết đến “tỷ lệ vàng” này trong nhiều năm. Nó được rút ra từ dãy Fibonacci, do nhà toán học người Ý, Leonardo Fibonacci (1175-1250) tìm ra. Trong dãy Fibonacci (1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 610, etc), mỗi số trong dãy là tổng của hai số trước đó. Điều đặc biệt nhất trong dãy này là bất kỳ một số nào cũng đạt giá trị xấp xỉ 1.618 lần số đứng trước và 0.618 lần số đứng sau nó (0.618 là nghịch đảo của 1.618). Tỷ lệ này được biết đến với rất nhiều tên gọi: tỷ lệ vàng, tỷ lệ thần thánh, PHI … Vậy thì, tại sao tỷ lệ này lại quan trọng đến vậy? Vạn vật dường như có thuộc tính gắn kết với tỷ lệ 1.618, có lẽ vì thế mà nó được coi là một trong những nhân tố cơ bản cấu thành nên các thực thể trong tự nhiên. Nếu chia tổng số ong cái cho tổng số ong đực trong một tổ ong bất kỳ, bạn sẽ có giá trị là 1.618. Nếu lấy khoảng cách từ vai đến móng tay chia cho khoảng cách giữa cùi chỏ và móng tay thì bạn cũng có được giá trị 1.618. Tính xác thực của các ví dụ trên bạn có thể từ từ kiểm chứng nhưng chúng ta hãy cùng xem “tỷ lệ vàng” có ứng dụng gì trong tài chính. Khi sử dụng phân tích kỹ thuật, “tỷ lệ vàng” thường được diễn giải theo 3 giá trị phần trăm: 38.2%, 50%, và 61.8%. Nhiều tỷ lệ khác có thể được sử dụng khi cần thiết, như 23.6%, 161.8%, 423%... Có 4 phương pháp chính trong việc áp dụng dãy Fibonacci trong tài chính: Retracements, arcs, fans, và time zones. Fibonacci Arcs (FA) được thiết lập đầu tiên bằng cách vẽ đường thẳng kết nối 2 điểm có mức giá cao nhất và thấp nhất của giai đoạn phân tích. 3 đường cong sau đó được vẽ với tâm nằm trên điểm có mức giá cao nhất và có khoảng cách bằng 38.2%, 50.0%, 61.8% độ dài đường thẳng thiết lập

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%201.JPG[/IMG]

      FA dùng để dự đoán mức hỗ trợ và kháng cự khi đồ thị giá tiếp cận với đường cong. Một kỹ thuật phổ biến là theo dõi cả hai đường FA, FF (Fibonacci Fan) và dự đoán mức hỗ trợ/kháng cự tại điểm giao giữa đồ thị giá và đường FA/FF.

      Lưu ý rằng đồ thị giá cắt đường FA tại điểm nào còn tùy thuộc vào kích cỡ của đồ thị, nói cách khác đường FA được vẽ lên đồ thị nên nó có mối tương quan với kích cỡ cân đối của đồ thị trên màn hình vi tính hoặc trên giấy. Đồ thị giá của Đồng Bảng Anh mô tả cách mà đường FA tìm ra các điểm hỗ trợ và kháng cự (điểm A, B, C) Fibonacci Fan (FF) được vẽ bằng cách kết nối hai điểm giá cao nhất và thấp nhất của giai đoạn phân tích. Sau đó một đường thẳng đứng “vô hình” sẽ được vẽ qua điểm giá cao nhất. Tiếp theo đó 3 đường chéo sẽ được vẽ từ điểm giá thấp nhất cắt đường thẳng đứng “vô hình” tại 3 mức 38.2%, 50.0%, 61.8%. Đồ thị sau của Taxaco cho thấy các ngưỡng hỗ trợ/kháng cự trên đường FF

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%202.JPG[/IMG]

      Bạn có thể thấy khi đồ thị giá gặp đường FF cao nhất (điểm A), đồ thị giá không thể vượt qua đường FF trong nhiều ngày. Khi giá vừa vượt qua đường FF, nó liền rớt nhanh chóng đến điểm đáy trên đường FF thứ 3 (điểm B và C) trước khi tìm được ngưỡng hỗ trợ. Cũng lưu ý rằng khi giá di chuyển qua điểm đáy (điểm C), nó di chuyển một mạch tới điểm cao nhất (điểm D) trên đường FF thứ 1 và cũng là điểm kháng cự, sau đó rơi xuống điểm giữa trên đường FF thứ hai (điểm E) trước khi đổi chiều đi lên. Fibonacci Retracements (FR) được xác định trước tiên bằng cách vẽ đường thẳng nối kết giữa hai điểm giá cao nhất và thấp nhất của đồ thị giá trong giai đoạn phân tích. Một loạt 9 đường nằm ngang sau đó được vẽ lên tại các mức Fibonacci 0.0%, 23.6%, 38.2%, 50%, 61.8%, 100%, 161.8%, 261.8%, và 423.6% tương ứng với chiều cao tính từ điểm giá cao nhất đến thấp nhất (một số đường có thể không được vẽ ra khi nằm ngoài quy mô phân tích của đồ thị) Sau mỗi giai đoạn biến động giá chính (có thể lên hoặc xuống), giá thường có xu hướng đảo ngược xu hướng (toàn bộ hoặc một phần). Khi giá đảo chiều, các ngưỡng hỗ trợ hoặc kháng cự mới thường nằm trên hoặc gần đường FR (xem đồ thị - ngưỡng hỗ trợ và kháng cự xuất hiện tại đường Fibonacci 23.6% và 38.2%)

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%203.JPG[/IMG]

      Fibonacci Time Zones bao gồm một loạt các đường thẳng đứng. Sắp xếp theo trật tự của dãy Fibonacci 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, … Cũng như các đường khác, diễn biến thay đổi của giá thường có mức hỗ trợ/kháng cự nằm gần hoặc trên các đường thẳng đứng này.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/fibonacci%204.JPG[/IMG]

      Các kết quả nghiên cứu về Fibonacci này không có ý định làm kim chỉ nam cho việc xác định thời gian xâm nhập hoặc thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên, nó có thể hữu ích trong việc xác định vùng hỗ trợ và kháng cự. Đa phần các nhà đầu tư sử dụng kết hợp cả 4 phương pháp Fibonacci này để có thể đưa ra các mức dự đoán chính xác hơn. Một nhà phân tích có thể chỉ sử dụng Fibonacci Arcs và các điểm giao tại vùng hỗ trợ hoặc kháng cự. Nhiều người khác kết hợp các nghiên cứu về Fibonacci với các dạng thức phân tích kỹ thuật khác như “lý thuyết sóng Elliot” để dự đoán mức độ đảo ngược xu hướng sau mỗi bước sóng khác nhau. Trong phạm vi bài viết, tôi chỉ xin dừng lại ở mức độ ứng dụng cơ bản của dãy Fibonacci, hy vọng có thể cung cấp cho các bạn vài thông tin hữu ích.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    12. #11
      Ngày tham gia
      Aug 2010
      Bài viết
      648
      Được cám ơn 325 lần trong 218 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Xu thế, Đường xu thế, Kênh

      Xu thế Khái niệm xu thế sẽ được giới thiệu kĩ hơn trong phần Lý thuyết Dow. Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn...
      Xu thế

      Khái niệm xu thế sẽ được giới thiệu kĩ hơn trong phần Lý thuyết Dow. Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại xu thế giá giảm cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện một đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó.

      Đường xu thế

      Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới dạng các đường xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là đường nối các điểm đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các đỉnh thấp dần. Đường xu thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ một đường xu thế khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối). Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.



      Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế thị trường vẫn đang ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động giá. Tương tự, với thị trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu hợp lý.

      Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới đường xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu thế thị trường.

      Kênh

      Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì dải đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường xu thế và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề là làm sao có thể xác định được hai đường này.



      Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta vẽ đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất đầu tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá. Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự, tất nhiên là theo hướng ngược lại.

      Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều lần thử thành công thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị trường nhằm tìm kiếm những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị trường có thể là một chiến thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.

      Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra sự đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ (khi giá vượt ra ngoài đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những hợp đồng dài hạn.

      Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu hiệu cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế.

      Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường biên của kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi và khả năng chuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh. Với xu thế giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên - xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn xem xét đối với xu thế giá giảm).

      Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế mới dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ.

      Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế thì điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh mới xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ vẽ đường kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại.

      Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.

      Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của kênh thì đường xu thế luôn có vai trò quan trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế)

      Last edited by tradingpro8x; 30-10-2012 at 03:51 PM.

    13. #12
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Những series bài viết hay về Phân tích kỹ thuật PTKT

      Các hình mẫu phân tích kỹ thuật

      Các mô hình tam giác...
      Mô hình tam giác


      Mô hình “tam giác” cũng là mô hình biến động liên tục và sử dụng các khái niệm hỗ trợ và kháng cự và điểm đột phá về giá. Mô hình này được xếp vào mẫu đồ thị tiếp tục xu hướng giá. Đồ thị dưới đây của AMZN cho thấy mô hình “Tam giác”:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/triangle1.jpg[/IMG]

      Nhìn chung khi giá có những biến động đáng kể chúng sẽ vượt qua trạng thái dừng. Khi sử dụng mô hình “Tam giác”, giai đoạn ổn định giá sẽ bao gồm các đáy giá cao hơn và thấp hơn, hình thành nên hình “Tam giác”. Khi đường hỗ trợ và kháng cự bắt đầu hội tụ, thì giá sẽ bùng nổ thoát ra ngoài khu vực ổn định và tiếp tục khuynh hướng biến động trước đó.

      Tín hiệu mua:
      Là khi đường giá cắt đường kháng cự (Resistance) theo hướng đi lên. Tín hiệu thường mạnh hơn khi giá ở giai đoạn tăng vượt qua điểm bứt phá.

      Tín hiệu bán:
      Khi đường giá cắt đường hỗ trợ (Support) theo hướng đi xuống. Thông thường tín hiệu bán sẽ mạnh hơn khi giá ở giai đoạn đi xuống và vượt qua điểm bứt phá.

      hai loại biến thể của mô hình “Tam giác” là mô hình “Tam giác” đi lên và đi xuống.

      Mô hình Tam giác đi lên và Tam giác đi xuống

      Hai biến thể gần nhất của mô hình “Tam giác” là mô hình “Tam giác đi lên” và “Tam giác đi xuống” được thể hiện trong đồ thị của hợp đồng vàng futures 100 ounce:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/triangle2.jpg[/IMG]

      Mô hình “Tam giác đi lên”

      Tam giác đi lên cho thấy khuynh hướng thị trường đi lên so với mô hình tam giác thông thường. Cùng với mô hình tam giác đi lên, các mức giá đáy ngày càng cao hơn (dấu hiệu thị trường tăng) và đôi lúc là các mức giá đỉnh cũng ngày càng cao hơn (cũng là dấu hiệu thi trường tăng) được hình thành

      Tín hiệu mua:
      Cũng như cách hình thành mô hình “Tam giác” thông thường, mô hình “Tam giác đi lên” đưa ra tín hiệu mua khi đường giá cắt đường kháng cự theo hướng đi lên và tín hiệu cũng sẽ mạnh hơn khi giá đang trong giai đoạn tăng vượt qua điểm bứt phá.

      Mô hình “Tam giác đi xuống”

      Tam giác đi xuống cho thấy khuynh hướng thị trường đi xuống so với mô hình tam giác thông thường. Khi mô hình tam giác đi xuống được hình thành, các mức giá đáy ngày càng thấp hơn (dấu hiệu thị trường giảm) và thường là các mức giá đỉnh ngày càng thấp hơn được hình thành (nhìn chung là dấu hiệu thị trường giảm)

      Tín hiệu bán:
      Cũng như cách hình thành mô hình “Tam giác” thông thường, mô hình “Tam giác đi xuống” đưa ra tín hiệu bán khi đường giá cắt đường hỗ trợ theo hướng đi xuống và tín hiệu cũng sẽ mạnh hơn khi giá đang trong giai đoạn giảm vượt qua điểm bứt phá.

      Mô hình tam giác là một công cụ phân tích kỹ thuật hiệu quả cho việc đặt lệnh mua bán.

      Mô hình lá cờ (Flag Continuation)...
      Mô hình lá cờ


      Mô hình “lá cờ” thường xuất hiện sau một giai đoạn biến động tăng hoặc giảm đáng kể của thị trường.

      Sau mỗi đợt biến động mạnh, thông thường đường giá cần có điểm dừng. Trạng thái dừng của thị trường thường xuất hiện dưới dạng “lá cờ”. Sau trạng thái dừng thì giá sẽ tiếp tục khuynh hướng của nó trước đó, do vậy “lá cờ” được coi là mô hình biến động liên tục và được xếp vào mẫu đồ thị tiếp tục xu hướng.

      Đồ thị EBAY dưới đây chỉ ra mô hình “lá cờ”:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/flag.jpg[/IMG]

      Tín hiệu mua:

      Khi giá chuyển động nhiều hơn và các mức giá khá ổn định sẽ tạo ra các đường hỗ trợ và kháng cự, tín hiệu mua xuất hiện khi đường giá cắt đường kháng cự (Resistance) và giá đóng cửa có chiều hướng đi lên.

      Tín hiệu bán:

      Giả sử giá đang đi xuống trước đó và sau một thời gian ổn định thì tín hiệu bán là khi đường giá cắt đường hỗ trợ (support) và giá đóng cửa nằm dưới đường hỗ trợ.

      Mô hình Shooting Star

      Mẫu nến Shooting Star (SS) có ý nghĩa là mẫu nến đảo chiều giảm giá, chủ yếu xảy ra ở đỉnh của xu hướng tăng giá.

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/shooting-star.jpg[/IMG]

      · Mẫu SS được tạo ra khi giá mở cửa, giá thấp nhất, giá đóng cửa có mức gần giống nhau. Ngoài ra nó còn có 1 bóng trên dài; thông thường được định nghĩa ít nhất là gấp 2 lần độ dài của thân nến.
      · Khi giá thấp nhất và giá đóng cửa ở mức gần giống nhau thì mẫu nến SS được hình thành và chứa đựng dấu hiệu giảm giá, nó được xem như là 1 mẫu nến giảm giá mạnh bởi vì sự giảm giá đã loại bỏ được hoàn toàn xu hướng tăng giá mạnh trước đó, sự tăng giá này đã đẩy giá lên rất cao nhưng cuối cùng lực bán đã xuất hiện ở mức giá cao nhất trong ngày và đã đưa giá đóng cửa thấp hơn mức giá mở cửa.
      · Mẫu nến SS được xem như là dấu hiệu giảm giá yếu khi giá mở cửa và thấp nhất xấp xỉ nhau. Sự tăng giá đã có thể chống lại sự giảm giá đôi chút nhưng cũng không thể đẩy mức giá đóng cửa xa hơn mức giá mở cửa.
      · Bóng trên dài của mẫu SS ngụ ý rằng: thị trường đã thử thách nhà đầu tư để tìm kiếm mức kháng cự hay chỗ mà lực cung được thiết lập. Khi thị trường tìm được vùng kháng cự là mức giá cao nhất trong ngày, lúc này sự giảm giá cũng đã bắt đầu đẩy đường giá đi xuống thấp hơn và cuối cùng dừng lại gần với mức giá mở cửa. Như vậy sự giảm giá đã loại bỏ phần lớn xu hướng tăng giá được hình thành trước đó.

      Ví dụ minh hoạ:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/shooting-star2.jpg[/IMG]

      Theo đồ thị trên, thị trường đã bắt đầu thử thách nhà đầu tư để tìm kiếm nơi mà lực cung sẽ tham gia vào thị trường, cuối cùng đường giá cũng đã tìm thấy ngưỡng kháng cự tại mức giá cao nhất trong ngày. Trên thực tế, đã có ngưỡng kháng cự rất mạnh xảy ra khi có sự bán tháo tích cực ở mức giá cao nhất trong ngày. Đường giá đã đóng cửa thấp hơn so với mức mở cửa; đây là 1 dấu hiệu giảm giá. Đối với những nhà đầu tư năng động thì mẫu nến SS được dùng để làm rõ thêm tín hiệu bán. Một thân nến đỏ (có sự khác biệt giữa giá đóng của và mở cửa) được xem như là 1 tín hiệu khá mạnh. Nếu như ngày kế tiếp lại là 1 nến giảm thì cảnh báo của mẫu SS phải được sử dụng bởi vì giá đóng cửa của mẫu SS (ví dụ trên) vẫn nằm trên đường hỗ trợ của xu hướng giá.

      Mẫu SS là 1 mẫu nến hết sức hữu ích để các nhà đầu tư xác định ngưỡng hỗ trợ hoặc nơi mà lực cung được thiết lập. Sau một xu hướng tăng giá, mẫu nến SS xuất hiện có thể cảnh báo nhà đầu tư xu hướng tăng giá đó đã kết thúc hoặc có khả năng sẽ rút ngắn chu kỳ tăng giá đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên sử dụng những chỉ báo thị trường khác kết hợp với mẫu nến SS để xác định tín hiệu bán. Ví dụ như chờ đợi ngày tiếp theo nếu vẫn là 1 ngày mất điểm hoặc những chỉ báo khác gây bất lợi cũng như đường xu hướng tăng giá bị bẻ gãy.

      Nói chung, nhà đầu tư nên chờ đợi thêm dấu hiệu của nến xác nhận trước khi ra quyết định chính thức.
      Last edited by tigeran; 06-11-2012 at 08:06 AM.

    14. #13
      Ngày tham gia
      Aug 2010
      Bài viết
      648
      Được cám ơn 325 lần trong 218 bài gởi

      Mặc định Kinh nghiệm phân tích kỹ thuật PTKT và đầu tư trên thị trường chứng khoán

      Nến và tâm lí thị trường:

      1) Cơ sở lí luận:
      5 đặc điểm trong PTKT khi dùng đồ thị nến:
      Tầm quan trọng của phân tích kỹ thuật gồm năm khía cạnh dưới đây.
      Đầu tiên, trong khi sự phân tích cơ bản có thể cung cấp quy mô cung cầu, những tỷ lệ giá/lợi nhuận, những thống kê kinh tế học, v.v…, không có thành phần tâm lý học kéo theo trong sự phân tích đó. Vậy mà nhiều thị trường, đôi khi bị ảnh hưởng, thậm chí nặng nề, bởi sự đa cảm. John Manyard Keynes phát biểu, "Không có gì bất hạnh như­ một chính sách đầu t­ư hợp lý trong một thế giới vô lý". Phân tích kỹ thuật cung cấp cơ chế duy nhất để đo "sự vô lý" hiện diện trong mọi thị trường.
      Thứ hai, những kỹ thuật cũng là một thành phần quan trọng trong việc khép mình vào kỷ luật giao dịch. Kỷ luật trong giao dịch giúp những thương gia làm dịu bớt những căng thẳng. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy giao dịch trên giấy (tập mua bán bằng cách viết ra giấy). Rồi thử buôn bán với những quĩ của chính mình. Bạn sẽ sớm khám phá sự căng thẳng, nghi ngờ, băn khoăn trong cách mà bạn mua bán và nhìn nhận thị tr­ường. Những kỹ thuật cũng mang lại tính khách quan trong việc đưa ra các quyết định. Chúng cung cấp một cơ chế để thiết lập những điểm vào/ra, để đặt những tỷ lệ rủi ro/lợi nhuận, hoặc những mức dừng/thoát. Sử dụng chúng sẽ giúp bạn phát triển kỹ năng quản lý rủi ro và lợi nhuận trong giao dịch.
      Thứ ba, đi theo các nhà phân tích kỹ thuật cũng khá quan trọng dù bạn không hoàn toàn tin tư­ởng vào sự sử dụng của họ. Bởi vì đôi khi kỹ thuật là lý do chính cho một sự chuyển động của thị trư­ờng.
      Thứ tư, lý thuyết bước ngẫu nhiên giải thích việc thị trường có những ngày mà giá không có mối quan hệ với giá của ngày tiếp theo.
      Và cuối cùng, quan sát hoạt động giá là ph­ương pháp trực tiếp và có thể tiếp cận dễ dàng nhất để nhận ra những mối quan hệ cung cầu của thị trường. Có thể có những tin tức quan trọng không được phổ biến, nhưng bạn có thể chờ đợi nó phản ánh vào giá. Những người có kiến thức sâu rộng về những chuyển động của thị trường có thể sẽ mua hoặc bán khi giá cả hiện thời phản chiếu thông tin của họ. Vì vậy, giá cả hiện thời đã phản chiếu tất cả thông tin sẵn có, được phổ biến rộng khắp hoặc một nhóm nào đó.

      2)Nhận xét:
      _Nếu bạn là một người phân tích kỹ thuật, bạn sẽ khám phá ra cách kết hợp biểu đồ hình nến với công cụ kỹ thuật khác của bạn để có thể tạo ra một sức mạnh tổng hợp của kỹ thuật.
      _Những biểu đồ hình nến cung cấp nhiều dấu hiệu mua bán rất hữu ích. Tuy nhiên, chúng không cung cấp những mục tiêu giá.
      _Phân tích kỹ thuật qua lăng kính đồ thị nến cũng là cách để đo lường cảm xúc thị trường. Những người PTKT chờ đợi những manh mối giá có thể báo động cho họ 1 sự thay đổi trong tâm lí thị trường và xu hướng.

      3)Một vài hạn chế:

      _Cũng như tất cả những phương pháp sử dụng biểu đồ, những mẫu hình biểu đồ hình nến tùy thuộc vào sự giải thích của ngư­ời sử dụng. Điều này có thể coi là một hạn chế. Nếu bạn có nhiều kinh nghiệm với biểu đồ hình nến trong lĩnh vực của mình, bạn sẽ thấy những mẫu hình, và những sự biến đổi nào của những mẫu hình này, hoạt động tốt. Trong trường hợp này, chủ quan có thể không phải là nguy hiểm.
      _Có quá nhiều mô hình, và bạn phải mất nhiều thời gian để hiểu và nắm bắt nó. Và từng cây nên riêng biệt, nếu kết hợp với 1-2 cây nến liền kề, ở từng vị trí trong từng giai đoạn up/down/sideway sẽ có ý nghĩa riêng biệt.
      _Có gần đến 1000 trang về nến, bạn có tin chăng ??? Và tôi ước rằng trong tương lai xa nũa mình có thể là người đi tìm "linh hồn của cây nến".


      4)Một vài ưu điểm:
      Với những kinh nghiệm bạn có đư­ợc qua kỹ thuật hình nến, bạn sẽ khám phá ra những sự kết hợp nào hoạt động tốt trong thị trư­ờng của bạn. Điều này có thể mang lại cho bạn một lợi thế đối với những người đã không dành thời gian và sức lực trong việc theo dõi sát sao thị trường như­ bạn.
      Nếu biết khéo léo kết hợp nến theo 1 chuỗi thời gian, ta sẽ thấy được đường đi của xu hướng giá và tâm lí nhà đầu tư (hưng phấn/thận trọng/bi quan)
      Last edited by tradingpro8x; 27-06-2013 at 10:42 AM.

    15. Có 4 thành viên đã cám ơn tradingpro8x :
      1nightdream (13-08-2013), anhrin07091992 (30-04-2014), duyenht (27-06-2013), heoden (29-06-2013)

    16. #14
      Ngày tham gia
      May 2013
      Bài viết
      172
      Được cám ơn 106 lần trong 37 bài gởi

      Mặc định Hay

      Hay quá bác ơi, có khi nào đầy đủ hơn cả tài liệu học lớn PTKT của Vietstock hem ta!
      Giải pháp toàn diện cho dữ liệu tài chính: http://finance.vietstock.vn/

    17. #15
      Ngày tham gia
      Nov 2007
      Bài viết
      132
      Được cám ơn 162 lần trong 38 bài gởi

      Mặc định

      Sắp tới Vietstock có khai giảng khóa Phân tích kỹ thuật Bậc 1 (5/7/2013) và Bậc 2 (9/7/2013) tại HCM, bác nào muốn tìm hiểu kỹ hơn thì xem nha.

      Bậc 1: http://products.vietstock.vn/Service...catid=14&id=44

      Bậc 2: http://products.vietstock.vn/Service...catid=14&id=86

      Chúc các bác cuối tuần vui vẻ -



      Ngủ ngon Gấu nhé, qua tuần không cần dậy làm gì đâu....
      Chia sẻ kinh nghiệm truyền thông PR và IR thông qua Tin tức, Phóng sự, Quảng cáo,...
      - email: quoctamvn@vietstock.vn


    18. #16
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Kinh nghiệm phân tích kỹ thuật PTKT và đầu tư trên thị trường chứng khoán

      Cái hình hài quá bác ui
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    19. #17
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Kinh nghiệm phân tích kỹ thuật PTKT và đầu tư trên thị trường chứng khoán

      Nhìn chung thì nến thích hợp cho phân tích ngắn hạn và đúng với những mã có thanh khoản cao và ít bị làm giá

      Vả lại nên tập trung chú ý nhiều vào những dạng tổ hợp nến thay vì những mẫu hình riêng lẻ
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    20. #18
      Ngày tham gia
      Oct 2011
      Đang ở
      HCM
      Bài viết
      896
      Được cám ơn 253 lần trong 177 bài gởi

      Mặc định

      KHi đã lọt vào rổ làm giá rồi thì bác có dùng gì phân tích cũng vô nghĩa.

      Đơn thuần chỉ cần Nến tuần hoặc nến tháng + trendline / Kháng cự/ Hỗ trợ, theo em rất có ý nghĩa đối với dài hạn đóa bác.

      Trích dẫn Gửi bởi 1nightdream Xem bài viết
      Nhìn chung thì nến thích hợp cho phân tích ngắn hạn và đúng với những mã có thanh khoản cao và ít bị làm giá

      Vả lại nên tập trung chú ý nhiều vào những dạng tổ hợp nến thay vì những mẫu hình riêng lẻ
      -------------------------------
      Levels & Timing: Best indicators
      (Trend is your friend
      But Timing is everything)

    21. #19
      Ngày tham gia
      Oct 2009
      Bài viết
      1,925
      Được cám ơn 617 lần trong 428 bài gởi

      Mặc định Kinh nghiệm phân tích kỹ thuật PTKT và đầu tư trên thị trường chứng khoán

      Đồng ý với bác tungtangcf về vụ này. Còn phải coi dòng tiền vào ra cổ phiếu như thế nào nữa chứ không hẳn dùng các công cụ phân tích kỹ thuật riêng lẻ

    22. Những thành viên sau đã cám ơn :
      1nightdream (13-08-2013)

    23. #20
      Ngày tham gia
      Oct 2003
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 215 lần trong 148 bài gởi

      Mặc định Kinh nghiệm phân tích kỹ thuật PTKT và đầu tư chứng khoán

      Các hình mẫu phân tích kỹ thuật (Chart Patterns) - Phần 3

      Các mô hình tam giác...
      Mô hình tam giác


      Mô hình “tam giác” cũng là mô hình biến động liên tục và sử dụng các khái niệm hỗ trợ và kháng cự và điểm đột phá về giá. Mô hình này được xếp vào mẫu đồ thị tiếp tục xu hướng giá. Đồ thị dưới đây của AMZN cho thấy mô hình “Tam giác”:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/triangle1.jpg[/IMG]

      Nhìn chung khi giá có những biến động đáng kể chúng sẽ vượt qua trạng thái dừng. Khi sử dụng mô hình “Tam giác”, giai đoạn ổn định giá sẽ bao gồm các đáy giá cao hơn và thấp hơn, hình thành nên hình “Tam giác”. Khi đường hỗ trợ và kháng cự bắt đầu hội tụ, thì giá sẽ bùng nổ thoát ra ngoài khu vực ổn định và tiếp tục khuynh hướng biến động trước đó.

      Tín hiệu mua:
      Là khi đường giá cắt đường kháng cự (Resistance) theo hướng đi lên. Tín hiệu thường mạnh hơn khi giá ở giai đoạn tăng vượt qua điểm bứt phá.

      Tín hiệu bán:
      Khi đường giá cắt đường hỗ trợ (Support) theo hướng đi xuống. Thông thường tín hiệu bán sẽ mạnh hơn khi giá ở giai đoạn đi xuống và vượt qua điểm bứt phá.

      hai loại biến thể của mô hình “Tam giác” là mô hình “Tam giác” đi lên và đi xuống.

      Mô hình Tam giác đi lên và Tam giác đi xuống

      Hai biến thể gần nhất của mô hình “Tam giác” là mô hình “Tam giác đi lên” và “Tam giác đi xuống” được thể hiện trong đồ thị của hợp đồng vàng futures 100 ounce:

      [IMG]http://learning.************/blogs/technicalanalysis/images/triangle2.jpg[/IMG]

      Mô hình “Tam giác đi lên”

      Tam giác đi lên cho thấy khuynh hướng thị trường đi lên so với mô hình tam giác thông thường. Cùng với mô hình tam giác đi lên, các mức giá đáy ngày càng cao hơn (dấu hiệu thị trường tăng) và đôi lúc là các mức giá đỉnh cũng ngày càng cao hơn (cũng là dấu hiệu thi trường tăng) được hình thành

      Tín hiệu mua:
      Cũng như cách hình thành mô hình “Tam giác” thông thường, mô hình “Tam giác đi lên” đưa ra tín hiệu mua khi đường giá cắt đường kháng cự theo hướng đi lên và tín hiệu cũng sẽ mạnh hơn khi giá đang trong giai đoạn tăng vượt qua điểm bứt phá.

      Mô hình “Tam giác đi xuống”

      Tam giác đi xuống cho thấy khuynh hướng thị trường đi xuống so với mô hình tam giác thông thường. Khi mô hình tam giác đi xuống được hình thành, các mức giá đáy ngày càng thấp hơn (dấu hiệu thị trường giảm) và thường là các mức giá đỉnh ngày càng thấp hơn được hình thành (nhìn chung là dấu hiệu thị trường giảm)

      Tín hiệu bán:
      Cũng như cách hình thành mô hình “Tam giác” thông thường, mô hình “Tam giác đi xuống” đưa ra tín hiệu bán khi đường giá cắt đường hỗ trợ theo hướng đi xuống và tín hiệu cũng sẽ mạnh hơn khi giá đang trong giai đoạn giảm vượt qua điểm bứt phá.

      Mô hình tam giác là một công cụ phân tích kỹ thuật hiệu quả cho việc đặt lệnh mua bán.
      Cuộc đời tàn nhẫn nuôi anh lớn
      Xã hội khốn nạn dạy anh khôn

    24. Những thành viên sau đã cám ơn :
      tigeran (14-08-2013)

    Thông tin của chủ đề

    Users Browsing this Thread

    Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)

       

    Similar Threads

    1. Những series bài hay về phần mềm phân tích kỹ thuật MetaStock
      By tigeran in forum Phân tích kỹ thuật MetaStock
      Trả lời: 37
      Bài viết cuối: 27-11-2017, 03:15 PM
    2. Những series bài hay về phần mềm phân tích kỹ thuật AmiBroker
      By tigeran in forum Phân tích kỹ thuật AmiBroker
      Trả lời: 37
      Bài viết cuối: 15-11-2016, 04:27 PM
    3. Phân tích kỹ thuật (PTKT) – lý thuyết, ứng dụng và phản biện
      By tigeran in forum Kiến thức về Phân tích kỹ thuật
      Trả lời: 14
      Bài viết cuối: 15-09-2012, 10:34 AM
    4. Một bài phân tích hay, có lý và khách quan
      By Brainstorm in forum Thảo luận Tình hình
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 17-06-2012, 11:41 PM
    5. Những kinh nghiệm về phân tích kỹ thuật được chia sẻ tại buổi ofline CLB PTKT
      By tigeran in forum Nhận định thị trường bằng Phân tích kỹ thuật
      Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 06-07-2010, 09:08 AM

    Bookmarks

    Quyền viết bài

    • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
    • Bạn Không thể Gửi trả lời
    • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
    • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình