Trong báo cáo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trình trước Quốc hội vừa rồi, bình quân các năm trước, tỷ lệ này là 3,85. Trong khi với các nước trong khu vực, Indonesia là nước cao nhất có tỷ lệ này là 3,32, còn lại chỉ từ 1 đến 1,3.

Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của ta quá thấp, chi phí vốn quá lớn, gây áp lực lên nền kinh tế. Có cảm nhận rằng không biết phải tăng bao nhiêu tiền để đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Và áp lực lạm phát là rất rõ.

Vấn đề này mang tính cơ cấu. Sử dụng vốn kém hiệu quả làm cho sức cạnh tranh của nền kinh tế giảm, dẫn tới cơ cấu kinh tế kém sức cạnh tranh.

Áp lực tăng trưởng dẫn tới đầu tư tăng mạnh và bội chi ngân sách cũng được duy trì ở mức cao, liên tục trong nhiều năm gần đây. Ông có cho rằng điều này là đáng lo ngại?

Tôi cho rằng đây là vấn đề đáng quan tâm, và tôi cũng đang lo lắng.

Trong cùng lúc, chúng ta nới lỏng cả chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, và duy trì mức bội chi ngân sách cao. Như nói trên, chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP vượt quá xa mức chúng ta bảo đảm tính hiệu quả của nền kinh tế.

Tất cả những yếu tố này đều tiềm ẩn tái lạm phát trong thời gian tới, gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

“Khó khăn nhất hiện nay là vấn đề ổn định tỷ giá”

Thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể dự kiến sẽ lên tới 1,9 tỷ USD trong năm nay, gây áp lực phải huy động nguồn lực từ bên ngoài nhiều hơn. Đây có phải nguyên nhân gây áp lực lên cặp tỷ giá VND/USD?

Theo báo cáo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nợ quốc gia của chúng ta đã tăng khá cao, đến gần mức báo động. Chúng ta vay nợ nước ngoài chỉ một phần. Nhưng dù là nợ Chính phủ hay nợ của doanh nghiệp thì đều gây áp lực đến thanh toán quốc tế của Ngân hàng Nhà nước, gây áp lực lên tỷ giá.

Tôi cho rằng, yếu tố tiềm ẩn và khó khăn nhất hiện nay là vấn đề ổn định tỷ giá. Vì 4 yếu tố tạo nguồn cung ngoại tệ gồm xuất khẩu, giải ngân FDI, doanh thu du lịch, kiều hối trong đó có FII, tất cả 4 nguồn này cùng lúc đều giảm trong năm 2009. Trong khi đó, nhập siêu giảm không đáng kể, năm nay vẫn vào khoảng 12 tỷ USD.

Do đó, cán cân thanh toán tổng thể mọi năm là dương thì năm nay có thể âm đến 1,9 tỷ USD, như Ngân hàng Nhà nước có báo cáo.

Cộng vào đó, gói hỗ trợ tín dụng tiền đồng 4%, tình trạng "ghìm" lại USD, các doanh nghiệp không sử dụng vay ngoại tệ mà vay tiền đồng để mua ngoại tệ… là áp lực tạo sức cầu ngoại tệ gia tăng. Cho nên, tôi cho rằng trong các vấn đề vĩ mô thì tỷ giá là vấn đề đáng quan tâm nhất hiện nay.

Nếu giữ tỷ giá như Chính phủ đã công bố, trong tình hình như thế này là rất khó khăn.

Thanh khoản hệ thống ngân hàng vẫn ổn định

Trước nguy cơ tái lạm phát, hệ thống ngân hàng đang khó khăn trong thu hút tiền gửi của xã hội. Đã nên tăng dự trữ bắt buộc, thưa ông?

Hiện nay, lãi suất huy động khoảng từ 8 đến 8,5% cho kỳ hạn 1 năm. Nếu năm nay, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả năm khoảng 6-7% thì lãi suất thực dương khoảng 2%. Như vậy có động lực huy động vốn.

Tuy nhiên, nguồn vốn của nền kinh tế dân cư đang hoạt động bên ngoài hệ thống ngân hàng thương mại. Hầu hết hộ gia đình, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi cần huy động vốn có thể tiếp cận tín dụng từ bên ngoài mà không qua hệ thống ngân hàng. Chứ không phải toàn bộ tiền đã đổ vào hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, có yếu tố tâm lý nữa. Thời gian gần đây, khi giá vàng và USD cao, lo nguy cơ lạm phát cao… trong những thời điểm nhất định, người dân đã mua vàng, dự trữ USD, tạo sự hụt hẫng đối với huy động của hệ thống ngân hàng thương mại.

Nhưng theo tôi, nếu duy trì tốt chỉ số CPI thì huy động của hệ thống ngân hàng sẽ tăng trong thời gian từ nay đến cuối năm. Bởi vì, đó là kênh đầu tư tốt nhất đối với người dân.

Tín dụng tăng cao, hệ thống các tổ chức tín dụng hiện nay có đứng trước rủi ro lớn hơn không, đặc biệt là tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại?

Với nguồn tín dụng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn 4% thì lượng tín dụng tăng khá cao. Đó cũng là yếu tố kích thích dư nợ tín dụng cao. Vậy thì, nó có gây bất ổn ngân hàng không?

Theo tôi, trước mắt nếu có, trong điều kiện tín dụng tăng nhanh, có thể gây nguy cơ nợ xấu. Nhưng như Ngân hàng Nhà nước vừa công bố, nợ xấu vẫn được khống chế dưới 3% thì không có nhân tố tạo rủi ro mất thanh khoản hệ thống ngân hàng.

Tôi tin rằng cho dù trước mắt có thể có khó khăn, nhưng yếu tố thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại vẫn là an toàn. Bởi vì trong điều kiện hiện nay, Ngân hàng Nhà nước còn có khả năng “mở cửa” công cụ chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn.

Chỉ cần “nhích” cửa sổ này thì hoàn toản bảo đảm thanh khoản. Tôi tin rằng yếu tố thanh khoản vẫn ổn định.

Chính sách nên “qua sông dò đá”

Chính sách tiền tệ trong năm tới, theo ông có còn dư địa để tiếp tục theo đuổi nới lỏng?

Năm tới, chính sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa có thể sẽ rất khó khăn. Tôi cho rằng hiện nay, chính sách tiền tệ của Chính phủ đã theo hướng nới lỏng thận trọng.

Khi mà nền kinh tế thế giới phục hồi, giá cả gia tăng, áp lực bên ngoài lớn hơn, thì những yếu tố bên ngoài ấy sẽ đẩy giá trong nước lên. Cộng với độ trễ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hiện nay, áp lực lạm phát là cao. Mà khi áp lực lạm phát cao thì chính sách tài chính, tiền tệ phải thu hẹp lại chứ không thể nới lỏng được nữa.

Theo kinh nghiệm của các nhà điều hành chính sách tiền tệ trên thế giới, trong bối cảnh hiện nay, mọi chính sách đều nên thực hiện theo kiểu qua sông dò đá. Tức là chúng ta xem tín hiệu và điều chỉnh, chứ không thể khẳng định chính sách cố định từ nay đến hết năm 2010, kể cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.

Quan trọng là làm sao phối hợp nhịp nhàng hai chính sách này, để không mâu thuẫn nhau. Tôi cho rằng Chính phủ cũng đã đặt ra vấn đề này.

Gần đây có ý kiến cho rằng trách nhiệm kiểm soát lạm phát hiện nay đang trao cho Ngân hàng Nhà nước là quá nặng. Ông nghĩ sao về quan điểm này?

Nguyên nhân lạm phát rất nhiều, có những yếu tố ngoài tiền tệ, ví dụ như bội chi ngân sách chẳng hạn. Giao trách nhiệm hết cho Ngân hàng Nhà nước là không phù hợp. Tôi cho rằng, Chính phủ nên đóng vai trò chỉ đạo chung, phối hợp tất cả các chính sách và các cơ quan liên quan.

Liên quan đến những rủi ro từ cơ cấu, theo ông, Chính phủ có nên quy định đến lúc nào thì chấm dứt bội chi, hoặc lúc nào hết nhập siêu không?

Tôi cho rằng vấn đề này cần có lộ trình. Như vừa rồi nhiều đại biểu đã đề nghị, bội chi năm 2010 nên giảm dần, từ 6,9% GDP xuống 6%. Nhưng cuối cùng cân đối mức 6,2%.

Bội chi để đầu tư đối với những nước như chúng ta là cần thiết. Nhưng hiện nay, bội chi chúng ta tính chưa hết. Những nguồn như phát hành trái phiếu Chính phủ chưa được tính vào bội chi. Cho nên, nếu cộng tất cả lại, bội chi còn cao hơn chứ không phải chỉ có 6,2% GDP.

Tôi cho rằng, bội chi có thể kiểm soát, nhưng quan trọng hơn đối với Chính phủ hiện nay là hiệu quả chi đầu tư. Nếu bội chi 6-7% GDP mà hiệu quả thì chúng ta không gây áp lực lạm phát.

(tiếp theo)

Ngoài ra, bên cạnh kênh tiền tệ, chúng ta còn phải quan tâm đến kênh tài khóa, ngân sách hơn nữa. Vì rủi ro tiềm ẩn cũng có nguyên nhân từ dòng tiền đầu tư từ ngân sách. Và một cơ cấu kinh tế chỉ nhập siêu thì làm sao có ổn định được.

Tôi cũng đã có lần chất vấn Bộ trưởng Bộ Công Thương về lộ trình giảm nhập siêu, nhưng chưa có trả lời rõ về vấn đề này.