Sử dụng phân tích kỹ thuật trong đầu tư
  • Thông báo


    + Trả lời Chủ đề
    Kết quả 1 đến 2 của 2
    1. #1
      Ngày tham gia
      Mar 2008
      Bài viết
      106
      Được cám ơn 10 lần trong 6 bài gởi

      Mặc định Sử dụng phân tích kỹ thuật trong đầu tư





      [h1]Sử dụng biểu đồ để dự báo giá cổ phiếu[/h1]

      Các nhà kinh tế đã từng bác bỏ việc sử dụng các
      mô hình phân tích những dữ liệu trong quá khứ để dự đoán giá cổ phiếu trong
      tương lai. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh, các biểu đồ giá cổ phiếu mà các
      nhà phân tích kỹ thuật thường áp dụng để dự đoán giá cổ phiếu có thể mang lại
      nhiều thông tin giá trị.




      Nhà phân tích kỹ thuật trên thị trường chứng khoán là những
      người có thể dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai bằng việc phát hiện ra xu
      hướng giá trong quá khứ. Biểu đồ thị trường của họ biểu diễn các mô hình có tên
      gọi rất sống động, như mô hình đỉnh đầu vai với một đỉnh lớn cùng hai đỉnh nhỏ
      thấp hơn ở hai bên, hay mô hình đáy lớn với một loạt các đáy, mỗi đáy sau lại
      thấp hơn đáy liền trước... Những thông tin giao dịch tuy rất đơn giản từ các
      biểu đồ này nhưng lại là lộc trời cho đối với những người biết đọc nó.



      Từ một thế kỷ trước đây, Charles Dow - nhà sáng lập ra chỉ
      số Dow Jones hiện nay đã phát minh ra lý thuyết Dow để dự đoán xu hướng giá cổ
      phiếu. Các biểu đồ được một số nhà đầu tư nổi tiếng thế giới sử dụng như
      Stanley Druckenmiller - người đang quản lý Quỹ phòng ngừa rủi ro Quantum của
      George Soros và Jeffrey Vinik - người đã từng quản lý Quỹ tương hỗ Magellan.
      Các nhà kinh tế nghiên cứu thị trường tài chính vẫn xem phân tích kỹ thuật như
      một phép thần chú và có nhiều mối quan hệ đối với phân tích cơ bản mang tính
      kinh tế chính xác như chiêm tinh với thiên văn học.



      Những nhà kinh tế phản bác phân tích kỹ thuật cho rằng,
      trong một thị trường hiệu quả, giá cả phản ánh tất cả các thông tin hiện tại và
      việc nghiên cứu các mô hình giá trong quá khứ sẽ không mang lại một thông tin
      bổ ích nào như liệu giá cổ phiếu trong tương lai sẽ tăng hay giảm. Cụ thể, giá
      cả sẽ chuyển động mà không thể dự đoán được hay thay đổi một cách ngẫu nhiên.
      Trong thập kỷ vừa qua, một số nhà kinh tế đã kiểm nghiệm lý thuyết thị trường
      hiệu quả bằng cách tìm ra một số các ví dụ minh họa những chuyển động trong giá
      cổ phiếu có thể dự đoán được dễ dàng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi về
      việc liệu những chuyển động này có đủ khả năng dự đoán cho các nhà đầu tư thu
      lợi trên cơ sở những thay đổi giá mong đợi? Câu hỏi này được đề cập một cách
      chi hết trong cuốn "Thị trường chứng khoán không chuyển động một cách ngẫu
      nhiên" (nhà xuất bản đại học Princeton, 1999) của Craig MacKinlay thuộc Trường Wharton
      School và Andrew Lo thuộc Học viện công
      nghệ Massachusetts.




      Ông Andrew Lo và hai đồng tác giả đã đưa ra những luận chứng
      bảo vệ mô hình phân tích kỹ thuật. Bằng việc sử dụng giá cổ phiếu của Mỹ trong
      các năm từ 1962 đến 1996, họ kiểm tra khả năng dự báo của 5 cặp mô hình phân
      tích kỹ thuật đang được sử dụng rộng rãi: đỉnh đầu và vai, đỉnh đầu và vai lộn
      ngược, đỉnh và đáy rộng, ba đỉnh và đáy, hai đỉnh và đáy. Kết quả cho thấy, các
      mô hình phân tích kỹ thuật hầu như xảy ra thường xuyên hơn nếu chúng thực sự là
      các sự kiện ngẫu nhiên.



      Nhìn chung, các biểu đồ chứa đựng các thông tin bổ ích về
      giá cổ phiếu trong tương lai. Tuy nhiên, có một sự khác nhau rất lớn giữa các
      kết quả tại các thị trường khác nhau. Với những cổ phiếu niêm yết trên Sở giao
      dịch chứng khoán New York (NYSE) và Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (AMEX), chỉ có
      7 trong số 10 mô hình phân tích kỹ thuật có đủ khả năng dự báo để thống kê. Đối
      với cổ phiếu trên thị trường Nasdaq thì cả 10 mô hình đều có ý nghĩa quan trọng
      về mặt thống kê.



      Nghiên cứu không đi sâu vào tìm hiểu điều gì tạo ra các mô
      hình nhưng có một khả năng là các mô hình phản ánh những thay đổi trong tâm lý
      nhà đầu tư. Sự ham thích rủi ro của nhà đầu tư có thể thay đổi theo cách có thể
      dự báo tương ứng với những thay đổi cụ thể trong mức giá. Nhưng hiện vẫn chưa
      rõ ràng, liệu khả năng dự đoán của các mô hình phân tích kỹ thuật sẽ bị mất đi
      hay không nếu các nhà đầu tư quá tận dụng chúng để thực hiện giao dịch.



      Do các nhà đầu tư đã sử dụng biểu đồ trong dự đoán giá cổ
      phiếu khoảng 100 năm nay và chúng vẫn chứng tỏ được tính hữu dụng của mình, nên
      khả năng dự đoán của các mô hình sẽ vẫn còn mãi. Các mô hình truyền thống được
      sử dụng trong phân tích kỹ thuật vẫn còn khá sơ sài và được xác định bởi những
      cái có thể nhìn thấy. Vì thế, phân tích kỹ thuật vẫn thường được coi là một
      nghệ thuật hơn là một môn khoa học.








    2. #2
      Ngày tham gia
      Jun 2008
      Bài viết
      365
      Được cám ơn 42 lần trong 26 bài gởi

      Mặc định Re: Sử dụng phân tích kỹ thuật trong đầu tư



      Cảm ơn bác Blackhole đã lập topic này - hy vọng bác tích cực post bài cho anh em tham khảo

      Em đọc được một bài viết về Fibonacci thấy cũng khá thú vị, xin phép Post lên topic của bác nhé







      Fibonacci
      trong phân tích kỹ thuật[/b]







      Có một tỷ lệ rất đặc biệt được sử
      dụng để mô tả tính cân đối của vạn vật từ những khối cấu trúc nhỏ nhất của
      thiên nhiên như nguyên tử cho đến những thực thể có kích thước cực kỳ khổng lồ
      như thiên thạch. Các nhà toán học, khoa học, và tự nhiên học đã biết đến “tỷ lệ
      vàng” này trong nhiều năm.



      Nó được rút ra từ dãy Fibonacci, do nhà toán học người
      Ý, Leonardo Fibonacci (1175-1250) tìm ra. Trong dãy Fibonacci (1, 1, 2, 3, 5,
      8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 233…), mỗi số trong dãy là tổng của hai số trước
      đó. Điều đặc biệt nhất trong dãy này là bất kỳ một số nào cũng đạt giá trị xấp
      xỉ 1,618 lần số đứng trước và 0,618 lần số đứng sau nó (0,618 là nghịch đảo của
      1,618). Tỷ lệ này được biết đến với rất nhiều tên gọi: tỷ lệ vàng, tỷ lệ thần
      thánh, PHI… Vạn vật dường như có thuộc tính gắn kết với tỷ lệ 1,618, có lẽ vì
      thế mà nó được coi là một trong những nhân tố cơ bản cấu thành nên các thực thể
      trong tự nhiên. Nếu chia tổng số ong cái cho tổng số ong đực trong một tổ ong bất
      kỳ, sẽ cho ra giá trị là 1,618. Nếu lấy khoảng cách từ vai đến móng tay chia
      cho khoảng cách giữa cùi chỏ và móng tay thì cũng có được giá trị 1,618.



      Trong tài chính, khi sử dụng phân tích kỹ thuật, “tỷ
      lệ vàng” thường được diễn giải theo 3 giá trị phần trăm: 38,2%, 50%, và 61,8%.
      Nhiều tỷ lệ khác có thể được sử dụng khi cần thiết, như 23,6%, 161,8%, 423%...
      Có 4 phương pháp chính trong việc áp dụng dãy Fibonacci là Retracements, arcs,
      fans, và time zones.



      Fibonacci Arcs (FA) được thiết lập bằng cách vẽ
      đường kết nối 2 điểm có giá cao nhất và thấp nhất của giai đoạn phân tích. 3
      đường cong sau đó được vẽ với tâm nằm trên điểm có mức giá cao nhất và có
      khoảng cách bằng 38,2%, 50,0%, 61,8% độ dài đường thẳng thiết lập.

      Một trong những tiên đề nổi tiếng, có tính kinh điển
      trong phân tích kỹ thuật, đó là “giá cả của cổ phiếu chịu sự tác động mạnh mẽ
      của mức hỗ trợ và mức kháng cự”. Mức hỗ trợ là mức giá mà tại đó số người mua
      tham gia vào thị trường đủ lớn để áp đảo số lượng người bán.



      Thị trường luôn ghi nhớ những diễn biến về giá cả
      trong giai đoạn trước. Khi giá xuống chạm một mức thấp mới, rồi lại hồi phục
      trở lại, những người mua thấy tiếc rẻ vì đã không mua được chứng khoán khi giá
      chạm đáy lần đầu tiên này sẽ có xu hướng mua vào nếu giá lại xuống đến điểm này
      một lần nữa. Lo ngại trước việc bỏ lỡ cơ hội lần thứ hai, nhiều người mua sẽ
      gia nhập thị trường, tạo ra lực lượng cầu đủ lớn để áp đảo số người bán. Kết
      quả là giá lại bị đẩy lên, càng củng cố thêm quan điểm cho rằng giá không thể nào
      xuống dưới mức này được. Vô hình trung, tại điểm mốc này hình thành một mức
      chặn dưới, đó chính là mức hỗ trợ.



      Mức hỗ trợ đóng vai trò như giá sàn trong các đồ thị
      phân tích kỹ thuật, ngăn không cho giá thị trường tụt xuống dưới mức này. Việc
      xác định được mức giá hỗ trợ có thể đem lại cho nhà đầu tư cơ hội mua vào tuyệt
      vời. Do đó, đôi khi người ta còn gọi mức hỗ trợ là mức giá mua có lợi.



      Mức kháng cự là điểm mà tại đó người mua (những tay
      đầu cơ giá xuống) nắm quyền kiểm soát giá và ngăn chúng tăng thêm. Tại mức giá
      này, hầu hết các nhà đầu tư trên thị trường đều có cảm giác giá sẽ hạ. Tại mức
      kháng cự, số lượng người bán sẽ đủ lớn để giành quyền kiểm soát từ người mua.
      Mỗi khi giá lên một mức cao mới và sau đó hạ xuống, những người bán bỏ lỡ đỉnh
      giá lần trước sẽ có xu hướng bán cổ phiếu khi giá quay lại được mức đó. Lo ngại
      về việc bỏ lỡ cơ hội lần thứ hai, họ có thể tham gia vào thị trường với số
      lượng đủ lớn áp đảo số lượng người mua, và do đó, kéo giá xuống. Kết quả là một
      cú điều chỉnh như vậy củng cố thêm quan điểm của thị trường cho rằng, mức giá
      trên là mức chặn, không cho giá thị trường vượt qua nó và thiết lập tại đó một
      mức kháng cự. Như vậy, mức kháng cự đồng thời cũng được coi là một mức trần tạm
      thời vì nó chặn tất cả các đợt tăng giá thị trường trong thời gian gần đó tại
      mức này.



      Người ta đã nghiệm ra rằng, lịch sử luôn lặp lại,
      nếu trong quá khứ các mức giá đã từng đóng vai trò là giá kháng cự, thì chúng
      có xu hướng sẽ lặp lại vai trò đó trong tương lai. Việc biểu diễn được các đường
      hỗ trợ hay kháng cự trên đồ thị cổ phiếu sẽ giúp nhà đầu tư xác định được tầm
      quan trọng của chúng trong quá khứ cũng như tiên liệu được các biến động trong
      tương lai.



      FA dùng để dự đoán mức hỗ trợ và kháng cự khi đồ thị
      giá tiếp cận với đường cong. Một kỹ thuật phổ biến là theo dõi đường FA, FF
      (Fibonacci Fan) và dự đoán mức hỗ trợ/kháng cự tại điểm giao giữa đồ thị giá và
      đường FA/FF. Nhưng lưu ý rằng, đồ thị giá cắt đường FA tại điểm nào còn tùy
      thuộc vào kích cỡ của đồ thị, nói cách khác, đường FA được vẽ lên đồ thị nên nó
      có mối tương quan với kích cỡ cân đối của đồ thị. Đồ thị giá của đồng bảng Anh (đồ
      thị 1) mô tả cách mà đường FA tìm ra các điểm hỗ trợ và kháng cự (điểm A, B,
      C).

      Fibonacci Fan (FF) được vẽ bằng cách kết nối hai điểm
      giá cao nhất và thấp nhất của giai đoạn phân tích. Sau đó, một đường thẳng đứng
      “vô hình” sẽ được vẽ qua điểm giá cao nhất. Tiếp theo đó, 3 đường chéo sẽ được
      vẽ từ điểm giá thấp nhất cắt đường thẳng đứng “vô hình” tại 3 mức 38,2%, 50,0%,
      61,8%. Đồ thị của Taxaco (đồ thị 2) cho thấy các ngưỡng hỗ trợ/kháng cự trên
      đường FF.



      Khi đồ thị giá gặp đường FF cao nhất (điểm A), giá
      không thể vượt qua đường FF trong nhiều ngày. Khi giá vừa vượt qua đường FF, nó
      liền rớt nhanh chóng đến điểm đáy trên đường FF thứ 3 (điểm B và C) trước khi
      tìm được ngưỡng hỗ trợ. Lưu ý rằng, khi giá di chuyển qua điểm đáy (điểm C), nó
      di chuyển một mạch tới điểm cao nhất (điểm D) trên đường FF thứ 1 và cũng là
      điểm kháng cự, sau đó rơi xuống điểm giữa trên đường FF thứ hai (điểm E) trước
      khi đổi chiều đi lên.



      Fibonacci Retracements (FR) được xác định bằng cách
      vẽ đường thẳng nối hai điểm cao nhất và thấp nhất của đồ thị giá trong giai
      đoạn phân tích. Một loạt 9 đường nằm ngang sau đó được vẽ lên tại các mức
      Fibonacci 0,0%, 23,6%, 38,2%, 50%, 61,8%, 100%, 161,8%, 261,8%, 423,6% tương
      ứng với chiều cao tính từ điểm giá cao nhất đến thấp nhất (một số đường có thể
      không được vẽ ra khi nằm ngoài quy mô phân tích của đồ thị).



      Sau mỗi giai đoạn biến động giá chính, giá thường có
      xu hướng đảo ngược xu hướng (toàn bộ hoặc một phần). Khi giá đảo chiều, các ngưỡng
      hỗ trợ hoặc kháng cự mới thường nằm trên hoặc gần đường FR (trong đồ thị 3,
      ngưỡng hỗ trợ và kháng cự xuất hiện tại đường Fibonacci 23,6% và 38,2%).



      Fibonacci Time Zones bao gồm một loạt các đường
      thẳng đứng, sắp xếp theo trật tự của dãy Fibonacci 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21…
      Cũng như các đường khác, diễn biến thay đổi của giá thường có mức hỗ trợ/kháng
      cự nằm gần hoặc trên các đường thẳng đứng này (xem đồ thị 4).



      Các kết quả nghiên cứu về Fibonacci trên không có ý
      định làm kim chỉ nam cho việc xác định thời gian thâm nhập hoặc thoát ra khỏi
      thị trường. Tuy nhiên, nó có thể hữu ích trong việc xác định vùng hỗ trợ và
      kháng cự. Đa số nhà đầu tư sử dụng kết hợp cả 4 phương pháp Fibonacci để có thể
      đưa ra dự đoán chính xác hơn.




    Thông tin của chủ đề

    Users Browsing this Thread

    Có 1 thành viên đang xem chủ đề này. (0 thành viên và 1 khách vãng lai)

       

    Similar Threads

    1. Phân tích kỹ thuật trong Vietstock
      By billionare in forum Thông báo - Góp ý
      Trả lời: 1
      Bài viết cuối: 07-01-2009, 10:29 PM
    2. Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 24-10-2008, 05:28 PM
    3. Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 21-09-2007, 10:10 AM
    4. Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 01-01-1970, 07:00 AM
    5. Trả lời: 0
      Bài viết cuối: 01-01-1970, 07:00 AM

    Bookmarks

    Quyền viết bài

    • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
    • Bạn Không thể Gửi trả lời
    • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
    • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình