Gần đây chúng ta nói rất nhiều về Fed vì các quyết định của Fed ảnh hưởng tới không chỉ kinh tế ở Hoa Kỳ, mà ảnh hưởng tới kinh tế toàn cầu vì kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất và USD là tiền dự trữ của thế giới hiện tại. Chủ Tịch Fed thì thường nhắc tới Volcker… tại sao vậy?

Năm 1981, Hoa Kỳ đang ở giữa thời kỳ lạm phát cực cao hơn 10% lần thứ 2 trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Giá xăng tăng vọt; lãi suất mua nhà ngất ngưởng, khiến nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu không thể mua nhà. Thị trường việc làm cũng yếu, với tỷ lệ thất nghiệp trên 7%. Đất nước rơi vào khủng hoảng toàn diện.

Sau khi cuộc khủng hoảng sẽ kết thúc, hầu hết các nhà kinh tế học đều công nhận công lao của Paul Volcker, Chủ Tịch Cục Dự trữ Liên bang. Volcker đã kiểm soát lạm phát thông qua phương pháp bá đạo: Ông đã thiết kế hai cuộc suy thoái lớn, nhưng ngắn, để cắt giảm chi tiêu và buộc lạm phát giảm xuống. Vào cuối những năm 1980, lạm phát đang giảm dần và nền kinh tế bùng nổ trở lại.

Vậy điều gì đã dẫn đến lạm phát những năm 1960/70 và Volcker đã làm gì để giải quyết?

Lạm phát dao động một chút sau cuộc suy thoái ngắn vào năm 1970, nhưng sau đó đã tăng lên đến đỉnh cao, đầu tiên là vào năm 1974-75 và sau đó là vào cuối những năm 70’. Sau khi Volcker được bổ nhiệm vào năm 1979, lạm phát lên đến đỉnh điểm và sau đó giảm mạnh nhanh chóng. Nó chưa bao giờ vượt quá 4% hàng năm một lần nữa.

Trước năm 1965, lạm phát ổn định trong nhiều năm, dao động quanh mức hoặc dưới 2%. Nhưng vào khoảng thời gian đó, Tổng thống Lyndon Johnson và các đồng minh của ông trong Quốc hội bắt đầu thực hiện việc tăng chi tiêu lớn, như một phần của cuộc chiến chống đói nghèo và cuộc chiến ở Việt Nam.

Mặc dù một số khoản chi tiêu đó (đặc biệt là Medicare) được tài trợ bởi các loại thuế mới, nhưng phần lớn thì không. Điều đó có nghĩa là thâm hụt ngân sách cao hơn, chi tiêu tăng lên, vào thời điểm kinh tế tốt, dẫn đến giá cả tăng cao. Chính quyền Johnson không có ý định hạn chế chi tiêu; chiến tranh Việt Nam và chương trình chống đói nghèo của ông là những ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, lạm phát dần dần tăng cao hơn và cao hơn.

Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn dưới thời Richard Nixon. Chiến tranh Việt Nam vẫn diễn ra và rất tốn kém, và vào năm 1971, Nixon quyết định chấm dứt hệ thống “quy đổi vàng” lấy đô la.

Năm 1973, mọi thứ lên đến mức khủng hoảng với lệnh cấm vận dầu mỏ của tổ chức OPEC đối với phương Tây như sự trừng phạt đối với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và các quốc gia khác dành cho Israel trong Chiến tranh Yom Kippur. Giá khí đốt gần như tăng gấp 4 lần trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1973 đến tháng 1 năm 1974, góp phần đẩy lạm phát tăng cao, và dẫn đến một cuộc suy thoái tương đối kéo dài kết thúc vào năm 1975.

Sau cuộc khủng hoảng đó, lạm phát đã ổn định gần mức 6-7% một thời gian ngắn - tuy vẫn cao, nhưng không phải là mức khủng hoảng. Nhưng lạm phát lại nhanh chóng tăng trở lại, một phần do giá năng lượng và lương thực tăng cao.

Đó là tình hình mà Volcker phải đối mặt.

Cú sốc Volcker là gì?

Trước khi Volcker nhậm chức Chủ tịch Fed vào ngày 6 tháng 8 năm 1979, Fed đã cố gắng tăng lãi suất từ từ với hy vọng điều chỉnh giá cả, nhưng không có kết quả. Volcker lúc đó là phó chủ tịch Fed, là một trong những người ủng hộ FOMC thúc đẩy tăng mạnh lãi suất. Khi chủ tịch FED, William Miller, được Tổng Thống Jimmy Carter bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Bộ Tài Chính, Tổng Thống Carter đã chỉ định Volcker là người kế nhiệm Miller.

Sau một vài mức tăng khiêm tốn trong tháng đầu tiên của nhiệm kỳ, Volcker đã triệu tập một cuộc họp bất ngờ vào ngày 6 tháng 10 năm 1979 và áp đặt Fed vào một chính sách tiền tệ mới và chặt chẽ hơn. Fed sẽ cho lãi suất tăng cao hơn tuyên bố sẽ điều chỉnh lại chính sách thường xuyên để đáp ứng với những thay đổi trong nguồn cung tiền.

Tháng đó, lãi suất của Fed được đặt ở mức 13,7%; đến tháng 4, nó đã tăng vọt 4 điểm lên 17,6% và có lúc gần 20% vào năm 1981. Lãi suất cao hơn nói chung làm giảm lạm phát bằng cách giảm chi tiêu, do đó làm chậm nền kinh tế và có thể dẫn đến thất nghiệp hàng loạt. Khi Fed tăng lãi suất, lãi suất của tất cả mọi thứ từ nợ thẻ tín dụng đến nợ mua nhà, cho đến các khoản vay kinh doanh đều tăng lên. Khi vay kinh doanh đắt hơn, các doanh nghiệp ký hợp đồng và chi tiêu ít hơn; khi các khoản nợ thế chấp đắt hơn, người ta mua nhà rẻ hơn; khi tỷ lệ thẻ tín dụng cao hơn, mọi người chi tiêu ít hơn. Kết quả là tổng chi tiêu ít hơn, và do đó lạm phát ít hơn, nhưng tăng trưởng cũng chậm hơn.

Phương pháp này đã mất hai lần thử để đạt được hiệu quả như mong muốn. Sự thắt chặt của Volcker đã làm chậm lại hoạt động kinh tế đến mức vào tháng 1 năm 1980, Hoa Kỳ rơi vào tình trạng suy thoái. Nhưng lãi suất của Fed thực sự bắt đầu giảm mạnh sau tháng 4, điều này đã hạn chế hiệu quả của các nỗ lực chống lạm phát của Fed. Fed đã thắt chặt một lần nữa sau đó và gây ra một cuộc suy thoái khác vào tháng 7 năm 1981. Lần này tồi tệ hơn nhiều so với lần đầu tiên; trong khi tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh là 7,8% trong cuộc suy thoái năm 1980, tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh mới ở mức 10,8% vào tháng 12 năm 1982 trong cuộc suy thoái lần thứ 2 kéo dài 16 tháng. Để bạn có thể hình dung, % thất nghiệp này còn cao hơn so với thời kỳ đỉnh điểm của cuộc Đại suy thoái năm 2009. Trong suốt những năm 1980, chế độ chính sách này được gọi là “cú sốc Volcker”.

Khi Volcker rời nhiệm sở vào tháng 8 năm 1987, lạm phát đã giảm xuống 3,4% so với mức đỉnh 9,8% vào năm 1981. Lạm phát thấp liên tục đã trở thành tiêu chuẩn kể từ đó; Hoa Kỳ chưa bao giờ lạm phát trên 5% kể từ tháng 9 năm 1983 - cho đến năm 2022. Đây là lý do tại sao Chủ Tịch FED hiện tại, Jorome Powell hay nhắc tới Volcker, vì 40 năm qua, đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ lại đối đầu với lạm phát cao.

Đánh giá chính sách của Volcker?

Đối với những người ngưỡng mộ thì Volcker là chủ tịch Fed thành công nhất trong lịch sử, một nhà hoạch định chính sách táo bạo, người đã đánh bại lạm phát bất chấp người khác nghĩ gì.

Nhưng chính sách này phải trả một cái giá khổng lồ khiến các nhà phê bình đặt câu hỏi liệu Volcker có thể đánh bại lạm phát theo cách nhân đạo hơn mà không gây ra mức thất nghiệp cao nhất kể từ cuộc Đại Khủng Hoảng hay không?

Hiện tại, nếu FED muốn theo chính sách Volcker thì Fed phải tăng lãi suất một cách cực mạnh và bất ngờ để tạo ra suy thoái kinh tế, nhưng đó không phải là quan điểm chính sách hiện tại của Fed. Vào tháng 6 và tháng 7, Fed đã ban hành 2 đợt tăng lãi suất lớn nhất trong 28 năm. Nhưng trong cuộc họp báo, Chủ tịch Fed, Jerome Powell đã làm rõ rằng FED không hy vọng gây ra suy thoái tài chính và hạ cánh an toàn vẫn là mục tiêu hàng đầu… Chúng ta cũng chỉ có thể tạm tin.