Thị trường đang tiêu cực hơn so với vĩ mô, VN-Index dự báo sẽ cân bằng

Dựa vào dự báo tăng trưởng lợi nhuận từ 14% đến 18% so với cùng kỳ và kịch bản P/E trong khoảng 13,5 - 15 lần, mức điểm hợp lý của VN-Index dự kiến là từ 1.236 đến 1.420, sau khi đã xem xét sự tăng trưởng của kết quả kinh doanh năm 2024.

VN-INDEX CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC 1.420 ĐIỂM


Hiện tại, mức chênh lệch lợi tức E/P giữa thị trường chứng khoán và lợi tức trái phiếu Chính phủ là 4,53%, vượt xa mức trung bình 5 năm gần đây và nằm trong vùng có xác suất xảy ra thấp. Trong dài hạn và điều kiện bình thường, chênh lệch này sẽ dao động quanh mức trung bình, phản ánh phần bù rủi ro giữa các loại tài sản.

Khi chênh lệch lợi tức vượt quá 1 độ lệch chuẩn, thường do thị trường phản ứng thái quá với các yếu tố tiêu cực, và sẽ quay về mức trung bình khi các yếu tố tiêu cực ngắn hạn qua đi.

Trong kịch bản cơ sở, Ngân hàng Nhà nước có khả năng giữ lãi suất điều hành hiện tại đến hết năm 2024, vì còn dư địa công cụ để can thiệp trước áp lực tỷ giá và việc FED có thể cắt giảm lãi suất từ tháng 9 gần như đã được xác định.

Nếu áp lực tỷ giá gia tăng vào cuối quý 3 và đầu quý 4 và thanh khoản hệ thống trở nên căng thẳng, Ngân hàng Nhà nước có thể tăng lãi suất điều hành thêm 25-50 điểm cơ bản. Trong các kịch bản này, thị trường có thể giao dịch với lợi tức từ 6,67% đến 7,41%, tương ứng với mức P/E từ 13,5x đến 15x.

Theo VDSC, khi chênh lệch lợi tức vượt 4,0%, thường chỉ xảy ra khi có yếu tố tiêu cực bất ngờ và thường sẽ nhanh chóng qua đi, giúp thị trường sớm cân bằng và phục hồi. Với dự báo tăng trưởng EPS khoảng 10% trong 4 quý gần nhất so với lũy kế EPS của 4 quý trước, mức P/E hợp lý của VN-Index trong quý 3/2024 có thể là 14x – 15x (với chênh lệch lợi tức 3,5% – 4,0%), và mức điểm cân bằng của VN-Index là từ 1.237 đến 1.325.

Về lâu dài, với dự báo tăng trưởng lợi nhuận từ 14% đến 18% so với cùng kỳ và kịch bản P/E trong khoảng 13,5 - 15 lần, mức điểm hợp lý của VN-Index sẽ là từ 1.236 đến 1.420, phản ánh tăng trưởng kết quả kinh doanh năm 2024 so với năm 2023.



NHÓM NGÂN HÀNG DẪN DẮT CUỐI NĂM?


Về chiến lược đầu tư, thị trường chứng khoán đã phản ứng tiêu cực trong những phiên đầu tháng 8 theo xu hướng điều chỉnh của các thị trường toàn cầu. Tốc độ điều chỉnh của chỉ số mạnh hơn so với tình hình kinh tế vĩ mô trong nửa đầu năm 2024.

Với điều chỉnh nhanh và mạnh, chủ yếu do ảnh hưởng của chứng khoán toàn cầu thay vì bức tranh kinh doanh không khả quan, thị trường dự kiến sẽ sớm cân bằng trở lại.

Các nhà đầu tư đã theo khuyến nghị có thể tiếp tục nắm giữ cổ phiếu được khuyến nghị. Trong nửa cuối năm 2024, môi trường chính sách tiền tệ ôn hòa và các doanh nghiệp duy trì tăng trưởng lợi nhuận khả quan sẽ thúc đẩy sự phục hồi của thị trường. Cổ phiếu tiềm năng cho nửa cuối năm là của các doanh nghiệp có xu hướng phục hồi/tăng trưởng lợi nhuận trong các ngành tiêu dùng, thép, ngân hàng, khu công nghiệp và thủy sản.

Ngoài ra, nhóm ngành dệt may cũng có thể đáng lưu ý nếu giá cổ phiếu giảm mạnh trong các đợt điều chỉnh của thị trường, vì lợi nhuận của ngành này vẫn khả quan.

Tuy nhiên, nhà đầu tư cũng cần chuẩn bị cho những yếu tố bất lợi như khả năng FED chậm chân trong điều hành chính sách, dẫn đến nguy cơ suy thoái.

Tuần cuối tháng 7, một loạt số liệu vĩ mô của Mỹ như tỷ lệ thất nghiệp, PMI công nghiệp và dịch vụ, đã công bố xấu hơn kỳ vọng. Điều này khiến giới đầu tư lo ngại FED có thể chậm cắt giảm lãi suất, dẫn đến suy thoái kinh tế nhanh hơn.

Tuy nhiên, còn quá sớm để kết luận về suy thoái chỉ dựa vào chỉ số Sahm. Tỷ lệ thất nghiệp tháng 7 (4,3%) chủ yếu do nguồn cung lao động lớn hơn, phần lớn từ gia tăng nhập cư, thay vì giảm cầu lao động. Số lượng yêu cầu trợ cấp thất nghiệp ban đầu vẫn ở mức thấp lịch sử, cho thấy cầu lao động vẫn mạnh.

Trong khi đó, suy thoái thực sự chỉ xảy ra khi cả chỉ số Sahm và số lượng yêu cầu trợ cấp thất nghiệp ban đầu đều tăng. Hiện tại, cả hai chỉ báo vẫn chưa có sự đồng thuận, với số lượng yêu cầu trợ cấp thất nghiệp không tăng theo cùng xu hướng với chỉ số Sahm.

Ngoài ra, còn rủi ro từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Trong 7 tháng đầu năm 2024, ngoài nhóm ngân hàng tích cực trên thị trường, không nhiều doanh nghiệp bất động sản có thể cơ cấu nợ thông qua phát hành mới hoặc mua lại trước hạn. Chi phí huy động trái phiếu doanh nghiệp của nhóm bất động sản vẫn cao, phản ánh rủi ro cao của nhóm này. Nếu việc cơ cấu nợ không thuận lợi trong nửa cuối năm, trước áp lực đáo hạn trái phiếu và thị trường bất động sản chưa phục hồi như mong đợi, rủi ro không thể thanh toán nợ có thể gia tăng đột biến, dẫn đến áp lực trích lập cho các ngân hàng và ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của nhóm ngân hàng.