PDA

View Full Version : Kiến thức chứng khoán !



minhpg
10-12-2008, 07:06 PM
Câu 1. Tôi muốn hỏi về khái niệm thị trường chứng khoán, nguyên tắc hoạt động của TTCK?


Thị trường chứng khoán (TTCK) trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
đồ bơi nam (http://doxinh.com/danh-muc/do-boi/do-boi-nam/#forum.vietstock.vn) quần áo nam đẹp (http://doxinh.com.vn/danh-muc/quan-ao-thoi-trang/quan-ao-nam/#forum.vietstock.vn) mũ sơ sinh (http://doxinh.vn/danh-muc/do-so-sinh-cho-be/mu-so-sinh/#forum.vietstock.vn) váy liền công sở (http://trangbanbuon.com/danh-muc/thoi-trang-cong-so/vay-lien-cong-so/#forum.vietstock.vn) váy liền công sở (http://trangbanbuon.vn/danh-muc/thoi-trang-cong-so/vay-lien-cong-so/#forum.vietstock.vn) chụp ảnh kỷ niệm (http://roses.vn/studio/chup-anh-studio/chup-anh-ky-niem/#forum.vietstock.vn)

Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. TTCK có những chức năng cơ bản sau:


1. Chức năng cơ bản của TTCK
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế


- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng


- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán


- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp


-Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô


2. Các chủ thể tham gia TTCK


Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm sau: tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.


a) Tổ chức phát hành


Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là tổ chức cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK.


- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ


và trái phiếu địa phương.


- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.


- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,


chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.


b)Nhà đầu tư


Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.


c) Các tổ chức kinh doanh trên TTCK


-Công ty chứng khoán


- Quỹ đầu tư chứng khoán


- Các trung gian tài chính


d) Các tổ chức có liên quan đến TTCK


- Cơ quan quản lý Nhà nước


- Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán


- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán


- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán


- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán


-Các tổ chức tài trợ chứng khoán


- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...


3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK


TTCK hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:


- Nguyên tắc công khai


- Nguyên tắc trung gian


-Nguyên tắc đấu giá


4. Cấu trúc và phân loại cơ bản của TTCK


TTCK là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:


a) Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn


TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.


- Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang tổ chức phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.


- Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.


b)Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường


TTCK được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).


c)Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường


TTCK cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.


- Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.


- Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.


- Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn....

Tomty
10-12-2008, 07:20 PM
ơ , có xóm mới à ?

minhpg
10-12-2008, 09:01 PM
ơ , có xóm mới à ?







Thấy có một loạt bài viết hay hay. Tính dần dần cập nhật cho những ai muốn tìm hiểu thêm về chứng mà Bác.

minhpg
13-12-2008, 09:03 AM
Hỏi: Xin quý vị giải đáp các trường hợp sau:
(16/04/2007 14:10)







Công ty A là Công ty cổ phần đại chúng nắm 25% vốn cổ phần tại một công ty cổ phần đại chúng khác (công ty B). Khi công ty B tăng vốn với quyền mua 1/1. Hội đồng quản trị công ty A có ý định cho cổ đông Công ty A góp thẳng phần tăng vốn 1/1 theo tỷ lệ tương ứng với số cổ phần mà cổ đông Công ty A đang nắm giữ. Vậy trường hợp này có hợp pháp không? Hội đồng quản trị công ty B có quyền làm khó cổ đông công ty A không?.
Công ty A đang nắm giữ 90% cổ phần trong 1 công ty TNHH (Công ty C), 10% còn lại do một pháp nhân khác nắm giữ. Hội đồng quản trị Công ty A quyết định chuyển công ty C thành công ty cổ phần và khi công ty cổ phần C tăng vốn thì HĐQT công ty A có ý định cho cổ đông công ty A góp thẳng phần tăng vốn theo tỷ lệ tương ứng với số cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Vậy trường hợp này có hợp pháp không?.
Trả lời:[/B] Theo quy định tại Điều 87, khoản 2, điểm c Luật Doanh nghiệp quy định: “Trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán số cổ phần đó cho tất cả cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty thì: Cổ đông có quyền chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của mình cho người khác.”[/I]


Như vậy, việc công ty A chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của công ty B cho các cổ đông của mình (công ty A) là không trái pháp luật. Tuy nhiên, trường hợp này cũng cần phải xem xét Điều lệ của Công ty A có cho phép Hội đồng quản trị hay Đại hội cổ đông quyết định việc chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của công ty cho người khác (cụ thể ở đây là cổ đông của công ty A) hay không. Việc chuyển nhượng này phải tuân thủ theo quy định của pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán.[/B]


2. Trường hợp câu hỏi thứ hai cũng tương tự như trên.

minhpg
13-12-2008, 09:04 AM
Tôi muốn hỏi hiện nay TTGDCK TP.HCM đang sử dụng những loại lệnh giao dịch nào.
(07/01/2005 15:45)






Trả lời:

Theo qui định tại Thông tư số 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính về Thành viên và giao dịch chứng khoán lệnh giao dịch theo phương thức khớp lệnh bao gồm:- Lệnh giới hạn: là lệnh mua hoặc bán chứng khoán do người đầu tư đưa ra cho người môi giới thực hiện theo mức giá chỉ định hoặc tốt hơn- Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (ATO): là lệnh mua hoặc bán chứng khoán nhưng không ghi mức giá, do người đầu tư đưa ra cho người môi giới để thực hiện theo giá khớp lệnh.Khối lượng giao dịch của lệnh ATO được cộng vào tổng khối lượng khớp lệnh nhưng lệnh ATO chỉ được phân bổ sau khi lệnh giới hạn đã được phân bổ hết.

minhpg
13-12-2008, 09:04 AM
Có thể hướng dẫn cho tôi qui trình tìm giá khớp lệnh, nêu ví dụ cụ thể.
(06/01/2005 15:42)






Trả lời:


Qui trình tìm giá khớp lệnh


Theo qui định tại Thông tư số 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính về Thành viên và giao dịch chứng khoán:


- Phương thức giao dịch khớp lệnh thực hiện trên nguyên tắc:


i. Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất;


ii. Nếu có nhiều mức giá thoả mãn điểm i thì mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn;


iii. Nếu vẫn còn nhiều mức giá thoả mãn điểm ii thì mức giá cao hơn sẽ được chọn.


- Phương thức giao dịch thoả thuận là việc các thành viên tự thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch.


- Ưu tiên về giá


+ Lệnh mua có mức giá cao hơn được thực hiện trước;


+ Lệnh bán có mức giá thấp hơn được thực hiện trước.


- Ưu tiên về thời gian: trường hợp các lệnh mua, bán có cùng mức giá thì lệnh giao dịch nhập trước vào hệ thống giao dịch được ưu tiên thực hiện trước.


Ví dụ: Ta có sổ lệnh giao dịch của chứng khoán XYZ như sau:


- Trường hợp không có lệnh ATO:









Tích luỹ |

Mua |

Giá

|

Bán |

Tích luỹ



10.000
|

10.000
|

30.000
|

10.000
|

34.500





15.500
|

5.500
|

29.000
|

15.000
|

24.500





22.500
|

7.000
|

28.000
|

4.000
|

9.500





25.500
|

3.000
|

27.000
|

3.000
|

5.500





34.000
|

8.500
|

26.000
|

2.500
|

2.500



Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng.


- Trường hợp có lệnh ATO và giá tham chiếu của lần khớp lệnh trước đó là 26.000 đồng:









Tích luỹ |

Mua |

Giá
|

Bán |

Tích luỹ



13.000
|

10.000
|

30.000
|

10.000
|

31.500





18.500
|

5.500
|

29.000
|


|

21.500





25.500
|

7.000
|

28.000
|


|

21.500





25.500
|


|

27.000
|

10.000
|

21.500





25.500
|


|

26.000
|

10.500
|

11.500






|

3.000
|

ATO
|

1.000
|








Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng.

minhpg
13-12-2008, 09:09 AM
|




http://www.ssc.gov.vn/ssc/images/title_nut.gif |
CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP




Giá cổ phiếu của một công ty khi niêm yết phụ thuộc vào điều gì?
(16/11/2004 10:49)






Trước hết có thể khẳng định rằng câu hỏi giống như câu hỏi của bạn hay tương tự, đã làm đau đầu các nhà học giả, các nhà đầu tư chứng khoán hàng mấy trăm năm kể từ khi thị trường chứng khoán ra đời, nếu bạn là một fan bóng đá, bạn cũng thấy khó khăn như thế nào để dự đoán kết quả của một trận cầu, thì ở đây khó khăn cũng chẳng kém, nếu bạn cho là khó hơn thì cũng không sao. Và ở trong hầu hết mọi trường hợp, câu trả lời có một điểm chung thống nhất là giá cổ phiếu dường như là một điều gì đó rất bí ẩn, rất khó nắm bắt.

Dưới đây, tác giả bài viết này xin trích đăng tóm tắt những kết luận, ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thị trường trên thế giới về những nhân tố chủ yếu có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu để bạn tham khảo. Tuy nhiên, cũng xin lưu ý bạn rằng, tác động của các nhân tố này tới giá cổ phiếu như thế nào cũng còn rất nhiều tranh luận. Các yếu tố này có thể chia thành 3 nhóm yếu tố, đó là: các yếu tố kinh tế, các yếu tố phi kinh tế, và các yếu tố thị trường.1. [/B]Nhóm yếu tố kinh tế [/B][/B]Về tăng trưởng kinh tế,[/B] giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển; tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty.Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty[/B], giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh. Thu nhập công ty[/B], những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu. Cổ tức[/B], những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Thực chất điều này không khác gì một câu thành ngữ cổ xưa “1 con chim trong nhà có trị giá bằng 2 con chim trong rừng”. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giải thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu.Lãi suất[/B], mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.Đối với những trường hợp ngược lại so với các trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra một loạt các khả năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi suất.Giá cả hàng hoá (lạm phát)[/B], Lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ năm 1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hoá có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hoá tăng vào năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá hàng hoá đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới đỉnh điểm cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến đến giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hoá bắt đầu tăng vào năm 1946; giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác, giá chứng khoán sụp đổ vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới lần thứ II.Sự không nhất quán trong các phản ứng của giá cổ phiếu trước sự thay đổi giá hàng hoá đã làm nhà phân tích ngày càng chán nản bởi vì giá cổ phiếu trước đây thường có xu hướng biến động trước khi giá hàng hoá biến động tới vài tháng. Do vậy, dường như giá hàng hoá với tư cách là một chỉ số của giá chứng khoán tỏ ra không đáng tin cậy và có lẽ là không có giá trị.Các yếu tố kinh tế khác[/B]Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản (thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu nó chỉ được coi là một nhân tố không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo cho rằng tốt nhất nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá chứng khoán theo những thay đổi của lãi suất cơ bản.Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ.2. [/B]Nhóm yếu tố phi kinh tế [/B][/B]Nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tiếp theo là những yếu tố phi kinh tế, bao gồm sự thay đổi về các điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác, và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ về công nghệ v.v Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá chứng khoán ở những nước có nền kinh thế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá những chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động.3. [/B]Nhóm yếu tố thị trường [/B][/B]Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ v.v cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm cho giá càng giảm.Như vậy, dao động giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, hạt nhân chính là các yếu tố về khả năng thu nhập công ty.Đối với TTCK Việt Nam, theo quan điểm cá nhân của tác giả bài viết này, thì giá cổ phiếu của công ty niêm yết về cơ bản cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố nói trên nhưng mức độ không rõ ràng. Có thể thống kê những yếu tố chủ yếu sau:Yếu tố tâm lý “bầy đàn”[/B], thuộc nhóm yếu tố thị trường nói ở trên, thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Bạn có thể thấy rõ hiện tượng này qua biểu hiện giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến động tăng /giảm không phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có sự phân hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau, tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn chiếm xu thế chủ đạo.Thu nhập công ty[/B], yếu tố này có tác động tương đối rõ rệt tới giá cổ phiếu, chẳng hạn vừa qua giá cổ phiếu của CTCP Chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng “kịch trần” nhiều phiên bởi Công ty công bố lợi nhuận sau thuế quý III /2004 đạt 8, 6 tỷ đồng tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước.Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin đồn…Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin liên quan đến chính sách của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán, chính sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công ty niêm yết, tên tuổi của CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.Để kết thúc bài viết này, tác giả cho rằng lời khuyên sau đây của các nhà đầu tư nổi tiếng trên thị trường chứng khoán thế giới đáng để bạn quan tâm, đó là từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường. Có như vậy thì từng nhà đầu tư mới có thể tìm kiếm được cho mình những cơ hội đầu tư sinh lời bất kể tình hình giá cả thị trường biến động lên hay xuống. Chúc bạn thành công.

minhpg
13-12-2008, 09:11 AM
Xin hướng dẫn cho tôi biết các bước để tham gia giao dịch tại TTCK Việt Nam?
(15/11/2004 08:48)






Trả lời:[/B]

Để tham gia giao dịch mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam bạn cần đến công ty chứng khoán để làm thủ tục mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Khách hàng và công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng mở tài khoản và mỗi khách hàng sẽ được công ty chứng khoán mở một tài khoản riêng để theo dõi tiền và chứng khoán của khách hàng. Để mua chứng khoán bạn phải có tiền hoặc để bán chứng khoán bạn phải có chứng khoán trong tài khoản này. Vì vậy, bạn phải gửi tiền vào tài khoản đó hoặc nếu đã có chứng khoán thì bạn phải gửi chứng khoán cho công ty chứng khoán nơi bạn đã mở tài khoản. Sau đó, bạn có thể thực hiện giao dịch (mua/bán) chứng khoán trên tài khoản của mình thông qua công ty chứng khoán bằng việc viết phiếu lệnh và chuyển cho công ty chứng khoán nhập lệnh vào hệ thống giao dịch. Kết thúc phiên giao dịch công ty chứng khoán sẽ thông báo kết quả giao dịch cho bạn. Để biết thêm chi tiết bạn có thể liên hệ trực tiếp với bộ phận môi giới của các công ty chứng khoán.

minhpg
13-12-2008, 09:12 AM
Xin cho biết ngày giao dịch không hưởng cổ tức là gì?
(15/11/2004 08:34)






Ngày giao dịch không hưởng cổ tức là ngày mà nếu cổ phiếu được giao dịch (mua/bán) vào ngày đó thì người mua (người sở hữu) sẽ không được hưởng cổ tức. Cổ tức sẽ được trả cho người có tên trong danh sách hưởng cổ tức sở hữu cổ phiếu đó được lập vào ngày đăng ký cuối cùng.

minhpg
13-12-2008, 09:13 AM
Tôi xin hỏi về bản chất quỹ thành viên?, Tôi thấy người ta hay nói về Muatual Fund?
(02/11/2004 07:59)






Quỹ đầu tư chứng khoán là một công cụ huy động vốn và đầu tư rất hiệu quả trên các thị trường vốn. Về cơ bản, Quỹ đầu tư chứng khoán có hai dạng chính như sau:

[/B]+ Các quỹ công chúng:[/B]Đây còn gọi là quỹ đầu tư tập thể, là những quỹ đầu tư được hình thành từ vốn góp của rất nhiều nhà đầu tư và uỷ thác cho một công ty quản lý quỹ để thực hiện các hoạt động đầu tư của quỹ. Thuật ngữ Muatual Fund có nghĩa là quỹ tương hỗ, thuật ngữ này được dùng rất nhiều ở Mỹ, nơi có hệ thống các quỹ đầu tư rất phát triển. Thuật ngữ này cũng là một cách gọi đối với các quỹ công chúng.Việc huy động vốn của các quỹ này được thực hiện thông qua những đợt phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng. Khi tham gia vào các quỹ công chúng, các nhà đầu tư được hưởng các lợi ích sau:- Được hưởng lợi từ việc đầu tư đa dạng hoá, nhờ đó, giảm thiểu các rủi ro không không hệ thống.- Được hưởng lợi nhờ giảm thiểu các chi phí đầu tư do quy mô đầu tư của các quỹ thường lớn.- Vốn của các nhà đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia đầu tư có chuyên môn và giàu kinh nghiệm của một công ty quản lý quỹ.- Các chứng chỉ quỹ cũng có tính thanh khoản như một loại cổ phiếu, nhờ đó, các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán các chứng chỉ quỹ khi cần thiết.Do nguồn vốn của quỹ công chúng được huy động từ nhiều nhà đầu tư nên hoạt động đầu tư của quỹ công chúng phải tuân thủ rất nhiều hạn chế nghiêm ngặt của pháp luật. Công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý cũng phải tuân thủ rất nhiều điều kiện khắt khe trong hoạt động quản lý các quỹ này. Mục đích của các hạn chế trên là nhằm đảm bảo sự an toàn cho Quỹ đầu tư chứng khoán, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của các nhà đầu tư.+ Các quỹ thành viên, hay còn gọi là các quỹ đầu tư tư nhân.[/B]Về bản chất, Quỹ thành viên là một dạng Quỹ đầu tư chứng khoán, tuy nhiên, quỹ này chỉ giới hạn ở một số ít nhà đầu tư tham gia góp vốn.Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập các Quỹ thành viên là để thực hiện các hoạt động đầu tư có tính chất tương đối mạo hiểm. Các hoạt động đầu tư này có thể mạng lại những khoản lợi nhuận tiềm năng rất cao cho các nhà đầu tư, tuy nhiên rủi ro cũng rất lớn.Với tính chất rủi ro như vậy, các quỹ thành viên không phù hợp với việc huy động vốn từ công chúng. Quy mô và phạm vi huy động vốn của quỹ chỉ tập trung vào một số ít nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và có khả năng chấp nhận những rủi ro cao trong hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, để tham gia vào quỹ thành viên, các nhà đầu tư phải đạt được những điều kiện nhất định do pháp luật đặt ra.Với tính chất và mục tiêu đầu tư như trên, các quỹ thành viên thường không phải chịu các hạn chế như quỹ công chúng.Hiện tại, hầu hết các nước có thị trường chứng khoán phát triển đều có hình thức quỹ đầu tư này.

minhpg
13-12-2008, 09:13 AM
Điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động tốt?
(26/10/2004 08:55)






Thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt và hiệu quả nếu như việc mua bán chứng khoán trên thị trường diễn ra thuận lợi, cung cấp cho nhà đầu tư một cơ chế giao dịch thuận tiện, an toàn, công khai, công bằng và minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư. Hay nói khác, thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt nếu như nó tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán giao dịch, cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư và các đối tượng tham gia thị trường, qua đó hình thành nên giá chứng khoán hợp lý, tạo được niềm tin của công chúng vào thị trường chứng khoán.

Vì vậy, để có thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì phải có một số điều kiện căn bản sau:Về yếu tỗ vĩ mô:[/I][/B] Sự ổn định môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích đầu tư và tiết kiệm của công chúng; mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển; mức thâm hụt ngân sách trong giới hạn an toàn, các chiến lược phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm được thực hiện có hiệu quả. Về yếu tố vi mô, đó là:[/I][/B]Khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng, điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường chứng khoán giúp cho thị trường hoạt động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường. Mạng lưới các trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán như các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư… vv, đóng vai trò cầu nối giữa các nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ môi giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khác cho các nhà đầu tư như cho vay, cung cấp thông tin và các dịch vụ liên quan đến giao dịch chứng khoán cho nhà đầu tư như tư vấn đầu tư chứng khoán, tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết. Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán gồm hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ…vv. Sự vận hành của các hệ thống này có những ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thị trường thông qua năng lực xử lý nhanh, chính xác các giao dịch trên thị trường, giúp tăng tốc độ luân chuyển vốn trên thị trường. Các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường[/I], như các định chế trung gian khác là tổ chức định mức tín nhiệm, tổ chức kiểm toán, tư vấn, tổ chức lưu ký, ngân hàng thanh toán…vv. Ngoài ra thị trường cần đến sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đóng vai trò dẫn dắt thị trường, can thiệp thị trường vào những thời điểm mất cân đối quan hệ cung cầu.

minhpg
13-12-2008, 04:02 PM
Ý nghĩa của Ngưỡng hỗ trợ và Mức Kháng cự








http://images7.dantri.com.vn/Uploaded/smes/Do_thi_mo_ta.jpg


Biểu đồ mô tả về Ngưỡng hỗ trợ và Mức kháng cự (Nguồn: SME Securities)



Ngưỡng hỗ trợ (support) là thuật ngữ được dùng thường xuyên trong Phân tích kỹ thuật đầu tư chứng khoán. Nó cho phép NĐT có thêm cơ sở trong việc lực chọn cổ phiếu; dự đoán biến động tiềm năng.


Câu hỏi: Tôi thấy khái niệm “ngưỡng hỗ trợ” được dùng rất nhiều trong các bảng phân tích, nhận định hay các bài báo. Xin cho biết ngưỡng hỗ trợ là gì và ý nghĩa của ngưỡng này đối với thị trường chứng khoán.

Trả lời: Ngưỡng hỗ trợ (support) là thuật ngữ được dùng thường xuyên trong Phân tích kỹ thuật đầu tư chứng khoán. Nó cho phép NĐT có thêm cơ sở trong việc lực chọn cổ phiếu; dự đoán biến động tiềm năng. Ngưỡng hỗ trợ (support) là thuật ngữ được sử dụng thường xuyên trong Phân tích kỹ thuật đầu tư chứng khoán. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở mới trong việc chọn các loại cổ phiếu để mua hay bán, trong dự đoán các biến động tiềm năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu tư. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã xây dựng cho họ một “hệ thống đầu tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự và hỗ trợ. Mức kháng cự và hỗ trợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu phân tích các hình mẫu kỹ thuật. Những kiến thức cơ bản về mức kháng cự và hỗ trợ sẽ giúp người nghiên cứu dễ dàng hiểu bản chất và các ứng dụng của các hình mẫu đó. Mức hỗ trợ thường được dùng khá thông dụng. Ta có thể định nghĩa mức hỗ trợ là việc mua thực tế hay khả năng mua với khối lượng đủ để làm ngưng lại xu thế giảm của giá trong một thời kỳ đáng kể (tương đối dài). Mức kháng cự lại ngược lại với mức hỗ trợ: đó là việc bán, trong thực tế hay tiềm năng, một khối lượng đủ để thoả mãn tất cả các mức chào mua, do đó, làm giá ngừng không tăng nữa trong một khoảng thời gian nhất định. Như thế mức kháng cự và hỗ trợ là gần giống theo thứ tự với khối lượng cầu và khối lượng cung. Mức hỗ trợ là mức giá ở đó mức cầu cho một cổ phiếu là đủ để, ít nhất là, làm dừng xu thế giảm giá của thị trường và cũng có thể đổi chiều xu thế đó, tức là làm xu thế giá đi xuống quay ngược đi lên. Từ đó ta có định nghĩa về mức kháng cự, đó là mức giá mà ở đó lượng cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng nữa và có thể chuyển động ngược lại đi xuống. Theo lý thuyết thì mỗi mức giá có một lượng cung và cầu nhất định. Nhưng khoản hỗ trợ thể hiện sự tập trung của cầu còn khoảng kháng cự thể hiện sự tập trung của cung. Như vậy với một hình mẫu giá nhất định, chẳng hạn ta xét với hình mẫu dạng hình chữ nhật (mô hình này phản ánh giai đoạn thị trường gồm rất nhiều những dao động nhỏ của giá theo hướng ngang đồ thị chứ không hướng lên hay hướng xuống rõ rệt, hai đường nối các đỉnh và các đáy của thị trường trong giai đoạn này gần như song song, không cần thiết phải song song 100% nhưng độ lệch phải rất nhỏ, hay có thể nói là một dạng của khung giao dịch), đường nối các đỉnh có thể coi là mức kháng cự, còn đường nối các đáy được coi là mức hỗ trợ. Nhìn chung trong giai đoạn hai mức này còn phát huy hiệu lực thì giá sẽ không vượt quá mức kháng cự và không xuống dưới mức hỗ trợ. Nhưng với tư cách một nhà đầu tư ta sẽ quan tâm hơn đến việc xác định tại sao và yếu tố nào làm xuất hiện các mức kháng cự và hỗ trợ ở một mức giá nhất định. Các chuyên gia còn tập trung nghiên cứu thời điểm giá lên đạt đến mức kháng cự và khi nào giá xuống đến mức hỗ trợ. Cơ sở của những dự đoán này cũng là những dữ liệu cơ bản hình thành nên lý thuyết về hỗ trợ và kháng cự, đó là khi giá trị giao dịch có xu hướng bị tập trung tại một số mức giá có khối lượng các cổ phiếu được giao dịch lớn. Điều đáng chú ý là tại bất kì mức giá nào xuất hiện mức khối lượng giao dịch lớn thường đều trở thành điểm đảo chiều đối với xu thế hiện tại của thị trường và mọi điểm đảo chiều đều có xu hướng lặp đi lặp lại thường xuyên và hoàn toàn mang tính tự nhiên. Có một thực tế quan trọng mà nhiều khi một số người quan sát và phân tích biểu đồ một cách ngẫu nhiên không nhận ra đó là: những mức giá đó đang dần dần chuyển vai trò từ hỗ trợ thành kháng cự và ngược lại từ kháng cự thành hỗ trợ. Nếu như biến động của giá vượt qua một đỉnh giá đã được hình thành trước đó thì đỉnh này sẽ đóng vai trò là khoảng đáy của xu thế giảm giá (điều chỉnh) sẽ xuất hiện sau xu thế tăng hiện tại và một đáy sau khi đã bị giá vượt xuống dưới sẽ trở thành khoảng đỉnh của xu thế tăng sẽ xuất hiện ngay sau đó. Theo một cách đơn giản khác, có thể hiểu ngưỡng hỗ trợ là ngưỡng mà tại đó, khi thị trường đang giảm về đến đó sẽ có một “lực vô hình” đẩy thị trường tăng trở lại. Khi chạm vào ngưỡng hỗ trợ, giá cổ phiếu có xu hướng bật lên trở lại.

minhpg
13-12-2008, 04:05 PM
Phát hành cổ phiếu thưởng, quyền lợi của cổ đông là gì?















Thực tế của việc trả cổ tức và phát hành cổ phiếu thưởng của Cty CP Kinh Bắc không có lợi gì cho Cổ đông hiện hữu. Việc chia tách này chỉ làm số lượng cổ phiếu mà cổ đông hiện hữu nắm nhiều hơn.
Tôi đang sở hữu cổ phiếu của Công ty CP phát triển đô thị Kinh Bắc (Mã KBC). Theo thông báo của công ty và TTGDCK Hà Nội về ngày chốt danh sách cổ đông để trả cổ tức năm 2007bằng cổ phiếu (cổ tức 43%, cổ phiếu thưởng 7%) vào ngày 20/06/2008. Đến ngày 18/06/2008 là ngày giao dịch không hưởng quyền đối với thời hạn thanh toán T+3 thì cổ phiếu đang giao dịch với giá 182.000/1cp xuống còn 124.000/1cp (Như vậy cổ đông hiện hữu bắt buộc phải mua cổ phiếu với giá cao). Tôi xin được hỏi quyền lợi của cổ đông trong trường hợp trả cổ tức này? Ý nghĩa của việc giảm giá cổ phiếu trong trường hợp trên? Xin trân trọng cảm ơn! (minhthienpt@yahoo.com.vn)[/I]


Trả lời:

Căn cứ theo Điều 5.2 Nghị quyết ĐHCĐ của Cty CP Kinh Bắc (KBC) ta thấy rõ nội dung của việc phát hành CP thưởng và chia Cổ tức bằng CP năm 2007. “ĐHĐCĐ nhất trí thông qua số lượng cổ phiếu phát hành theo hình thức thưởng và trả cổ tức bằng cổ phiếu theo nội dung cụ thể như sau:- Loại cổ phiếu: Cổ phiếu phổ thông- Mệnh giá : 10.000 đồng/cổ phiếu- Tỷ lệ thực hiện quyền: 2:1 (cổ đông sở hữu 02 cổ phiếu tại ngày chốt danh sách sẽ được nhận thêm 01 cổ phiếu mới)- Số lượng cổ phiếu phát hành: 43.361.000 (Bốn mươi ba triệu ba trăm sáu mốt nghìn) cổ phiếu(Số lượng 4.000.000 cổ phiếu quỹ không được hưởng quyền)- Tổng giá trị phát hành theo mệnh giá: 433.610.000.000 (Bốn trăm ba mươi ba tỷ sáu trăm mười triệu ) đồng- Phương thức và đối tượng phát hành: Trả cổ tức năm 2007 bằng cổ phiếu với tỷ lệ 43% và phát hành cổ phiếu thưởng với tỷ lệ 7% cho cổ đông hiện hữu- Vốn điều lệ sau khi phát hành: 1.340.830.000.000 (Một nghìn ba trăm bốn mươi tỷ tám trăm ba mươi triệu đồng) ĐHĐCĐ ủy quyền cho HĐQT thực hiện báo cáo theo quy định của Pháp luật và tiến hành đăng ký niêm yết, lưu ký bổ sung số lượng cổ phần đã phát hành theo vốn điều lệ thực góp.Đại hội nhất trí thông qua với 83.131.357 phiếu, tương đương với 100% tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp.”Thực tế của việc trả cổ tức và phát hành cổ phiếu thưởng của Cty CP Kinh Bắc không có lợi gì cho Cổ đông hiện hữu, vì việc chia tách này chỉ làm số lượng CP Cổ đông hiện hữu nắm giữ nhiều hơn. Với lượng cổ phiếu lưu hành tăng lên, giá CP sau khi chi tách sẽ được điều chỉnh giảm với tỷ lệ tương ứng. Giá tham chiếu của KBC tại ngày GD không hưởng quyền được tính như sau:Ngày T + 3: giá TB cuối ngày là 180.700 đồngVới tỷ lệ thực hiện quyền là 2 : 1 thì giá sẽ được điều chỉnh như sau = (180.700*2 + 1)/3 = 120.500 (với biên độ dao động +/- 4%)
Bạn có thể tham khảo Nghị quyết ĐHCĐ năm 2008 của KBC để biết rõ thêm chi tiết!

minhpg
13-12-2008, 04:08 PM
Nên hay không sử dụng tiền vay, cầm cố để mua chứng khoán?















Thời điểm tốt nhất để sử dụng vốn vay là khoảng thời gian 2 năm đầu của thị trường “con bò”. Khi xuất hiện dấu hiệu của thị trường con gấu, bạn nên dừng lập tức việc sử dụng tỷ lệ ký quỹ và giữ càng nhiều tiền mặt càng tốt.


Nên xử lý danh mục đầu tư như thế nào?
Khi chúng ta quyết định tham gia vào thị trường chứng khoán thì ngoài sự lựa chọn cổ phiếu nào để mua, thực tế còn có nhiều quyết định khác chúng ta cần phải đối mặt. Chẳng hạn như khái niệm xử lý danh mục đầu tư như thế nào, bao nhiêu loại cổ phiếu chúng ta cần phải mua, cách ứng phó khi thị trường biến động và loại đầu tư nào bằng mọi giá chúng ta nên tránh.


Thực tế nhà đầu tư không nên phân bố danh mục đầu tư quá rộng. Chỉ cần tập trung đầu tư vào một vài lĩnh vực mà chúng ta biết rõ và theo dõi được cặn kẽ. Nhà đầu tư càng ôm nhiều loại cổ phiếu thì càng chậm ứng xử và đối phó, nhất là lúc cần xoay thêm vốn khi thị trường bắt đầu suy giảm rõ rệt. Trên nguyên tắc thì nhà đầu tư phải bán, giải chấp các cầm cố để giữ một số tiền mặt khi thị truờng đã bắt đầu tới đỉnh. Nếu không, sẽ mất hầu hết những gì đã kiếm được.


Trong thị trường con bò, một cách làm cho danh mục của bạn có tính tập trung hơn là theo dõi sát và thực hiện mua thêm vào ngay 1 hoặc 2 lần (với số lượng nhỏ hơn) khi giá thị trường tăng 2% hoặc 3% so với giá gốc hoặc so với giá mua vào gần nhất. Tuy nhiên, đừng nên cố mua vào những cổ phiếu đã vượt xa mức giá hợp lý của nó. Điều này giúp bạn không phải sở hữu những cổ phiếu đã có mức giá tăng quá cao nhưng lại không giúp cho danh mục của bạn trở nên tốt hơn, vì khối lượng sở hữu lọai cổ phiếu này của bạn sẽ ít hơn nhiều so với việc bạn mua vào những cổ phiếu khác với mức hợp lý hơn. Đồng thời, hãy lập tức loại bỏ những cổ phiếu bắt đầu cho thấy dấu hiệu rớt giá trước khi bạn phải gánh chịu một khoản thiệt hại lớn từ những cổ phiếu này.


Có nên đầu tư dài hạn ?


Câu trả lời là nắm giữ ngắn hạn hay dài hạn không phải là điều quan trọng. Vấn đề quan trọng nhất là mua đúng loại cổ phiếu (loại tốt nhất vào đúng thời điểm) và bán lại khi thị trường hoặc nguyên tắc bán của bạn cho bạn biết cần phải làm điều đó. Nếu bạn thực hiện điều này, thời gian nắm giữ một số cổ phiều thành công của bạn có thể kéo dài 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm… hoặc có thể dài hơn. Hầu hết các khoản đầu tư lỗ của bạn có thời gian nắm giữ ngắn hơn, thường từ vài tuần đến 3 tháng. Hiếm có những danh mục nào được quản lý tốt lại có thể bị lỗ sau khi đã được nắm giữ trên 6 tháng. Hãy luôn giữ cho danh mục của bạn đồng bộ với thị trường.


Nên giao dịch hàng ngày ?


Một cách đầu tư không được khuyến khích là giao dịch hàng ngày, mua và bán một loại cổ phiếu nào đó trong cùng 1 ngày. Hầu hết các nhà đầu tư đều bị lỗ khi giao dịch kiểu này. Lý do rất đơn giản: bạn chủ yếu nhắm vào mức chênh lệch rất nhỏ hàng ngày, và rất khó dự đoán so với dự đoán những xu hướng cơ bản trong một thời gian dài hơn. Thêm vào đó, lợi nhuận thu được thường không đủ trả phí và những khoản lỗ khó tránh khỏi. Vì vậy, đừng nên cố kiếm lời quá nhanh.


Có một hình thức giao dịch trong ngày mới dựa trên những giao động trong ngắn hạn (mua cổ phiếu khi đang trong xu thế lên và bán trước khi xảy ra xu thế đi xuống khó tránh khỏi). Bạn sẽ mua một cổ phiếu vào đúng điểm nên mua trên biểu đồ (rơi khỏi vùng cơ bản của giá ) và bán đi trong khoảng 5 ngày sau ngày phá vỡ mốc đó. Đôi khi, điểm trong mô hình cốc và tay cầm được xác định trong đồ thị hàng ngày (thời đoạn 5 phút) có thể cho thấy dấu hiệu vượt ngưỡng. Bạn có thể sẽ thành công nếu thực sự có kỹ năng, nhưng nó đòi hỏi rất nhiều thời gian, kiến thức và kinh nghiệm.


Nên sử dụng tiền vay, cầm cố để mua chứng khoán ?


Trong vòng 1 hoặc 2 năm đầu khi còn đang trong giai đoạn học hỏi đầu tư, tốt nhất nên đầu tư bằng tiền của mình.


Hầu hết các nhà đầu tư thường cần ít nhất 2 hoặc 3 năm để có đủ kinh nghiệm, trước khi thực sự có thể thu được lợi nhuận đáng kể. Với một vài năm kinh nghiệm, với một kế hoạch rõ ràng và với những quy tắc mua và bán chặt chẽ, lúc đó bạn có thể cân nhắc việc mua với tỷ lệ ký quỹ (sử dụng tiền vay từ công ty chứng khoán để mua thêm cổ phiếu).


Nhìn chung, mua với tỷ lệ ký quỹ thích hợp với những nhà đầu tư trẻ đang còn đi làm. Vì dù sao rủi ro đối với họ vẫn thấp hơn khi họ vẫn còn nhiều thời gian để chuẩn bị cho thời điểm về hưu của mình.


Thời điểm tốt nhất để sử dụng vốn vay là khoảng thời gian 2 năm đầu của thị trường con bò. Một khi bạn cảm nhận được dấu hiệu đang đến của thị trường con gấu, bạn nên dừng lập tức việc sử dụng tỷ lệ ký quỹ và giữ càng nhiều tiền mặt càng tốt.


Bạn nên hiểu rằng, khi toàn bộ thị trường đi xuống và cổ phiếu của bạn bắt đầu mất giá, so với việc đầu tư bằng tiền của mình, thì vốn đầu tư ban đầu của bạn sẽ mất nhanh gấp 2 lần nếu sử dụng vốn vay. Bạn nhất định phải cắt lỗ ngay lập tức và chấm dứt ngay sử dụng vốn vay khi xu thế đi xuống của thị trường bắt đầu. Nếu bạn đầu cơ vào các cổ phiếu ngành công nghệ cao có quy mô vốn hóa nhỏ dựa trên tỷ lệ vốn vay tối đa, một mức điều chỉnh 50% có thể khiến bạn mất hết. Điều này đã từng xảy ra đối với một số nhà đầu tư ít kinh nghiệm vào cuối năm 2000 và đầu năm 2001

ngoc_thien
11-07-2009, 05:20 AM
Có thể hướng dẫn cho tôi qui trình tìm giá khớp lệnh, nêu ví dụ cụ thể.
(06/01/2005 15:42)






Trả lời:


Qui trình tìm giá khớp lệnh


Theo qui định tại Thông tư số 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính về Thành viên và giao dịch chứng khoán:


- Phương thức giao dịch khớp lệnh thực hiện trên nguyên tắc:


i. Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất;


ii. Nếu có nhiều mức giá thoả mãn điểm i thì mức giá trùng hoặc gần với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn;


iii. Nếu vẫn còn nhiều mức giá thoả mãn điểm ii thì mức giá cao hơn sẽ được chọn.


- Phương thức giao dịch thoả thuận là việc các thành viên tự thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch.


- Ưu tiên về giá


+ Lệnh mua có mức giá cao hơn được thực hiện trước;


+ Lệnh bán có mức giá thấp hơn được thực hiện trước.


- Ưu tiên về thời gian: trường hợp các lệnh mua, bán có cùng mức giá thì lệnh giao dịch nhập trước vào hệ thống giao dịch được ưu tiên thực hiện trước.


Ví dụ: Ta có sổ lệnh giao dịch của chứng khoán XYZ như sau:


- Trường hợp không có lệnh ATO:









Tích luỹ |

Mua |

Giá

|

Bán |

Tích luỹ



10.000
|

10.000
|

30.000
|

10.000
|

34.500





15.500
|

5.500
|

29.000
|

15.000
|

24.500





22.500
|

7.000
|

28.000
|

4.000
|

9.500





25.500
|

3.000
|

27.000
|

3.000
|

5.500





34.000
|

8.500
|

26.000
|

2.500
|

2.500



Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng.


- Trường hợp có lệnh ATO và giá tham chiếu của lần khớp lệnh trước đó là 26.000 đồng:









Tích luỹ |

Mua |

Giá
|

Bán |

Tích luỹ



13.000
|

10.000
|

30.000
|

10.000
|

31.500





18.500
|

5.500
|

29.000
|


|

21.500





25.500
|

7.000
|

28.000
|


|

21.500





25.500
|


|

27.000
|

10.000
|

21.500





25.500
|


|

26.000
|

10.500
|

11.500






|

3.000
|

ATO
|

1.000
|








Qua sổ lệnh ta có giá khớp lệnh của cổ phiếu XYZ là 28.000 đồng.






TÔI MUỐN HỎI LẠI Ở VÍ DỤ Ở TRÊN! Cái ví dụ về khớp lệnh (cả 2 đều khớp lệnh ở mức 28.000đ)! TÔI THẤY NÓ LÀ SAI! Ở ví dụ đầu tiên, lẽ ra phải khớp lệnh ở giá 29.000đ (vì ở mức giá này, khối lượng khớp lệnh đạt mức cao nhất - 15.500)! Còn ở ví dụ thứ hai, giá khớp phải là 27.000đ, không phải 28.000đ, vì 27.000đ gần giá tham chiếu nhất - 26.000đ! SAI LẦM CỰC KỲ CĂN BẢN!